Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng loài của một số kiểu quần xã thực vật rừng tại khu BTTN bát đại sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.46 KB, 35 trang )

0

Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng loài
của một số kiểu quần xã thực vật rừng tại Khu
BTTN Bát Đại Sơn


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
KBTTN Bát Đại Sơn là một địa điểm có tính chiến lược, quan trọng không
chỉ riêng của Huyện và Tỉnh mà còn của cả Quốc gia bởi các quần xã thực vật rừng
ở đây chủ yếu là rừng phòng hộ đầu nguồn, có tác dụng bảo vệ đất, điều tiết nguồn
nước, chống xói mòn đất, đặc biệt là để bảo vệ nguồn gene các loài động thực
vật..vv
Trong những năm qua cùng với công cuộc xây dựng và phát triển xã hội của
vùng, việc khai thác rừng bừa bãi, tập quán đốt nương làm rẫy, phương thức sử
dụng đất không hợp lý và săn bắt các loài động thực vật của cộng đồng dân cư sống
trong Khu BTTN Bát Đại Sơn đã và đang làm cho HST rừng bị suy thoái nghiêm
trọng. Chính điều đó đã gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống cộng đồng người dân trong khu vực đó, đặc biệt là sự suy thoái nguồn
gene các loài động thực vật..vv
Sự mất rừng sẽ làm suy giảm tính đa dạng sinh vật & suy giảm nguồn
nước, giảm hiệu lực phòng hộ trong mùa mưa, giảm khả năng cung cấp nước tưới
trong mùa khô. Sự mất rừng còn làm tăng nhiệt độ trong vùng, giảm năng suất các
quần xã và HST.
Tính đa dạng loài là trung tâm và là cơ sở nghiên cứu tính đa dạng sinh vật.
Do tính khác chất về các nhân tố sinh thái và sự can thiệp của con người ở mức độ
khác nhau theo thời gian và không gian mà phát sinh hiện tượng sai khác rõ rệt về
tính đa dạng loài thực vật trong cảnh quan rừng. Nắm vững động thái theo thời gian
và không gian của tính đa dạng loài thực vật không chỉ có ý nghĩa lý luận quan


trọng đối với việc lý giải sự hình thành và duy trì cơ chế của tính đa dạng loài tại
KBTTN, mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc thực thi các biện pháp bảo tồn và
kinh doanh tính đa dạng thực vật.
Hiện nay cũng đã có một số các công trình nghiên cứu về các lĩnh vực như;
quản lý bảo vệ và sử dụng các loại tài nguyên như TN động thực vật, TN nước, TN
đất v.v…, hiểu quả của QLBV rừng đặc dụng trọng bảo vệ và phát triển lâm sản


2

ngoài gỗ, trong phát triển KT-XH... tại khu vực Khu BTTN.Tuy vậy, Nghiên cứu về
kết cấu không gian và tính đa dạng loài của một số quần xã thực vật rừng tại khu
vực này là hầu như chưa có.
Cho nên để bổ sung thêm các dự liệu cho khu vực và phần nào giải quyết các
tồn tại đã nêu trên, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng
loài của một số kiểu quần xã thực vật rừng tại Khu BTTN Bát Đại Sơn ”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tinh hình nghiên cứu ở trên thế giới.
1.1.1 Nghiên cứu về phân loại quần xã thực vật rừng
(1) Khái niệm về kiểu rừng
“Kiểu rừng là một khu rừng hoặc là một tập hợp các mảnh rừng có đặc điểm
chung về điều kiện thực vật rừng (đất và khí hậu), thành phần loài cây, số tầng thứ,
hệ động vật và có cùng yêu cầu các biện pháp kinh doanh như nhau trong các điều
kiện kinh tế xã hội giống nhau” V.N Sucasep, 1964.
(2). Khái niệm Kiểu thảm thực vật (kiểu rừng-vegetation type) là tập hợp

các cây cỏ lớn đem lại một hình dáng đặc biệt cho cảnh quan, bao gồm những cây
cỏ khác loài nhưng cùng chung một dạng sống ưu thế. Nó là những thực thể sinh vật
tồn tại khách quan và phổ biến trong tự nhiên. Định nghĩa này được thông qua ở Hội
nghi quốc tế thực vật học lần thứ VII tại Paris (1957).
(3) Tiến triển nghiên cứu về phân loại rừng
Vấn đề phân loại rừng là một ván đề còn rất nhiều tranh luận, đặc biệt là đối
với rừng nhiệt đới. Đối với Quốc gia và khu vực khác nhau sẽ có đối tượng nghiên
cứu khác nhau và phương pháp nghiên cứu đối với mỗi quần xã cụ thể cũng không
giống nhau, nguyên tắc và phương pháp phân loại QXTVR cũng có sự sai khác
tương đối lớn, thậm chí trở thành các học phái khác nhau và có thể xuất hiện học
phái rất quan trọng đặc sắc.
Các phương pháp phân loại quần xã hiện nay rất nhiều quan điểm
khác nhau và có thể phân thành hai hướng chính:
+ Thứ nhất là ở thời kỳ đầu có các nhà sinh thái học thực vật như ở Nga có
V.N Sucasep (1910,) nước Pháp có Braun – Blanquet (1913), Học giả nước Mỹ F.E
Clements (1916)… họ đã cho rằng quần xã là một đơn vị tự nhiên, có sẵn biên giới
rõ ràng và giữa các quần xã có vùng đêm, có thể phân chia. Vì vậy, có thể dựa vào
loài cây giống nhau để tiến hành phân loại. Quan điểm này được gọi là “Lý luận


4

đơn vị quần hợp” (association unit theory). (Ghi chú: Trong vùng đêm có hiện
tượng hiệu ứng, nên số loài sẽ nhiều hơn so với các quần xã lân cận, nếu giống bên
nào nhiều hơn thì thuộc về quần xã đó).
+ Quan điểm thứ hai là quan điểm cá thể luận (individual theory), Họ cho
rằng quần xã có tính liên tục, không có biên giới rõ ràng, nó là một tổ hợp các quần
thể khác nhau, mà quần thể là độc lập. Họ cho rằng phân loại quần xã ở thời kỳ đầu
đều là lựa chọn các ÔTC điển hình có tính đại biểu cho quần xã, nếu như không
điển hình thì sẽ phát hiện đa số các quần xã là vùng đêm - trung gian hay ở giai

