Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tư tưởng củaPh.Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, củachế độ tư hữu và của nhà nước và ý nghĩa nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.84 KB, 26 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi nói đến Ph.Ăngghen, chúng ta thường nói đến một nhà lý luận
chính trị, triết học, khoa học. Ông đã có nhiều tư tưởng về xây dựng nhà
nước, về nền chuyên chính vô sản…. Một trong những vấn đề quan trọng
đó là nhà nước, đó được xem là một trong những vấn đề lớn trong triết học
xã hội nói chung và trong triết học Mác nói riêng.
Trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước”, Ph.Ăngghen đã lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục và khoa
học về nhà nước. Với cách đặt vấn đề như vậy, ông chỉ rõ rằng: Chỉ ở đâu
có giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì mới có nhà nước.
Nhà nước xuất hiện là do những mâu thuẫn không thể điều hòa được. Nhà
nước là cơ quan thống trị của một giai cấp này đối với giai cấp khác, nhà
nước có bản chất giai cấp.Từ việc chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản
chất giai cấp nhà nước và tính chất bóc lột, áp bức bóc lột của các kiểu nhà
nước. Ph.Ăngghen đã nêu lên quan điểm của một kiểu nhà nước mới, nhà
nước của giai cấp vô sản khác về chất so với nhà nước áp bức bóc lột và
bác bỏ những luận điểm phản khoa học về nhà nước
Những luận điểm, tư tưởng của Ăngghen về nhà nước trong tác
phẩm này thể hiện sự phát triển và hoàn thiện về cơ bản và có hệ thống các
quan điểm của chủ nghĩa Mác về nhà nước. Dựa trên các quan điểm về lịch
sử vào các sự kiện về lịch sử Ăngghen đã chứng minh các luận điểm này
trở thành cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động ở các nước chống chủ nghĩa thực dân và đế
quốc. Đặc biệt những quan điểm về nhà nước của Ăngghen đã có ý nghĩa
ngày càng quan trọng trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước.

1


Với tất cả những lý do đó tôi đã chọn đề tài: “ Tư tưởng của


Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước” làm đề tài tiểu luận kết thúc môn.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu quan điểm Nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” đã được nhiều công trình
đề cập tới như:
Hội thảo khoa học được giới thiệu trong Tạp chí Triết học về tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của
Ph.Ăngghen. Các tài liệu sách, báo, tạp chí như: “Giới thiệu một số tác
phẩm của C. Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học”, Ts.
Nguyễn Thọ Khang, Nxb chính trị - hành chính, 2013…
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, làm rõ được tư tưởng về
nhà nước tác phẩm và tạo điều kiện cung cấp một cách hệ thống phục vụ
cho nghiên cứu tiểu luận này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ những tư tưởng cơ bản của
Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước”
Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ được những nội dung, tư tưởng của
Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm, chỉ ra được nguồn gốc xuất hiện nhà
nước, bản chất nhà nước và các chức năng của nhà nước. Từ đó có thể liên
hệ được với điều kiện xây dựng bộ máy nhà nước ta.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

2


Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng về nhà nước của Ph. Ăngghen trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng về nhà nước của Ph.Ăngghen trong

tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Tình hình xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luẩn này dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta.
Chủ yếu sử dụng các phương pháp như: logic - lịch sử, diễn dịch quy nạp, phân tích - tổng hợp, phân tích tài liệu, phương pháp so sánh…
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ và cung cấp luận cứ khoa học, hệ thống hóa
được những tư tưởng về nhà nước của Ph.Ăngghen và đóng góp thêm tư
liệu tham khảo.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, tiểu luận gồm có 3 chương và 8 tiết.

