Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.43 KB, 9 trang )

Khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng hồ chí minh
KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
II. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Điều kiện lịch sử- xã hội, gia đình, thời đại:
a. Điều kiện lịch sử.
- Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Các phong trào vũ trang kháng
chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung
Trực,... ở Nam bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến
Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Tuy nhiên, do chưa có một đường lối kháng chiến
rõ ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến, nên đều thất bại.
- Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hóa, tầng lớp tiểu tư sản và
mầm mống của giai cấp tư bản bắt đầu xuất hiện, ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của của Khang
Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... do các sĩ phu phong kiến có tư tưởng duy tân
truyền bá và dẫn dắt, nhưng do bất cập trước lịch sử, nên không tránh khỏi thật bại.
2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn
hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp và cao quý.
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong
bảng giá trị văn hóa – tinh thần việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt
Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này cũng hình


thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với
giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp
– xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền
thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng
sức, đồng lòng, đồng minh).
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thầ lạc quan đó có cơ sở
từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là
hiện thân của truyền thống lạc quan đó.
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi và mở rộng cửa
đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu,
thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải
biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh
sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được hấp thụ môt nền Quốc học và Hán
học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người có thể viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo
phương Tây thực thụ, nhưng khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó tạo


điều kiện cho Người tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại và làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, một
con người biểu tượng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông – Tây.
- Tư tưởng văn hóa phương Đông.
+ Nho giáo. Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực, nên
có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý
tưởng về một xã hội bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao
tinh thần hiếu học.
Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ
cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những
điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” .
+ Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Những mặt tích cực

của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt
Nam.
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân; xây dựng
nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân
chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng.
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc
lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng
đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng phương Đông như Lão tử,
Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành người mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương
Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây.
+ Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường Quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã làm
quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất ham mê môn lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng
Pháp 1789.
+ Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê ở Bruclin và thường đến thăm
khu Haclem của người da đen. Người thường suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được
ghi trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.
+ Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như tinh
thần pháp luật của Môngtétxkiơ, khế ước xã hội của Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có
ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Người.
+ Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Người học được
cách làm việc dân chủ trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt
chính trị của Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp,
trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của
văn hóa Đông, Tây, từ tầm cao củ tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng

và phát triển.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
- Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong
nghiên cứu, tìm hiểu.
- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu
tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế.
- Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước,
thương dân, thương yêu những người cùng khổ sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của
tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển
hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.
3. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.


a. Giai đạon hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ 1890-1911).
Trong thời trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và môi trường sống, Hồ Chí Minh đã tích lũy được
những hiểu biết và phẩm chất tiêu biểu sau:
- Truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc.
- Vốn văn hóa dân tộc và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây.
- Hình thành hoài bão cứu dân, cứu nước khi chứng kiến cuộc sống khổ cực, điêu đứng của nhân dân và
tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh.
b. Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911-1920).
Đây là giai đoạn bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã:
- Tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
- Tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con
đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản.
c. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930).

- Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng
lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước
thuộc địa.
- Hồ Chí Minh sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào Đoàn chủ tịch của Hội giữa
năm 1923. Sau đó, Người tiếp tục tham dự đại hội V Quốc tế Cộng sản và Đại hội các đoàn thể quần chúng
khác: Quốc tế thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ...
- Hồ Chí Minh về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra Báo thanh
niên, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động cuối năm 1924.
Tháng 02- 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng
sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình và
Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này, cùng với hai tác phẩm Người hoàn thành và xuất bản trước đó là Bản án chế độc thực
dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927), đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường cách mạng của Việt Nam.
d. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách mạng Việt Nam (1930-1941).
- Do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa ở phương Đông và Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan
điểm “tả” khuynh, tại Đại hội VI (năm 1928), Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Hồ
Chí Minh vạch ra trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Hội nghị Trung ương tháng 10 – 1930 của Đảng
ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng ra “Án nghị quyết” thu hồi chánh cương vắn tắt và sách lược
vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian đó Hồ Chí
Minh tiếp tục tham gia các hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và chỉ
đạo cách mạng Việt Nam, kiên định quan điểm của mình.
- Đại hội VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) đã có sự tự phê bình về khuynh hướng “tả”, cô độc, biệt phái,
bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong trào cộng sản. Để cho các đảng tư sản, tiểu tư sản và
phát xít nắm lấy mà chống phá cách mạng. Đại hội có sự chuyển hướng về sách lược, chủ trương thành lập
Mặt trận dân chủ chống phát xít.
- Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái
trước đây. Trên thực tế, từ đây đảng đã trở lại với Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Hồ Chí
Minh.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939 khẳng định rõ: “đứng trên lập trường giải phóng dân

tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải
nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”.
Những diễn biến của quá trình này đã phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
e. Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 – 1969).
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5 – 1941), đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm thời gác khẩu hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn đề Liên


bang Đông Dương, lập ra mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở công nông liên
minh. Nhờ đường lối đúng đắn đó, sau bốn năm, Đảng lãnh đạo cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đó cũng
là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình
là chính”, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh;
về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước kiểu mới - của dân, do dân, vì
dân; về củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
- Trước khi qua đời (ngày 02-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng gửi gắm trong đó những
tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì
Tổ quốc và nhân loại.Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và
dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
- Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí
Minh để lại cho chúng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Đảng lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới
phát triển.

Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong hơn mười năm qua vừa kiểm chứng, vừa khẳng
định tính khoa học, đúng đắn, tính cách mạng, sáng tạo, giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ
Chí Minh.
b/ Để thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống
chính trị, mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức cần tập trung làm tốt một số công tác
cơ bản sau:
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục,nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công chức về vị
trí, vai trò, tầm quan trọng, mục đích, yêu cầu nội dung, hình thức của Chỉ thị.
Để Chỉ thị được thực hiện có hiệu quả và đi vào cuộc sống một cách thiết thực, trước hết cần phát huy tốt
vai trò của các cấp ủy đảng, người đứng đầu, đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên các cấp trong công
tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi người. Tập trung tuyên truyền, giáo dục về ý nghĩa,
vai trò, tầm quan trọng, mục đích, yêu cầu, nội dung của Chỉ thị, từ đó từng bước nâng cao ý thức trách
nhiệm cá nhân của cán bộ, đảng viên, công chức trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh tại cơ quan, đơn vị mình, nhất là việc học tập phong cách mẫu mực của Người, coi đây là tiêu
chuẩn cao nhất, sát nhất và gần nhất. Trên cơ sở đó, từng bước tạo ra ý thức tự giác, tự tu dưỡng, rèn luyện
cho cán bộ, đảng viên, công chức; làm cho đợt học tập quán triệt và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu, trở thành ý thức tự giác, thường xuyên của mỗi người và là
một thang giá trị bền vững cho mỗi cán bộ, đảng viên, công chức trong suốt quá trình cách mạng. Qua đó,
làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức nhận thức đầy đủ việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là một chủ trương lớn của Đảng, vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa là
nhiệm vụ cơ bản lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nội dung quan trọng của
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Hình thức giáo dục, tuyên truyền phải luôn được
đổi mới, phù hợp với đặc điểm của từng cơ quan, đơn vị và từng đối tượng; kiên quyết khắc phục sự rập
khuôn, máy móc, xơ cứng, hoặc làm một cách hình thức, không thực chất.



Hai là, đề ra những nội dung học tập cụ thể, thiết thực về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong cơ quan, đơn vị mình, gắn với chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức.
Nội dung giáo dục cần phải làm cho cán bộ, đảng viên, công chức nhận thức rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
thống quan điểm toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như: về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về xây dựng, phát triển
kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách
mạng; về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng. Từ những nội dung trên,
cấp ủy đảng, người đứng đầu phải nghiên cứu kỹ, phải căn cứ vào thực tiễn trong cơ quan, đơn vị để đưa ra
những nội dung học tập thiết thực, phù hợp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức.
Học tập về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đó là phải tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng cách
mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng
sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân; hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, đồng đội, yêu
thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết
chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, chạy theo lợi ích đồng tiền.
Học tập phong cách Hồ Chí Minh, đó là mọi cán bộ, đảng viên, công chức phải học tập cho được phương
pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ,
khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đẫm tình yêu
thương con người, đề cao tinh thần trọng dân, thương dân, vì dân, chăm lo cho dân; nói phải đi đôi với làm;
nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; sống thanh cao, trong sạch, giản dị; quần chúng, dân chủ, tự
mình nêu gương trước tập thể và cơ quan, đơn vị mình để người khác học tập và làm theo…
Trên cơ sở nắm vững nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đối chiếu với chức trách,
nhiệm vụ được giao, mỗi tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức phải thường xuyên “tự soi mình”, “tự sửa
chính bản thân mình”, tự phấn đấu, học tập; coi đó là công việc thường xuyên, hằng ngày của mỗi cán bộ,
đảng viên, công chức ở cơ quan, đơn vị.
Ba là, thông qua đợt học tập, sinh hoạt chính trị, cần phải tiến hành tổng kết và nhân rộng những điển hình
tiên tiến trong các cơ quan, đơn vị về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí
Minh; kết hợp chặt chẽ giữa xây đi đôi với chống.