đoạn quá độ. Tình hình gián đoạn không liên tục gần như phát sinh ở sinh cảnh
không liên tục. Thí dụ như sự cải biến về điều kiện địa hình, đá mẹ, thổ nhưỡng; sự
can thiệp của con người; cháy rừng; sâu bệnh động vật gây hại v.v…Còn ở dưới
điều kiện khác thì sinh cảnh và quần xã đều liên tục. Ví thế họ cho rằng nên sử dụng
phương pháp phân tích thang bậc sinh cảnh, tức là theo thứ tự (ordination) để
nghiên cứu sự biến đổi quần xã, mà không nên sử dụng phương pháp phân loại.
(Kiểu như vẽ bản đồ đất trên thực địa).
Thực tế chứng minh, sự tồn tại của QXTVR có tính hai mặt: Một là có tính
liên tục, mặt khác là có tính gián đoạn- tính không liên tục,.Tuy nhiên phương pháp
nghiên cứu biến đổi dần theo thang bậc (tuần tự) thích hợp đối với quần xã có tính
liên tục; Còn phân loại thì thích hợp đối với quần xã có tính gián đoạn rõ ràng,
nhưng nếu như kết quả của phương pháp tuần tự tạo thành một số điểm tập trung thì
cũng có thể đạt đến mục đích phân loại; Đồng thời, nếu như phân loại trùng lặp,
cũng có thể phản ảnh tính liên tục của quần xã. Vì vậy 2 phương pháp của hai quan
điểm trên gần giống nhau, đều có thể phản ảnh tính liên tục và tính gián đoạn của
quần xã, chỉ là nghiêng về 1 phía nào đó, nếu như kết hợp sử dụng cả hai phương
pháp trên thì hiệu quả sẽ càng tốt hơn.
Công tác phân loại quần xã có thể phân chia theo điều kiện tự nhiên và theo
con người, Trong nghiên cứu sinh thái học thì phân loại theo điều kiện tự nhiên,
Trong hệ thống phân loại tự nhiên có nhiều học giả, họ phân loại trên cơ sở khác
nhau, có người lấy tổ thành khu hệ thực vật làm cơ sở phân loại, có người lấy ngoại


5

mạo sinh thái làm cơ sở, cũng có người dựa vào đặc trưng động thái làm cơ sở,
nhưng họ đều không không theo 1 hệ thông phân loại nào cả, họ đều phải dựa vào
đặc trưng của bản thân quần xã thực vật để làm căn cứ phân loại, và họ cũng rất chú
ý đến quan hệ sinh thái của quần xã, bởi vì phân loại theo đặc trưng của bản thân
đối tượng nghiên cứu so với các phân loại khác nó càng có tính tự nhiên hơn.

Từ những năm 30 của thế kỷ 20 Ramenssky đã đề xuất khái niệm về thứ tự
sắp xếp và đã phát triển thành 1 loại phương pháp sắp xếp trật tự đơn giản. Đến sau
những năm 50 phương pháp này đã trở thành phương pháp sắp xếp đa dạng phổ
biến và phạm vi áp dụng rộng rãi hơn trong nghiên cứu thực bì, như phương pháp
bình quân gia quyền, phương pháp phân tích trực tiếp, phương pháp bình quân
tương hỗ v.v....
Theo Schmitthusen (1959), ở châu Âu có hệ thống phân loại thảm
thực vật chủ yếu là hệ thống phân loại các quần xã thực vật của Braun – Blanquet
(1928), được thực hiện chủ yếu bởi các nhà thực vật học theo trường phái của Pháp
và hệ thống phân loại các quần thể thực vật được thực hiện bởi những nhà địa thực
vật của Đức (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004) [ 26 ]
Ở Phần Lan, Caiande A.K. chủ trương phân loại rừng dựa vào thực
vật thảm tươi. Ông cho rằng, trong lâm phần thành thục, tổ thành thảm tươi không
chỉ phụ thuộc vào hoàn cảnh sinh thái môi trường mà còn phụ thuộc vào cả tổ thành
loài cây gỗ của lâm phần. Theo đó, thảm tươi là chỉ tiêu tốt nhất để xem xét tính
đồng nhất sinh học của môi trường, kể cả tính đồng nhất về hiệu quả của thực vật
rừng. Tuy thế, điều này đã không hoàn toàn đúng vì thực tế thảm tươi có khả năng
chỉ thị nhưng không có khả năng chỉ thị cho tất cả các điều kịên lập địa. Ngoài ra
các yếu tố bên ngoài như: lửa rừng, khai thác… cũng ảnh hưởng lên thảm tươi (ghi
theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004) [12 ]
Ở Hoa Kỳ, phân loại rừng chủ yếu theo học thuyết cực đỉnh (Climax)
của Colleman. Phân loại theo Climax tạo cho quần xã thực vật ổn định trong quá
trình phát triển lâu dài trên những vùng lãnh thổ rộng lớn với đất đai đã được hình
thành từ lâu. Khí hậu là nhân tố để xác định Climax. Ngoài khái niệm Climax, các


6

nhà lâm học Hoa kỳ còn đưa ra khái nịêm tiền đỉnh cực (á đỉnh cực), đơn đỉnh cực,
đa đỉnh cực (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004) [ 29 ]

Ở vùng nhiệt đới, theo Thái Văn Trừng (1978), có lẽ Schimper (1918)
là người đầu tiên đưa ra hệ thống phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới (ghi theo
Thái Văn Trừng 1978) [ 14 ]. Trong hệ thống này Schimper đã phân chia thảm thực
vật thành quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng núi. Trong quần hệ
khí hậu lại được phân chia thành 4 kiểu: Rừng thưa, rừng gió mùa, rừng trảng, rừng
gai; ngoài ra còn có thêm 2 kiểu là: Thảo nguyên nhiệt đới và hoang mạc nhiệt đới.
Rubel, Ilinski, Burt, Aubréville...chỉ căn cứ vào độ tán che trên mặt
đất của tầng ưu thế sinh thái để phân biệt các kiểu quần thể thưa thành: Rừng thưa
và trảng chuông (ghi theo Thái Văn Trừng 1978) [15 ]
Schmithusen (1959), thảm thực vật trái đất được chia thành 9 lớp
quần hệ là: Lớp quần hệ rừng, lớp quần hệ cây bụi, lớp quần hệ sa- van và đồng cỏ,
lớp quần hệ đồng cỏ và nửa cây bụi, lớp quần hệ thực vật sống 1 năm, lớp quần hệ
hoang mạc, lớp quần hệ thực vật hồ nước nội địa và lớp quần hệ thực vật biển (ghi
theo Thái Văn Trừng 1978) [ 15 ]
Gần đây, các nhà sinh thái và địa thực vật Đức đã phân chia thảm thực
vật thành 16 kiểu quần hệ: Rừng mưa nhiệt đới, rừng mưa Á nhiệt đới, rừng mưa
lạnh ôn đới, rừng xanh mưa mùa, rừng lá rộng xanh mùa hè, rừng lá kim rộng ôn
đới, kiểu quần hệ cây gỗ có gai, kiểu cây gỗ có lá rộng, kiểu thảo nguyên rừng, kiểu
trảng cỏ nhiệt đới, kiểu thảo nguyên ôn đới, kiểu đầm lầy, kiểu hoang mạc nóng và
kiểu hoang mạc khô lạnh (ghi theo Thái Văn Trừng 1978) [ 2 ]
UNESCO (1973) đã công bố một khung phân loại thảm thực vật thế
giới dựa trên nguyên tắc ngoại mạo cấu trúc và được thể hiện trên bản đồ 1:
2.000.000. Đây là khung phân loại hiện nay được sử dụng phổ biến phục vụ cho
công tác bảo tồn trên toàn thế giới và đã được Phan Kế Lộc (1985), Nguyễn Nghĩa
Thìn (1997, 2004, 2005) áp dụng (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2005)
Năm 1980 Hill và Gauch đã đề xuất phương phá phân tích đối ứng xu
thế (Detrended Correspondence Analysis, DCA), đây là do phương pháp bình quân


7


tương hỗ (reciprocal averaging, RA) chỉnh sửa mà thành. Có thể dùng DCA để phân
tích hôi qui, kết hợp ứng dụng phương pháp phân tích tương quan, đồng thời nó là
phương pháp thông dụng hơn làm cho phương pháp DCA được áp dụng nhiều hơn
trong nghiên cứu sinh thái rừng.