3


B. NỘI DUNG
Chương 1
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1 Vài nét về tác giả
Ph.Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh,
Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ đến 14 tuổi ông
học ở Thành phố Barmen. Tháng 10 năm 1834, Ông sang học ở Elerfelder.
Năm 1837, cha ông yêu cầu bỏ học khi chưa tốt nghiệp trung học để làm
công việc văn phòng của gia đình, trong thời gian này ông tự học sử, triết,
văn học, ngôn ngữ và thơ ca.
Tháng 6 năm 1838, ông đến làm việc tại văn phòng thương mại tại
thành phố cảng Barmen. Ph.Ăngghen thành thạo 35 ngoại ngữ. Cuối năm

1839 Ph. Ăngghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hêghen. Tháng
9- 1841, Ph. Ăngghen đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh ở đây
ông được huấn luyện quân sự mà trong những năm sau, ông rất cần đến nó,
nhưng ông vẫn lui tới trường Đại học tổng hợp Berlin nghe các bài giảng
triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Ngày 8 tháng 10 năm 1842,
Ph.Ăngghen mãn hạn phục vụ trong quân đội.
Tháng 2-1845, cuốn sách Gia đình và Thần thánh của C.Mác và
Ph.Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương
pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân
trong lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi tiếng Hệ tư tưởng
Đức (1845-1846)
Năm 1848, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm
C. Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Tháng

4


11/1849, Ph.Ăngghen đến Luân Đôn và được bổ sung vào Ban chấp hành
Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản.
Năm 1871, Ph.Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ
công xã Pari. Trong thời gian này, Ph.Ăngghen đã viết một số tác phẩm có
giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp phần to lớn cho
việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa C.Mác. Sau khi C.Mác qua đời
(1883), Ph.Ăngghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa
xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C.Mác chưa
kịp hoàn thành. Ph.Ăngghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm
cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích
Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự
nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).
1.2 Vài nét về tác phẩm

1.2.1 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
* Tình hình kinh tế-xã hội ở châu Âu và Đức cuối thế kỷ XIX
Trong những năm 80-90 của thế kỷ XIX, kinh tế Châu Âu nói chung
và nước Đức nói riêng đã bước vào giai đoan phát triển nhanh chóng. Đặc
biệt, kinh tế Đức tập trung nhanh và vươn lên vượt nước Anh và đứng đầu
châu Âu do có nhiều lợi thế. Trong điều kiện đó, tư bản công nghiệp kết
hợp với ngân hàng thành tư bản tài chính và thao túng nền kinh tế. Nhà
nước liên bang Đức tổ chức theo chế độ quân chủ lập hiến và thi hành
nhiều chính sách phục vụ cho giai cấp thống trị, đi ngược lại lợi ích của
nhân dân lao động. Trong điều kiện đó, phong trào đấu tranh xã hội ở Đức
rất sôi nổi nhưng lại chịu tác động của nhiều trường phái tư tưởng. Tình
hình đó càng đòi hỏi sự phát triển và truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học
trong công nhân và quần chúng nhân dân lao động.

5


* Tình hình văn hóa, xã hội, tư tưởng ở Đức cuối thế kỷ XIX
Năm 1877, L.Moócgan - nhà nhân chủng học, xã hội học, khảo cổ
học đã cho xuất bản cuốn sách Xã hội thời cổ hay các cuộc khảo cứu
những con đường tiến bộ của loài người từ thời mông muội qua thời đâị dã
man đến thời đại văn minh. C.Mác đã đọc cuốn sách này và có ghi nhận xét
về cuốn sách một cách chi tiết.
Một năm sau khi C.Mác từ trần (1884), khi đọc các bản thảo viết tay
của Mác, Ph.Ăngghen đã tìm thấy bản thảo Tóm tắt tác phẩm của
L.Moócgan. Từ những nhận xét, phê phán của C.Mác, Ph.Ăngghen quyết
định sử dụng những quan điểm này để phân tích khái quát hóa theo quan
điểm duy vật lịch sử các kết quả của L.Moócgan. Đồng thời ông cũng đánh
giá, phê phán những kết quả khảo cứu mất nhất của các nhà khoa học: Anh,
Pháp, Đức, Nga về các hình thức xã hội tiền tư bản chủ nghĩa.Ph.Ăngghen