Song song với việc giáo dục, tuyên truyền mọi cán bộ, đảng viên, công chức nêu cao ý thức trách nhiệm
trong học tập Chỉ thị, cần phải tích cực tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, phát hiện các tấm gương
điển hình tiên tiến, mẫu mực trong học tập, trong từng việc làm cụ thể, có sức ảnh hưởng lớn, làm cơ sở để
tuyên truyền, nhân rộng các tấm gương “người tốt, việc tốt” trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời phải gắn với đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên, công chức
hằng quý, hằng năm và cả nhiệm kỳ, để kịp thời rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng cơ quan, đơn vị với phương châm sát chức
năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức
công vụ. Chúng ta đều biết, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức là những người đại diện cho Đảng, Nhà
nước thực hiện các nhiệm vụ ở cơ quan công quyền, thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, rất dễ xảy ra
quan liêu, tiêu cực, tham nhũng. Vấn đề xây dựng những chuẩn mực trong thực thi công vụ, cũng như xác
định trách nhiệm, nghĩa vụ, thẩm quyền của cán bộ, đảng viên, công chức là vô cùng quan trọng và cần
thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.


Bốn là, thường xuyên xây dựng ý thức, trách nhiệm, thái độ và phương pháp học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, công chức trong suốt quá trình thực hiện nhiệm
vụ.
Để phát huy tốt việc học tập, cần phải xây dựng cho được ý thức, trách nhiệm, thái độ và phương pháp học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, công chức trong suốt
quá trình thực hiện nhiệm vụ, đưa những nội dung học tập thành những việc làm thiết thực và tự giác của
mỗi người. Bên cạnh đó, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải tự soi lại mình, đối chiếu với
những nội dung học tập của bản thân để bổ sung, sửa chữa những mặt còn hạn chế, thiếu sót, đồng thời tiếp
tục phát huy, nhân rộng những mặt mạnh, tích cực. Tuy nhiên, để chỉ ra những khuyết điểm cần sửa chữa,
những tác phong đạo đức không phù hợp thì cần phải đổi mới cả trong nhận thức và hành động cách mạng.
Tuyệt đối không có tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, dựa dẫm vào tổ chức. Do đó, xây dựng ý thức, trách
nhiệm, thái độ và phương pháp đúng trong học tập Chỉ thị là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức hiện nay.
Năm là, nâng cao ý thức tự học tập, tự nghiên cứu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho mỗi

cán bộ, đảng viên, công chức một cách thường xuyên, liên tục.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ cốt yếu, thường xuyên đối với mỗi cán bộ, đảng viên,
công chức trong việc học tập Chỉ thị. Phải nhận thức rõ rằng, việc học tập không thể là ngày một ngày hai,
hay chỉ tiến hành trong một hoặc hai năm, mà là việc làm lâu dài và cần được thực hiện trong suốt sự
nghiệp cách mạng ở nước ta. Việc tự học tập để nâng cao nhận thức cần thực hiện thường xuyên, liên tục.
Các nội dung tự học tập cần được đưa vào sinh hoạt chi bộ và trở thành nền nếp hằng tháng, hằng quý,
hằng năm theo kế hoạch của từng chi bộ và cá nhân cụ thể. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức cần thiết phải
xây dựng thói quen, ý thức tự giác trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh.
Câu 9: Đ/c hãy trình bày quan điểm tư tưởng HCM về XD CNXH ở VN và những phương hướng đặc trưng
XD CNXH mà Đảng lãnh đạo nhân dân ta XD hiện nay?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:

- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của
nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sông vật chất và tinh thần cho nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động.

- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người với người là bạn
bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sông vật chất và tinh
thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.

- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.


- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của
Đảng.


* Đặc trưng XD CNXH mà đảng lãnh dạo nhân dân ta xây dựng hiện nay
Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu cuối cùng của chế độ kinh
tế ở nước ta, chứ không phải chỉ xóa bỏ bóc lột, áp bức, bất công, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất. Mục tiêu trên cũng chính là nguyện vọng, mơ ước của nhân dân tiến bộ trên thế giới, là cái đích của
xã hội loài người nói chung.
Ở Việt Nam, trong điều kiện xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, thì yêu cầu phấn đấu cho một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” tất
yếu theo con đường xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu chiến lược vô cùng đẹp đẽ, đồng thời là một khẩu hiệu
đoàn kết, tập hợp lực lượng rộng rãi xây dựng xã hội mới. Điều quan trọng là bằng đường lối, chính sách và
pháp luật mà Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, quản lý, điều hành toàn xã hội tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, do nhân dân làm chủ
Theo Hồ chủ tịch, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là dân làm chủ nhà nước. Nhà nước là của dân, do dân,
vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số phản
động, chống lại nhân dân.
Ba là, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu
Cả mặt thực tế, cả logic – lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa là sự kế tiếp sau
xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải
quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hóa ngày càng tăng của lực lượng sản
xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, lực
lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không xóa bỏ chế độ tư hữu nói
chung mà chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Bởi vì chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đa số nhân dân lao động, đem lại lợi nhuận
ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và giai cấp thống trị xã hội.

Thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để xóa việc sinh ra giai cấp đối kháng, cơ
sở kinh tế của chế độ người bóc lột người. Song, chế độ công hữu chỉ có thể được xây dựng và hoàn thiện
tưng bước trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại.
Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời là xây dựng chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu. Tuy nhiên, quá trình xây dựng chế độ công hữu không thể nóng vội mà cần chú trọng đến các yếu tố
hoàn cảnh lịch sử.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở
kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường, vẫn tồn
tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động… Cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột
những cá nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả một chế độ xã
hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Nga, sau một thời gian áp
dụng “Chính sách cộng sản thời chiến” đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ


nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ thực hiện “Chính sách kinh tế mới” với kinh tế hàng hóa 5 thành phần và tự do
lưu thông hàng hóa trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và
cả của chủ nghĩa xã hội. Việc xóa bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy ý
chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I.Lênin về
nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đảng ta khẳng định: Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với những đặc trưng cơ bản là đại chúng, dân tộc, hiện đại và nhân
văn, được xây dựng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, theo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì hạnh phúc và sự phát triển phong
phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự
nhiên. Tiên tiến không chỉ được thể hiện về nội dung tư tưởng mà còn cả trong hình thức biểu hiện và trong
các phương tiện chuyển tải nội dung văn hóa.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được
vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước nồng

nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ
quốc; là lòng nhân ái, khoan dung; trọng nghĩa tình, đạo đức; là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống, v.v… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong hình thức biểu
hiện mang tính dân tộc độc đáo của văn hóa.
Nền văn hóa chúng ta đang xây dựng theo định hướng xã hội chủ nghĩa mang những đặc trưng cơ bản là
đại chúng, dân tộc, hiện đại, nhân văn, phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Phát triển sự nghiệp văn hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ,
bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
xã hội chủ nghĩa, hướng con người tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp phát triển văn hóa
cần hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức
tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp…
Năm là, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác, Ănghen không chỉ luận giải về vấn đề giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con người được các ông để cập khá sâu sắc. Các ông cho
rằng, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Con người và cuộc đấu tranh nhằm giải phóng con người cũng giữ vị trí rất quan trọng trong tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn của Hồ chủ tịch. Hồ chủ tịch nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng được con
người, cũng chỉ khi các giai cấp và mỗi con người đều được giải phóng thì sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc mới hoàn toàn triệt để.


Giải phóng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của xã hội. Giải phóng con người khỏi áp bức, bóc
lột, bất công và đồng thời phải hướng tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người. Con người
được phát triển toàn diện, cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh
thần, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X có đoạn: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí
chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác
định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển
kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực
hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tri thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác
ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc,
làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.”
Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã
hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như
vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại
với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách
nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có
hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập
vững chắc vào đời sống quốc tế.
Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã

hội chủ nghãi giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi
trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.



×