Phương pháp phân loại theo số lượng thực bì là 1

loại phương pháp phân loại được ứng dụng trong phạm vi rộng, Bao gồm phương
pháp phân tích mối quan hệ và phân tích thông tin. Sự phát triển của nó cùng với sự
phát triển của máy vi tính, phương pháp phân tích đa nguyên, phương pháp cá thể
gần nhất, phương pháp hình tròn, phương pháp tổ bình quân v.v...Trong đó họ cho
rằng phương pháp tổ bình quân được coi là phương pháp mãn nguyện nhất.
Năm 1975 Hill và các tác giả khác đã phân tích một số loại chỉ tiêu và hình
thành phương pháp phân tích chỉ thị hai chiều gọi là phương pháp TWINSPAN, nó
là cơ sở lý luận để phân loại thực vật. Kết quả phân loại cho thấy phù hợp với qui
luật phân bố tự nhiên của thực bì rừng, đồng thời nó có trình tự thông dụng của
quốc tế. Vì vậy mà nó đã trở thành phương pháp phân tích đa nguyên thông dụng
nhất hiện nay. Những năm gần đây vừa xuất hiện 1 số phương pháp phân loại mới,
Nhưng phương pháp TWINSPAN vẫn gữi được địa vị chính trong phân loại thực bì.
1.1.2. Về hệ thực vật.
Việc nghiên cứu các hệ thực vật trên thế giới đã có từ lâu, tuy nhiên những
công trình nghiên cứu có giá trị lại chủ yếu xuất hiện vào thế kỷ XIX – XX như:
Thực vật trí HongKong (1861), Thực vật chí Australia (1866), Thực vật trí rừng Tây
Bắc và trung tâm Ấn độ (1874), Thực vật trí Ấn độ 7 tập (1872 – 1897), Thực vật trí
Miến Điện (1877), Thực vật trí Malaysia (1892 – 1925), Thực vật trí Hải Nam
(1972 – 1977), Thực vật trí Vân Nam (1977) ..
Ở Nga, từ 1928 đến 1932 được xem là thời kỳ mở đầu cho thời kỳ
nghiên cứu hệ thực vật cụ thể. Tolmachop A.I cho rằng “ Chỉ cần điều tra trên một
diện tích đủ lớn để có thể bao chùm được sự phong phú của nơi sống nhưng không

có sự phân hoá mặt địa lý”. Ông gọi đó là hệ thực vật cụ thể. Tolmachop đã đưa ra
một nhận định là số loài của một hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường là


8

1500 – 2000 loài.
Các nhà sinh vật học Nga tập chung các nghiên cứu vào việc xác định
diện tích biểu hiện tối thiểu để có thể kiểm kê được đầy đủ nhất số loài của từng hệ
thực vật cụ thể. Việc xác định diện tích biểu hiện gồm các giai đoạn sau:
1.

Kiểm kê số loài trên diện tích hạn chế nhất định.

2.

Mở rộng dần ra vùng đồng nhất và điều kiện địa lý tự nhiên để

thấy mức độ tăng số lượng loài.
3.

Khi số loài tăng không đáng kể thì xác định đó là diện tích biểu

hiện tối thiểu.
1.1.3. Tiến triển nghiên cứu về cấu trúc rừng
* Về cấu trúc tổ thành tầng cây cao
Sự phong phú của hệ thực vật rừng mưa nhiệt đới được nhiều nhà khoa học ghi
nhận. Theo Schimper (1935) ở rừng Bắc Mỹ, trên diện tích 0,5 ha có đến 25 ÷ 30 loài
cây gỗ lớn; Brown (1941) cũng cho biết ở rừng mưa châu Âu hoặc Bắc Mỹ trong
trường hợp cực đoan, rừng có thể bao gồm 20 ÷ 25 loài cây gỗ.

Theo Richards P.W (1952) trong rừng mưa nhiệt đới trong mỗi hecta không có
mấy khi ít hơn 40 loài cây gỗ lớn, mà có trường hợp còn đến trên 100 loài. Nhiều loài
cây gỗ lớn sinh trưởng hỗn hợp với nhau theo tỷ lệ khá bằng nhau, nhưng cũng có khi
chỉ có một hoặc hai loài chiếm ưu thế.
Ở châu Á, trong rừng thứ sinh nhiệt đới vùng Shanxin - Trung Quốc, Zeng
và cộng sự (1998) đã thống kê khoảng 280 loài cây dược liệu, 80 loài cây có dầu và
20 loài cây có sợi cũng như một số loài cây gỗ có giá trị khác (dẫn theo Zaizhi Z).
* Nghiên cứu về tổ thành lớp cây tái sinh rừng
Theo quan điểm của các nhà lâm học, hiệu quả của tái sinh rừng được xác
định bởi mật độ, tổ thành loài cây, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố. Vai trò
của tái sinh rừng hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại của thảm thực vật, tái
sinh rừng là tiền đề cho quá trình diễn thế rừng đảm bảo rừng luôn trong kiểu vận


9

động. Do vậy có thể nói những nghiên cứu về tái sinh rừng đã góp phần làm sáng tỏ
các quy luật tồn tại và phát triển của rừng cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít được
nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa thường chỉ
tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến
đổi. Van steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa
nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các
loài cây ưa sáng.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng, người ta nhận thấy tầng cây và tầng
cây bụi qua quá trình sinh trưởng, thu nhận ánh sáng, các chất dinh dưỡng sẽ ảnh
hưởng đến cây tái sinh. Những lâm phần thưa bị khai thác nhiều, tạo ra nhiều
khoảng trống lớn, tạo điều kiện cho cây bụi, thảm tươi phát triển mạnh. Trong điều
kiện đó chúng là nhân tố cản trở sự phát triển và khả năng sinh tồn của các cây tái
sinh. Nếu lâm phần kín, đất khô, nghèo dinh dưỡng cây bụi thảm tươi phát triển

chậm tạo điều kiện cho cây tái sinh vươn lên (Xannikow 1967; Vipper 1973) ( dẫn
theo Nguyễn Văn Thêm (1992) ) (3).
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy
mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với diện tích ô đo đếm thông
thường từ 1 đến 4 m2. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi trong điều tra nhưng số
lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng. Để giảm sai số
trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1950) đã đề nghị một phương pháp
"điều tra chẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai
đoạn phát triển của cây tái sinh ở các kiểu rừng khác nhau (7).
1.1.4. Nghiên cứu về tính đa dạng loài trong các qxtv rừng
Loài là do cơ thể sinh vật tiến hóa mà thành, do nó chiếm được 1 không gian
nhất định, quần thể loài có sẵn số lượng cá thể nhất định trong thực tế hoặc bị thay đổi
khi cách ly.
Tính đa dạng loài là hình thức biểu hiện của tính đa dạng sinh vật chung, nó là