còn sử dụng các công trình nghiên cứu của mình trong nhiều năn ròng về
lịch sử Hy Lạp và Rôma, lịch sử người Giécmanh và Airơlen cổ xưa để làm
sáng tỏ những quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác. Ông đã viết tác phẩm
để trình bày những nọi dung trên từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 5- 1884.
Tác phẩm được mang tên Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước. Tháng 10-1884, tác phẩm được in thành sách và xuất bản tại
Zurich, năm 1886 được xuất bản lần thứ hai, năm 1889 được xuất bản lần
thứ ba sau đó tác phẩm được dịch ra tiếng ý, Rumani, Đan Mạch và Pháp.
Tháng 10-1891 sách đươc tái bản khi được chỉnh lý, bổ sung, từ đó
Ph.Ăngghen không có sửa đổi gì thêm.
1.2.2 Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm gồm 2 lời tựa (năm 1884 và năm 1891) và 9 chương:
Chương I: Những giai đoạn tiền sử của thời đại văn minh
Chương II: Gia đình
6


Chương III: Thị tộc Irôqua
Chương IV: Thị tộc Hy Lạp
Chương V: Sự ra đời của nhà nước Aten
Chương VI: Thị tộc và nhà nước ở Rôma
Chương VII: Thị tộc của người Lentơ và người Giécmanh
Chương VIII: Sự hình thành nhà nước của người Giéc-manh.
Chương IX: Thời đại dã man và thời đại văn minh

7


Chương 2
TƯ TƯỞNG CỦA PH.ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC TRONG

TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ
HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
Đây là vấn đề trọng tâm được Ph.Ăngghen bàn rất kỹ trong tác
phẩm. Vấn đề nhà nước được Ph.Ăngghen tập trung nghiên cứu ở những
khía cạnh sau:
2.1 Nguồn gốc ra đời và bản chất của nhà nước trong tác phẩm
2.1.1 Nguồn gốc ra đờicủa nhà nước
Ph.Ăngghen cho rằng thời kỳ đầu của lịch sử nhân loại, kinh tế chưa
phát triển, xã hội chưa có phân chia giai cấp đó là thời kỳ cộng sản nguyên
thủy. Hình thức cộng đồng người đầu tiên trong xã hội này là thị tộc, bộ
lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là các tù trưởng, tộc trưởng, thủ lĩnh quan
sự. Họ là những người đóng vai trò lãnh đạo và quản lý xã hội. Sức mạnh
cho sự quản lý xã hội đó là bởi uy tín cá nhân chứ không có một sức mạnh
cưỡng chế nào khác. Trật tự xã hội được duy trì bởi các quy phạm xã hội.
Các quy phạm xã hội lúc này bao gồm: đạo đức, tập quán, tín điều tôn
giáo…sức mạnh để cho các hành vi này thực hiện đó chính là dư luận xã
hội. Ph. Ăng ghen viết: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế đọ
thị tộc quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và
cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tòa,
không có nhà tù, không có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi
chảy” [C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập,t.21, tr.147, Nxb Chính trị quốc gia,
1995].
Ph.Ăngghen cho rằng nhà nước ra đời từ hai nguyên nhân cơ bản sau
đây:
8


Thứ nhất, do sự xuất hiện của công cụ lao động mới, phân công lao
động nảy sinh, năng suất lao động cao, của cải không chỉ đáp ứng nhu cầu
thiết yếu cho cộng đông mà còn có sự dư thừa. Chính sự dư thừa này dẫn