10

độ lượng về tính phức tạp của cấu trúc và chức năng quần xã, no bao gồm có mấy hàm
ý như sau:
Tính đa dạng loài của 1 khu vực địa lý nhất định là tính đa dạng loài nghiên cứu
trong phạm vi khu vực đó; Là tổng số loài trong khu vực, chủ yếu theo góc độ phân
loại học, hệ thống học và địa lý học đối với việc nghiên cứu tình hình loài động, thực
vật trong 1 khu vực. Cũng còn được gọi là tính đa dạng loài khu vực.
Tính đa dạng loài động thực vật của quần xã - Là nghiên cứu cấu trúc theo chiều
nằm ngang - theo góc độ sinh thái học; Ở đây chú trọng ý nghĩa sinh thái học của tính
đa dạng loài; Là chỉ trình độ đồng đều về sự phân bố các loài trên phương diện sinh
thái học. Thường được nghiên cứu trên một bộ phận diện tích của quần xã hoặc trên
các OTC, ôdb...Tính đa dạng loài cũng còn được gọi là tính đa dạng sinh thái hoặc tính
đa dạng quần xã.

Từ năm 1943, Wilianms đã đề xuất khái niệm về “Tính đa dạng loài vật“ và
Fisher đề xuất khái niệm về chỉ số tính đa dạng loài, cho đến nay cũng đã không ngừng
được hoàn thiện thêm về phương pháp xác định tính đa dạng loài của quần xã. Đối với
phương pháp xác định không chỉ có phương pháp Magurran - được đánh giá là tương
đối tỷ mỉ và chính xác, mà còn có phương pháp của Whitaker - Xác định tính đa dạng
loài của quần xã hoặc tính đa dạng HST,; Theo ông ta thì nên phân ra tính đa dạng α-,
tính đa dạng β- , tính đa dạng γ và các chỉ số của nó.
Tính đa dạng loài của 1 hệ tiến hóa hoặc của 1 không gian tiến hóa nhất định, từ
góc độ diễn hóa của sinh vật để xem xét thì qui luật biến hóa về tính đa dạng loài cũng
tùy theo thời gian và không gian khác nhau mà có sự biến hóa không giống nhau,
không chỉ bản thân loài vật, mà còn có cả nguồn gốc, sự phát triển, quá trình thoái hóa
và tiêu vong....chính là qui luật diễn hóa của một chỉnh thể tính đa dạng loài vật và nó
cũng có đặc thù riêng.
Xác định các chỉ số tính đa dạng loài sinh vật cũng tùy theo tính chất mà có thể
phân thành 4 loại chỉ số sau:
Chỉ số độ phong phú loài
Chỉ số tính đa dạng loài


11

Chỉ số độ đồng đều
Chỉ số độ phong phú loài chủ yếu là xác định mức độ phong phú về loài sinh vật
được biển hiện về mặt số lượng loài vật trong một phạm vi không gian nhất định.
Thường sử dung có các chỉ số như: Chỉ số Patrick, Chỉ số Margalef và Chỉ số
Menhinick.
Chỉ số tính đa dạng loài sẽ là hàm số của sự kết hợp giữa độ nhiều loài và độ
phong phú loài sinh vật mà thành. Trong đó thường sử dụng Chỉ số Shannon- Weinerr,
Chỉ số Simpson và chỉ số Pielou.
Chỉ số độ đồng đều loài là sự kết hợp giữa độ phong phú và độ đồng đều mà

thành một lượng thông kê đơn nhất. Số loài trong quần xã nghiên cứu và tổng số cá thể,
khi số lượng cá thể bình quân của các loài, quần xã có sẵn tính đa dạng cao nhất - cực
đại. Chỉ số độ đồng đều thường được dùng là: Chỉ số Hurlrrt, chỉ số pielou E1, chỉ số
Sheldon E2, chỏ số Heip E3, chỉ số Hill E4 và chỉ số Hill E5) . Trong đó có chỉ số
Pielous và chỉ số Âlatalo là ứng dụng có hiệu quả tương đối tốt (theo Alatalo). Chỉ số
độ ưu thế sinh thái là do ứng dụng kết hợp với chỉ số khác mà thành, có người sử dụng
bằng cách so sánh tương đối.
Hiện nay vấn đề ĐDSH và bảo tồn ĐDSH đã trở thành một chiến lược toàn
cầu, có nhiều tổ chức ra đời để giúp đỡ, hướng dẫn và tổ chức đánh giá, bảo tồn, phát
triển đa dạng sinh học trên phạm vi toàn thế giới: Hiệp hội tổ chức Quốc tế bảo vệ
thiên nhiên (IUCN), chương trình môi trường liên hợp quốc (UNEP), Quỹ bảo tồn và
bảo vệ thiên nhiên (WWF)…Nhu cầu cơ bản và sự sống còn của chúng ta phụ thuộc
vào tài nguyên của trái đất, nếu nguồn tài nguyên đó giảm sút thì cuộc sống của nhân
loại sẽ bị đe doạ. Để tránh hiểm họa đó chúng ta phải tôn trọng tài nguyên của trái đất,
mọi sự phát triển đều phải theo hướng phát triển bền vững. Theo hội nghị thưởng đỉnh
bàn về vấn đề môi trường và đa dạng sinh học tổ chức tại Rio de Janerio (Brazil 1992), 150 nước đã ký công ước về đa dạng và bảo vệ chúng. Năm 1990 WWF đã xuất
bản quấn sách nói về tầm quan trọng của ĐDSH, IUCN, UNEP và WWF đưa ra chiến
lược bảo tồn thế giới…tất cả các quấn sách đó đều nhằm hướng dẫn và đề ra các
phương pháp bảo tồn ĐDSH, làm nền tảng cho công tác bảo tồn và nền tảng trong


12

tương lai (dẫn theo Nguyễn Nghĩa Thìn).
Ở vùng nhiệt đới, có lẽ Schimper (1918) là người đầu tiên đưa ra hệ
thống phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới. Trong hệ thống này Schimper đã phân
chia thảm thực vật thành quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng núi.
Trong quần hệ khí hậu lại được phân chia thành 4 kiểu: Rừng thưa, rừng gió mùa,
rừng trảng, rừng gai; ngoài ra còn có thêm 2 kiểu là: Thảo nguyên nhiệt đới và
hoang mạc nhiệt đới (theo Thái Văn Trừng).