đến nảy sinh chiếm hữu của cải cùng tư liệu sản xuất làm của riêng. Xã hội
có sự phân chia thành hai bộ phận người có lợi ích khác nhau và đối lập
nhau. Mâu thuẫn giữa hai bộ phận này ngày càng gay gắt và không thể điều
hòa được.
Nhà nước xuất hiện làm nhiệm vụ điều hòa lợi ích giai cấp theo định
hướng cho lợi cho giai cấp thống trị xã hội. Nhà nước xuất hiện với những
công cụ vật chất trong tay như quân đội, cảnh sát, nhà tù,… Những thiết
chế vật chất này vô cùng quan trọng để nhà nước thực hiện quyền lực
cưỡng chế của mình lên toàn xã hội. Ph.Ăngghen quan niệm: “Nhưng bây
giờ, một xã hội mới ra đời, một xã hội do toàn bộ những điều kiện kinh tế
của sự tồn tại của nó mà phải chia ra thành những người tự do và nô lệ,
thành những kẻ giàu có đi bóc lột và những người nghèo khổ bị bóc lột, một xã hội không những không thể lại điều hòa một lần nữa những mặt đối
lập đó, mà còn phải buộc đẩy chúng đi đến chỗ ngày càng gay gắt. Một xã
hội như vậy chỉ có thể tồn tại trong cuộc đấu tranh không ngừng và công
khai giữa các giai cấp đó với nhau, hoặc là tồn tại dưới sự thống trị của một
lực lượng thứ ba, một lực lượng tựa hồ như đứng trên các giai cấp đấu
tranh với nhau, dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy là tốt
lắm, để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra chỉ trong lĩnh vực kinh tế, dưới
một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức thị tộc đã lỗi thời. Nó đã bị sự phân
công và hậu quả của sự phân công ấy- tức là sự phân chia của xã hội thành
giai cấp – phá tan. Nó đã bị nhà nước thay thế” [C.Mác và Ăngghen, toàn
tập,t. 21, tr. 251, Nxb Chính trị quốc gia, 1995].

9


Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là kết quả
của những mâu thuẫn không thể điều hòa được, là một công cụ của một
giai cấp nhất định để bảo vệ địa vị kinh tế, chính trị của mình.
Thứ hai, đồng hành với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, các cuộc

chiến tranh đã xảy ra giữa các thị tộc,bộ lạc để tranh giành đất đai, tranh
giành điều kiện sống. Muốn tập hợp được sức mạnh thì các thị tộc, bộ lạc
phải liên kết với nhau trên cùng một lãnh thổ. Cho nên việc sáp nhập, liên
minh các thị tộc, bộ lạc được đặt ra. Điều hành liên minh này là hội đồng
thị tộc, bộ lạc và đứng đầu hội đồng này là các thủ lĩnh quân sự. Các thủ
lĩnh quân sự trước kia được bầu lên từ hội đồng thị tộc thì đến bây giờ đã
được thiết lập quyền lực thống trị của mình một cách tuyệt đối bằng hình
thức thừa kế theo kiểu cha truyền con nối. Ph.Ăng ghen cho rằng: “những
cơ quan thị tộc đã dần tách khỏi gốc rễ của chúng trong nhân dân, trong thị
tộc, bộ lạc; và toàn bộ tổ chức thị tộc chuyển hóa thành cức đối lập với nó:
từ chỗ là tổ chức của bộ lạc nhằm giải quyết một cách tự do những công
việc của mình, tổ chức thị tộc đã trở thành một tổ chức để cướp bóc và áp
bức láng giềng; do đó, các cơ quan của nó, lúc đầu là công cụ của ý chí của
nhân dân, đã trỏ thành những cơ quan độc lập nhằm thống trị và áp bức
chính ngay nhân dân” [C.Mác và Ăngghen, toàn tập,t. 21, tr. 244, Nxb
Chính trị quốc gia, 1995].
Những tiền đề kinh tế và xã hội của sự xuất hiện nhà nước, theo
Ăngghen, là sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội phân
chia thành giai cấp. Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp,
là kết quả của những mâu thuẫn giữa các giai cấp không thể điều hoà được,
là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ
chưa cần có một quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân và đứng đối lập
với nhân dân, thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém là tình trạng chưa
phân hoá giai cấp, là những thị tộc, bộ lạc và đứng đầu các tổ chức này là
10


các tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của những tộc trưởng này
dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín, quyền hành và chức năng của cơ quan
quản lý xã hội chưa mang tính chính trị. Các thủ lĩnh, trong đó có thủ lĩnh