Rubel, Ilinski, Burt, Aubreville...chỉ căn cứ vào độ tán che trên mặt
đất của tầng ưu thế sinh thái để phân biệt các kiểu quần thể thưa thành: Rừng thưa
và trảng chuông (dẫn theo Thái Văn Trừng 1978).
Theo WWF(1989), đã định nghĩa về ĐDSH: “Đa dạng sinh học là sự
phồn thịnh của sự sống trên Trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật,
là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng
tồn tại trong môi trường”.
Việc nghiên cứu các hệ thực vật và thảm thực vật trên thế giới với nhiều
bộ thực vật chí của các nước đã hoàn thành, những công trình nghiên cứu có giá trị
xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX - XX như: Thực vật chí Hồng Kông (1981); Thực vật chí
Australia (1866); Thực vật chí Ấn Độ (1872-1897); Thực vật chí Miễn Điện (1877);
Thực vật chí Malayxia (1892-1925)... Đây là những đóng góp quan trọng để đánh giá
tính đa dạng sinh học của hệ thực vật trên thế giới.
Bên cạnh đó có nhiều công trình khoa học khác nhau ra đời và hàng
ngàn cuộc hội thảo được tổ chức nhằm thảo luận về quan điểm, phương pháp luận và
thông báo các kết quả đã đạt được ở khắp nơi trên toàn thế giới.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
1.2.1 Nghiên cứu về phân loại rừng
Vấn đề phân loại rừng Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 20 đã được nhiều
tác giả Việt Nam và nước ngoài nghiên cứu (A.Chevalie, 1918; P.Maurand, 1943,
1953; B. Rôlét, Lý Văn Hội và Neang Sam Oil, 1952; Dương Hàm My (Trung Quốc)


13

1956; J. Vidal, 1958; B. Rôlét, 1960; Thái Văn Trừng, 1960, 1963, 1964, 1970; M.
Schmid, 1962; Trần Ngũ Phương, 1970,...). Trong các hệ thống phân loại nói trên, hệ
thống Thái Văn Trừng đang được chú ý vì những nguyên tắc, đơn vị và tiêu chuẩn
phân loại được nêu lên với những căn cứ rõ ràng, khoa học và được thừa nhận rộng rãi.
* Phương pháp phân loại rừng tự nhiên hỗn giao của Thái Văn Trừng

[1970,1978]
Căn cứ vào những tiêu chuẩn phân loại thảm thực vật rừng của
GS.TSKH.Thái Văn Trừng (1978) ⌠14⌡ để phân chia kiểu rừng tự nhiên hỗn giao
tại khu vực nghiên cứu:
a. Đơn vị phân loại: Dựa theo phương pháp của Thái Văn Trừng, tức là
dùng “Thảm thực vật’’ làm đơn vị phân loại. Kiểu thảm thực vật (kiểu rừng) là tập
hợp các cây cỏ lớn đem lại một hình dáng đặc biệt cho cảnh quan bao gồm những
cây cỏ khác loài nhưng cùng chung một dạng sống ưu thế. Nó là những thực thể
sinh vật tồn tại khách quan và phổ biến trong tự nhiên .
Trong một kiểu thảm thực vật, do tổ thành loài cây khác nhau sẽ xuất
hiện các Phức hợp (xã hợp) thực vật khác nhau.
Tuỳ theo mức độ ưu thế của các loài trong quần xá mà hình thành nên
quần hợp thực vật; ưu hợp thực vật và phức hợp thực vật.
Tại các vùng nhiệt đới khác, ở rừng hỗn giao tự nhiên không thấy xuất hiện
quần hợp và ưu hợp thực vật, mà chỉ thấy xuất hiện các phức hợp thực vật khác
nhau, tức là loài ưu thế không rõ rệt.
b.Căn cứ phân loại:
- Dựa vào 5 nhóm nhân tố sinh thái phát sinh thảm thực vật rừng
- Dựa vào 4 tiêu chuẩn là: Dạng sống, độ tàn che, hình thái lá & trạng mùa
- Dựa vào các đặc trưng QXTVR để tiến hành phân loại thực bì rừng:
1- Tổ thành loài thực vật của QXTVR.
2- Ngoại mạo và cấu trúc của QXTVR.


14

3- Đặc trưng địa lý sinh thái.
4- Đặc trưng động thái diễn thế của QXTVR ...
.


Giữa các đặc trưng này có liên hệ mật thiết và có quan hệ tương quan

với các đặc trưng môi trường của quần xã. Vì vậy, nguyên tắc lấy đặc trưng tổng
hợp của QXTV làm cơ sở, đồng thời đã chú ý đến quan hệ sinh thái của quần xã để
tiến hành phân loại họp lý.
Căn cứ vào nguyên tắc trên để phân loại QXTVR thành hệ thống 3 cấp vị
sau:
Cấp 1 - Cấp cao: Kiểu thảm thực bì rừng - Kiểu rừng (Vegetation).
Cấp 2 - Cấp trung: Kiểu phụ rừng (Subvegetation).
Cấp 3 - Cấp cơ bản: Phức hợp (hay xã hợp) - Association).
1. Kiểu rừng- Là đơn vị phân loại cấp cao trong hệ thống phân loại của Thái
Văn Trừng: Là liên hợp những quần xã thực vật có dạng sống của nhóm loài lập
quần (hay nhóm loài ưu thế) giống nhau, mà chúng có quan hệ sinh thái thống nhất
với điều kiện nhiệt ẩm, như “Rừng kín lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới núi
tháp”, “Rừng kín lá rộng rụng lá mưa mùa nhiệt đới núi trung bình”. Kiểu rừng có
kết cấu, tính chất sinh thái và có quá trình phát sinh và phát triển giống nhau. Do đó
mà nó có sẵn quá trinh trao đổi năng lượng và vật chất giống nhau.
2. Kiểu phụ (vegetation Subtype): Là đơn vị Cấp trung: Là trong kiểu rừng
có sự khác nhau về kết cấu tầng phiến ưu thế hoặc tầng phiến chỉ thị, Sự khác nhau
về tổ thành loài cây ưu thế, nó là do sự khác nhau về đá mẹ thổ nhưỡng, địa hình,
về mức độ tác động... dẫn đến hình thành các kiểu phụ, như kiểu phụ thổ nhưỡng
hoặc kiểu phụ nhân tác....
Nhưng nếu căn cứ vào kết cấu quần xã thì có thể thấy rừng ở khu vực này là
Rừng hỗn giao nhiều loài cây, tổ thành loài tương đối phức tạp, loài ưu thế không rõ
ràng, tức là còn tồn tại các xã hợp hay phức hợp trong các kiểu phụ. Cho nên chúng
tôi thấy cần thiết phải phân chia thêm các cấp vị phân loại nhỏ hơn để tiện cho việc
bảo tồn – Đó là các phức hợp.
3. Phức hợp hay xã hợp - Cấp thấp, là đơn vị cơ bản của hệ thống phân loại