quân sự, do nhân dân bầu ra không phải là người cai trị, họ chỉ thực hiện ý
chí của nhân dân và không có đặc quyền.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã
đưa lại năng suất lao động ngày một cao và xuất hiện của cải dư thừa. Đây
là điều kiện khách quan làm xuất hiện sự chiếm đoạt của cải ở một số
người có quyền lực và sự phân hoá xã hội thành những giai cấp đối kháng.
Sau lần phân công lao động xã hội thứ ba, đã có sự tích tụ của cải về một số
ít người và sự bần cùng hoá một số đông người. Sự ra đời của chế độ tư
hữu và phân chia xã hội thành giai cấp như vậy đã làm cho chế độ cộng sản
nguyên thuỷ tan rã
Như vậy, theo Ph.Ăngghen nhà nước ra đời nhằm điều hòa cuộc
xung đột giai cấp nằm trong vòng trật tự. Nhà nước ra đời từ sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự xuất hiện của nhà nước là tất yếu khách quan,
nó phản ánh mâu thuẫn của xã hội đã đến mức chin muồi. Sự xuất hiện của
nhà nước làm cho xã hội loài người có một sự phát triển mạnh mẽ chưa
từng có và lịch sử xã hội là sự thay thế các kiểu nhà nước.
2.1.2 Bản chất của nhà nước
Từ những công trình nghiên cứu thực tế, Ph.Ăngghen đã tìm ra
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhà nước; bản chất, đặc trưng cũng như xu
hướng phát triển của đất nước thể hiện rất rõ trong tác phẩm “ Nguồn gốc
của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Nhìn chung bản chất của nhà nước là nhà nước của giai cấp thống trị,
là bộ máy mà giai cấp thống trị dùng để đàn áp, bóc lột giai cấp bị trị. Bản
chất của nhà nước mà Ph.Ăngghen đưa ra gồm những nội dung cơ bản sau:
11


Thứ nhất, Nhà nước là bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với giai
cấp khác: “ Nhà nước là một tổ chức của giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ
giai cấp này chống lại giai cấp không có của ” [C.Mác và Ăngghen, toàn

tập,t. 21, tr. 256, Nxb Chính trị quốc gia, 1995]. . Đối với tất cả người dân
sống trên lãnh thổ rộng lớn, thì nhà nước đóng vai trò là mối liên hệ để gắn
kết họ lại với nhau và đồng thời nhà nước trỏ thành kẻ áp bức, bóc lột họ.
Nhà nước ra đời nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, mà trước tiên,
cơ bản là lợi ích kinh tế, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Thứ hai, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh
tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp
khác: “Vì nhà nước nảy sinh từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập giữa các
giai cấp, vì Nhà nước đồng thời cũng xuất hiện trong những cuộc xung đột
giữa các giai cấp ấy, cho nên theo lệ thường, nhà nước là Nhà nước của
giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có
nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có
thêm được nhưng phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”
[C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập,t.21, tr.255, Nxb Chính trị quốc gia,
1995] .
Thứ ba, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp,
không có và không thể có nhà nước đứng trên giai cấp và nhà nước của
mọi giai cấp. Đối với đông đảo người sống trên một lãnh thổ rất rộng lớn,
thì nhà nước là mối liên hệ chủ yếu nhất liên kết họ lại với nhau, nhưng nhà
nước ngày càng trở thành kẻ áp bức và bóc lột đối với họ. Nhà nước ra đời
không những không thủ tiêu bóc lột mà biến nó thành một chế độ.
Thứ tư, nhà nước còn là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới
một giai đoạn nhất định, theo Ph.Ăngghen : “Nhà nước là sản phẩm của
một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định; nó là cái bằng chứng
nói lên rằng xã hội đó bị hãm trong một sự mẫu thuẫn với bản thân nó mà
12


không sao giải quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân chia thành những mặt
đối lập không thể điều hòa, mà xã hội đó bất lực không sao trừ bỏ được.”