15

rừng. Là trong mỗi kiểu phụ có sự khác nhau về nhóm loài cây ưu thế.
1.2.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
1.2.2.1. Cấu trúc tổ thành tầng cây cao
Nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam trên quan điểm hệ sinh
thái, Thái Văn Trừng (1963, 1978, 1999)⌠14⌡ đã dựa trên số lượng và sinh khối nhóm
loài ưu thế trong rừng nhiệt đới ẩm Việt Nam để phân tích các “ưu hợp” và “phức
hợp”. Nhóm loài ưu thế trong các ưu hợp đề nghị không quá 10 loài, tỷ lệ cá thể của
mỗi loài ưu thế chiếm 5 % và tổng số cá thể của 10 loài ưu thế đó phải chiếm 40 ÷ 50
% tổng số cá thể cây của các tầng lập quần trong quần thể trên đơn vị diện tích điều tra.
Trường hợp độ ưu thế của các loài cây không rõ ràng gọi là các phức hợp (9).
Trong rừng tự nhiên hỗn loài ở Việt Nam, hiếm khi chỉ có một loài ưu
thế duy nhất tạo thành các quần hợp như vùng ôn đới. Theo Nguyễn Hồng Quân
(1982), trong rừng loại IVB ở Kon Hà Nừng, trên diện tích một ha có khoảng 60 loài,
nhưng các loài có tổ thành lớn nhất cũng không vượt quá 10%. Nguyễn Văn Tương
(1983), cho rằng trong rừng tự nhiên hỗn loài, chỉ tính loài cây gỗ từ kiểu sào trở lên
cũng có đến ba bốn chục loài trên một ha, nhưng trong đó loài cây gỗ lớn có thể vươn
đến chiều cao 30 m chỉ từ 10÷20 %. Nguyễn Ngọc Lung (1991), qua điều tra các dạng
rừng khí hậu ở Hương Sơn, Kon Hà Nừng và một số địa phương khác, cũng cho biết
trên ô tiêu chuẩn diện tích một ha thường có từ 23÷ 25 loài, với số cây thấp nhất cũng
đạt 317 cây và cao nhất đến 859 cây trên một ha.
1.2.2.2. Về cấu trúc tổ thành cây tái sinh rừng
Thái Văn Trừng (1963, 1978) đã nêu hai cách TSTN của các xã hợp thực
vật rừng nhiệt đới nguyên sinh hay thứ sinh là tái sinh liên tục dưới tán kín rậm của
những loài chịu bóng và tái sinh theo vệt để hàn gắn các lỗ trống đầu tiên với các loài
cây tiên phong. Qua đó tác giả cũng khẳng định ánh sáng là nhân tố sinh thái đã khống
chế và điều khiển quá trình TSTN.
Về ảnh hưởng của nhân tố ánh sáng đến quá trình tái sinh, theo Nguyễn
Hồng Quân (1984) do những cây có đường kính 12 ÷ 30 cm với chiều cao khoảng 11 ÷

20 m, tạo nên tầng tán chính của rừng, tầng này không bị tác động qua khai thác, gây


16

nên sự ứ đọng tán, không cho ánh sáng lọt xuống gây ảnh hưởng đến tái sinh của loài
cây ưa sáng.
Theo Vũ Tiến Hinh (1991) trong rừng tự nhiên thứ sinh hỗn loài khác
tuổi ở lâm trường Hoành Bồ - Quảng Ninh, cây rừng tái sinh liên tục và càng ở tuổi
nhỏ số cây càng nhiều; hệ số tổ thành của tầng tái sinh và tầng cây cao có mối liên hệ
chặt chẽ. Vũ Văn Nhâm (1992) qua nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên ở vùng Đông
Bắc thấy rằng trên các lâm phần có diễn thế rừng ổn định, hệ số tổ thành tầng cây cao
và tầng cây tái sinh thống nhất, còn ở lâm phần có diễn thế không ổn định thì có sự sai
khác rõ rệt.
Nguyễn Vạn Thường (1991) đã tổng kết và đưa ra kết luận về tình hình tái sinh
tự nhiên ở một số khu rừng miền Bắc Việt Nam như sau: Hiện tượng tái sinh dưới tán
rừng của những loài cây gỗ đã tiếp diễn liên tục, không mang tính chu kỳ. Sự phân bố
cây tái sinh rất không đồng đều, số cây mạ chiếm ưu thế rõ rệt so với số cây ở cấp tuổi
khác.
Trần Ngũ Phương (1970) khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới mưa mùa lá
rộng thường xanh đã có nhận xét: “Rừng tự nhiên dưới tác động của con người khai
thác hoặc làm nương rẫy, lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết quả cuối cùng là sự hình
thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm thực vật hoang dã tự nó phát
triển lại thì sau một thời gian dài trảng cây bụi, trảng cỏ sẽ chuyển dần lên những
dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình tái sinh tự nhiên và cuối cùng rừng khí
hậu sẽ có thể phục hồi dưới dạng gần giống rừng khí hậu ban đầu”.
1.2.2.3. Về tính đa dạng thực vật rừng
1. Về thảm thực vật.
Thảm thực vật (Vegetation) là lớp phủ trên toàn bộ bề mặt trái đất (mặt đất,
trong nước) hay một điểm cụ thể nào đó với nhiều quần thể khác nhau. Mỗi quần

thể thực vật có hình dạng, cấu trúc, thành phần, ranh giới, trạng mùa, động thái,
vùng phân bố,…khác nhau. Thảm thực vật thường được chia thành các kiểu chính
và kiểu phụ thảm thực vật.


17

Thảm thực vật rừng hay lớp phủ cây cỏ trên mặt đất, gồm các quần
thể thực vật than gỗ. Chẳng những cung cấp lâm sản phục vụ đời sống con người
mà còn là hiện tượng tự nhiên trong Thiên Nhiên, có tác dụng bảo vệ môi trường
sinh thái, hạn chế tác hại của thiên tai như hạn hán, lũ lụt, bão, lốc...[ ]
Từ lâu người ta đã biết phân biệt loài cây, loài cỏ này với loài cây, loài cỏ
khác, nhận thức được khu hệ thực vật gồm các loài cây, cỏ phân bố ở một địa
phương và sắp xếp chúng trong một hệ thống phân loại tự nhiên, khái niệm Thảm
thực bì hay thảm thực vật bao gồm các quần thể thực vật ...[ ]
2. Về đa dạng sinh học.
Đối với Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, vấn đề
nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học đang được quan tâm hàng đầu. Trước đây,
những quan niện về đa dạng sinh học cũng có những điểm chưa thống nhất, chưa
đầy đủ hoặc chưa rõ rang.
Trong chương trình hành động đa dạng sinh học Việt Nam cũng nêu
ra một khái niệm về đa dạng sinh học “Là tập hợp tất cả các nguồn sinh vật sống
trên hành tinh bao gồm tổng số các loài động vật và thực vật; tính đa dạng và sự
phong phú trong từng loài, tính đa dạng hệ sinh thái của các cộng đồng sinh thái
khác nhau; hoặc tập hợp các loài sống ở các vùng khác nhau trên thế giới với các
hoàn cảnh khác nhau”. Định nghĩa này là chưa đầy đủ, bởi nó mới chỉ đề cập đến
động vật và thực vật, còn các sinh vật khác thì không thấy nói đến.
Một định nghĩa khác do Quỹ Quốc tế và Bảo tồn thiên nhiên WWF
(1989) đề xuất như sau: “Đa dạng sinh học là sự phồn thịnh của sự sống trên trái
đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng

trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi
trường”. Định nghiã này có phần đầy đủ hơn ở chỗ: đã nêu ra được sự tồn tại của cả
động vật, thực vật và vi sinh vật trong cùng một môi trường sống, định nghĩa cũng
đã chỉ ra được đa dạng sinh học là những gen chứa đựng trong các loài và là những
hệ sinh thái vô cùng phức tạp.


18

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây (tháng 6 năm 1992): Công ước về
bảo tồn đa dạng sinh học được thông qua tại hội nghị thượng đỉnh toàn cầu ở Rio de
Janeiro (Braxin) đã đi đến một thống nhất chung về đa dạng sinh học như sau: “ Đa
dạng sinh học là sự biến đổi giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn, bao gồm hệ sinh
thái trên đất liền, trên biển và các hệ sinh thái nước khác, sự đa dạng thể hiện trong
từng loài, giữa các loài và các hệ sinh thái”
Như vậy, đa dạng sinh học phải được tính đến theo ba mức độ: Đa
dạng sinh học ở cấp loài bao gồm toàn bộ sinh vật sống trên trái đất (từ vi khuẩn
đến các loài động, thực vật và các loài nấm). Ở mức độ tinh tế hơn, đa dạng sinh
học bao gồm cả sự khác biệt giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể sống
cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong
một quần thể. Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã, mà
trong đó các loài sinh sống, các hệ sinh thái nơi mà các loài cũng như các quần xã
sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các mối tương tác với nhau.
Tính đa dạng sinh học (biodiversity): tính đa dạng sinh học là thể phức hợp
sinh thái và tổng hòa các loại quá trính sinh thái có tương quan do sinh vật và môi
trường hình thành nên. Chúng bao gồm con số hàng triệu loài động vật, thực vật, vi
sinh vật và các chất di truyền của chúng. Chúng và môi trường sinh tồn hình thành
nên một hệ sinh thái phức hợp gồm 4 tầng thứ:
(1). Tính đa dạng di truyền: Là sự biến hoá di truyền trong loài , Bao gồm
biến dị di truyền trong cùng 1 quần thể và giữa các quần thể của cùng loài. Xác

định nó bao gồm 3 mặt: Nhiễm sắc thể tính đa thái, Chất protein tính đa thái và
DNA tính đa thái (nhiều kiểu hình)
(2). Tính đa dạng loài: Chỉ tính đa dạng loài sinh vật, tức là đa dạng hoá các
loài sinh vật trong 1 khu vực chủ yếu là từ góc độ phân loại học, hệ thống học và
địa lý sinh vật học để tiến hành nghiên cứu tình hình đối với các loài vật trong 1 khu
vực nhất định
(3). Tính đa dạng HST: Chỉ đa dạng hoá về sinh cảnh, quần xã sinh vật và
các quá trình sinh thái trong khu vực và tính đa dạng vê sự sai khác sinh cảnh, sự


19

biến đổi quá trình sinh thái trọng HST
(4). Tính đa dạng cảnh quan: Là chỉ sự đa dạng hoá hoặc tính biến dị về các
yếu tố cảnh quan của các loại hình khác nhau hoặc cảnh quan cấu thành HST về các
mặt kết cấu không gian, cơ chế chức năng và động thái theo thời gian.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra nhận thức chung về các nội
dung của đa dạng sinh học là: Đa dạng di truyền (tức là đa dạng về gen và nhiễm
sắc thể); Đa dạng về Loài; Đa dạng về hệ sinh thái và cảnh quan
3. Về Khu hệ thực vật.
Một trong những công trình nổi tiếng, đó là bộ “Thực vật trí Đông Dương”
do H. Lecomte chủ biên (1907 – 1952). Trong công trình này, các tác giả người
Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực vật có mạch trên toàn bộ
lãnh thổ Đông Dương. Thái Văn Trừng (1978) cũng đã dựa vào công trình này để
thống kê hệ thực vật Việt Nam và biết được có 7.004 loài, 1.850 chi, 289 họ. Riêng
miền Bắc Pócs Tamás (1965) thống kê được 5.190 loài, Phan Kế Lộc (1969) thống
kê và bổ xung, nâng số loài ở miền Bắc lên 1.660 chi và 140 họ. Trong đó có 5.069
loài thực vật hạt kín và 540 loài thuộc các ngành còn lại.
Gần đây, Aubréville khởi xướng và chủ biên bộ “ Thực vật chí
Campuchia, Lào, Việt Nam” (1960 – 1997) cùng với nhiều tác giả khác đến nay đã

công bố 29 tập nhỏ, gồm 74 họ cây có mạch ( chưa đầy 20% tổng số họ đã có ).
Ngoài ra còn có công trình “ Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam ” gồm 6 tập do Lê Khả
Kế chủ biên từ năm 1969 – 1976 , “Cây cỏ miền Nam Việt Nam” của phạm Hoàng
Hộ giới thiệu 5.326 loài, trong đó có 60 loài thực vật bậc thấp và 20 loài Rêu, còn
lại 5.246 loài thực vật có mạch (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn – Nguyễn Thanh
Nhàn, 2004)
Viện Điều tra Quy hoạch rừng Việt Nam (1971 – 1988) đã công bố 7
tập “ Cây gỗ rừng Việt Nam” giới thiệu khá chi tiết cùng với tranh vẽ minh hoạ
nhằm phục vụ cho việc khai thác tài nguyên rừng.
Trong thời gian gần đây, các nhà thực vật Nga và Việt Nam đã hệ
thống lại hệ thực vật Việt Nam đăng trên Kỷ yếu “Cây có mạch của thực vật Việt


20

Nam” (tập 1 – 2, 1996) ( ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn, 2004 ).
Đáng chú ý nhất phải kể đến bộ “Cây cỏ Việt nam” của Phạm Hoàng
Hộ (1991 – 1993) [24] xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt
Nam hai năm (1999 – 2000) [ ], đây là bộ sách khá đầy đủ và dễ sử dụng, góp phần
đáng kể cho khoa học thực vật ở Việt Nam, và là những tài liệu quan trọng làm cơ
sở cho việc đánh giá về đa dạng phân loại thực vật Việt Nam.
Từ năm 1995 – 2003, Nguyễn Nghĩa Thìn cùng một số tác giả khác đã
công bố một số bài báo về đa dạng sinh học của các Vườn Quốc gia, Vùng núi đá
vôi Hoà Bình, Quảng Trị, vùng núi cao Sa Pa..., cùng với cuốn “Cẩm nang nghiên
cứu đa dạng sinh vật” nhằm hướng dẫn cách đánh giá tính đa dạng thực vật của
vùng nghiên cứu cho các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên...
1.2.3 Nghiên cứu về tính đa dạng thực vật trong các QXTVR
Công trình đầu tiên, hoàn chỉnh nhất trong nghiên cứu thực vật ở Việt Nam là
công trình “Thảm thực vật rừng Việt Nam” của cố GS.TS Thái Văn Trừng (19631978). Dựa trên các công trình đã có trước đây kết hợp với nghiên cứu riêng của mình,
tác giả đã thống kê được ở Việt Nam có 7004 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1850

chi và 189 họ. Đồng thời, tác giả cũng đã khẳng định ưu thế ngành hạt kín trong hệ
thực vật Việt Nam với 6336 loài (90,9%), 1727 chi (93,4%), và 239 họ (82,7%) trong
tổng số các taxon mỗi bậc (1).
Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (2004) vấn đề nghiên cứu đa dạng sinh học
ở Việt Nam cũng như trên thế giới được bắt đầu từ những công trình phân loại về
động vật, thực vật, nấm đã được bắt đầu từ rất sớm (8).
Nguyễn Nghĩa Thìn cùng các tác giả khác đã công bố nhiều bài báo về đa
dạng sinh học của KBTTN Cúc Phương, vùng núi đá vôi Hòa Bình, KBT Na Hang,
vùng núi Sapa, vùng ven biển Nam Trung Bộ, vùng núi Quảng Ninh, lưu vực Sông
Đà và các vườn khác như Cát Bà, Bến En, Cát Tiên, Pù Mát, Phong Nha, Ba Bể,
Yôk Đôn, VQG Hoàng Liên Sơn. Qua quá trình nghiên cứu tác giả đã công bố cuốn
cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh học nhằm hướng dẫn cách đánh giá tính đa dạng


21

thực vật của vùng nghiên cứu cho các KBTTN và KBT trong cả nước.
Viện điều tra quy hoạch rừng Việt Nam (1971-1988) đã công bố 7 tập
“Cây gỗ rừng Việt Nam” giới thiệu khá chi tiết cùng với tranh vẽ minh họa nhằm
phục vụ cho khai thác tài nguyên rừng.
Như vậy, có thể thấy các công trình nghiên cứu về hệ thực vật và thảm
thực vật ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu và cuối thế kỷ 20 chỉ dừng lại ở việc thống
kê thành phần loài trên phạm vi một vùng, khu vực nào đó. Việc nghiên cứu ĐDSH,
nhất là đa dạng thực vật bằng phương pháp định lượng còn là vấn đề rất mới mẻ ở
nước ta, tới nay chưa có công trình nào nổi bật. Một phần bởi đây là vấn đề phức
tạp, hơn nữa lại chưa có hệ thống lý luận hoàn chỉnh được đưa ra.


22


Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG,
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Cung cấp cơ sở khoa học cho việc quy hoạch, quản lý, bảo tồn tài nguyên
thực vật rừng và tính đa dạng thực vật của KBTTN Bát Đại Sơn.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định các kiểu rừng chủ yêu ở khu vực nghiên cứu
- Xác định một số đặc điểm về cấu trúc QXTVR chủ yếu của khu vực.
- Xác định đặc điểm tính đa dạng loài thực vật tại khu vực nghiên cứu;
- Đề xuất một số giải pháp quản lý rừng tại khu vực nghiên cứu.

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Một số các kiểu quần xã thực vật điển hình tại
KBTTN Bát Đại Sơn.
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu: Đề tài mới chỉ nghiên cứu ở KBTTN Bát Đại
Sơn.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều tra xác định các kiểu rừng chủ yếu trong KBTTN Bát Đại Sơn

Các kiểu quần xã thực vật rừng tự nhiên chủ yếu.
2.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc các QXTV rừng chủ yếu ở
KBTTN Bát Đại Sơn.
- Đặc điểm cấu trúc tổ thành cây cao theo trị số độ quan trọng IV%
- Đặc điểm cấu trúc tổ thành cây tái sinh tự nhiên trong các QXTVR
- Đặc điểm cấu trúc mật độ, cấu trúc đường kính và chiều cao các
QXTVR



23

2.3.3. Nghiên cứu dặc điểm tính đa dạng loài thực vật trong KBTTN
- Xác định chỉ số độ phong phú, chỉ số độ đồng đều, chỉ số đa dạng loài,
- Đánh giá hiện trạng tính đa dạng loài thực vật quí hiếm và xu thế biến động
của nó trong KBTTN Bát Đại Sơn.
2.3.4. Đề xuất một số giải pháp trong quản lý rừng đặc dụng
- Giải pháp KT-XH
- Giải pháp KT
- Giải pháp khác
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
a. Phương pháp kế thừa tài liệu
Kế thừa các tài liệu, số liệu điều tra về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu cực
nghiên cứu, các tài liệu điều tra ÔTC, tham khảo tài liệu khác có liên quan đến đề tài.
b. Phương pháp điều tra bổ sung trên thực địa


Điều tra xác định các kiểu rừng chủ yếu của khu BTTN theo các tuyến

khác nhau trong khu BTTN


Lập ô tiêu chuẩn (ÔTC):

Trên mỗi một kiểu quần xã thực vật tiến hành lập 3 ÔTC điển hình tạm
thời có diện tích 1000 m2/ô, từ 3 ÔTC tính bình quân thành một ÔTC để phân tích và
đánh giá.



Điều tra tổ thành tầng cây cao: Đo đếm trong ÔTC



Xác định độ tàn che:

Dùng phương pháp vẽ trắc đồ rừng theo phương pháp của Richards và Davis
(1934), biểu diễn trên giấy kẻ ô ly với dải rừng có diện tích 500m 2 (10 x 50m) tỷ lệ
1/200, sau đó tính diện tích tán che trên giấy kẻ ly, tính tỷ lệ %.


Điều tra tổ thành cây tái sinh: Đo đếm trong ôdb



Điều tra tầng cây bụi, thảm tươi: Đo đếm trong ôdb.


24

2.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
2.4.2.1. Phương pháp xác định các kiểu QXTV rừng tại khu vực nghiên
cứu
* Nguyên tắc phân loại rừng: Phân loại QXTVR là vấn đề rất phức tạp
trong sinh thái rừng, từ thế kỷ 19 đến nay các nhà sinh thái học và nhà lâm học đã
tiến hành xây dựng hệ thống phân loại quần xã thực vật rừng theo những nguyên tắc
và tiêu chuần khác nhau, chủ yếu có những nguyên tắc như sau:
(1) Nguyên tắc ngoại mạo: Tức là dựa vào kiểu ngoại mạo để phân loại
quần xã (Do Humboldt sáng lập). Ưu điểm của nó là dễ dàng áp dụng, nhưng chỉ
được khía cạnh ngoại mạo. chưa nói lên được về quan hệ sinh thái giữa các loài cây

sông chung.
(2) Nguyên tắc kết cấu: Fosberg đã đề xuất nên căn cứ vào kết cấu và chức
năng để phân loại quần xã, cụ thể là dựa vào kích thước và chiều cao của cây rừng
(tính thành tầng thứ) để phân loại, hệ thống này có sẵn tính quân bình tổng hợp.
(3) Nguyên tắc khu hệ: Do Braunquet sáng lập, đây là phương pháp phân
loại được lưu hành nhiều nhất ở châu Âu, đặc biệt chú ý đến thành phần loài cây và
các đặc trưng tiêu chí của các kiểu quần xã khác nhau.
(4) Nguyên tắc độ ưu thế: Là từ loài ưu thế để xác định đơn vị quần xã phân
loại của các nhà lâm học Anh - Mỹ, Dựa vào tình hình độ ưu thế của các tầng rừng,
đặc biệt là tầng chính để phân loại. Đây là phương pháp phân loại giản đơn hơn so
với phương pháp phân loại theo khu hệ., nhưng có thể phản ảnh tính hữu hiệu về
quan hệ tương hỗ giữa quần xã và môi trường tương đối ít.
(5) Nguyên tắc sinh thái: Tức là dùng nguyên tắc sinh thái hoặc môi trường
để pân loại quần xã thực vật, do Warming đề xuất. phương pháp phân loại này hiển
nhiên là tốt, nhưng xác định các nhân tố sinh thái sẽ tốn công sức và phân tích kết
quả cung không đơn giản đối với các nhà lâm học, mà nếu không tham khảo đến
thành phân loài cây, kết cấu quần xã ….thì sẽ không hiện thực.


×