[C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t.21, tr.252, Nxb Chính trị quốc gia, 1995] .
Bởi vậy, nhà nước luôn là nhà nước của giai cấp thống trị, mang bản
chất của giai cấp thống trị. Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai
cấp. Bản chất của nhà nước được quy định bởi các yếu tố kinh tế. Nhà nước
bảo vệ địa vị kinh tế cho giai cấp thống trị.
Do đó, không thể có giai cấp của cho mọi giai cấp. Tất cả mọi luận
điệu cho rằng nhà nước là của chung tất cả các giai cấp (trừ nhà nước xã
hội chủ nghĩa) đều là lừa dối. Từ bản chất này sẽ quyết định đến chức năng
và hình thức của nhà nước.
2.2 Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Theo Ph.Ăng ghen, nhà nước nào cũng mang những đặc trưng cơ
bản sau:
Đặc trưng thứ nhất, “nhà nước…phân chia thần dân theo địa vực”
[C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, t.21, tr.255-253, Nxb Chính trị quốc gia,
1995]. Đây là nét khác biệt cơ bản so với tổ chức thị tộc bộ lạc trước kia.
Sở dĩ nhà nước phân chia và quản lý dân cư của nó theo địa vực cư trú là vì
địa vực thì ổn định; còn dân cư thì không ổn định, cho nên nhà nước phải
lấy sự phân chia địa vực cư trú làm nơi cho dân chúng thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình với nhà nước, bất kể họ thuộc thị tộc, bộ lạc nào. Các thị
tộc, bộ lạc hình thành dự trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ cư trú
và quyền lực nhà nước được áp đặt lên mọi dân cư trên lãnh thổ đó. Các
công dân phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhà nước:
“người ta lấy sự phân chia địa vực làm điểm xuất phát và người ta đã để
cho những công dân thực hiện quyền lợi và những nghĩa vụ xã hội của họ
tại nơi họ cư trú, không kể họ thuộc thị tộc và bộ lạc nào” [Sđd,t.21,
13


tr.253]. Và Ph. Ăngghen cho rằng: “cách tổ chức của những công dân của
nhà nước theo địa vực họ cư trú như thế , là một đặc điểm chung của nhà

nước” [Sđd,t.21, tr.253].
Đặc trưng thứ hai “của nhà nước là sự thiết lậpmột quyền lực công
cộng” [C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, t.21, tr.253, Nxb Chính trị quốc
gia, 1995], quyền lực này mang tính chát chuyên nghiệp và cưỡng chế đối
với mọi thành viên trong xã hội. Đặc trưng này khác hẳn với xã hội thị tộc,
bộ lạc trước đây. Các thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bởi uy tín cá nhân của
những người đứng đầu và mọi người tự giác thực hiện với sức mạnh bởi dư
luận luận xã hội. Ngược lại, nhà nước “thiết lập một quyền lực công cộng,
không còn trực tiếp là dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa”
[Sđd, toàn tập,t.21, tr.253]. Quyền lực công cộng đó tách rời khỏi xã hội,
thuộc về giai cấp thống trị, và “không phải chỉ gồm những người được lực
lương vũ trang mà còn gồm những công cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà
tù và đủ loại các cơ quan cưỡng bức mà tổ chức xã hội thị tộc không hề
biết đến” [Sđd, t.21, tr.254]. Theo ph.Ăngghen quyền lực công cộng này
được giai cấp thống trị sử dụng trong quá trình thống trị của mình: “khi
những mâu thuẫn giai cấp ở trong nước ngày càng trở nên gay gắt, khi
những nước giáp ranh với nhau ngày cang rộng lớn và đông đúc hơn, thì
quyền lực đó ngày càng được tăng cường” [Sđd, t.21, tr.254]. Để duy trì sự
quản lý xã hội, giai cấp thống trị đã xây dựng một hệ thống pháp luật của
mình. Pháp luật là những quy tắc, xử sự chung do giai cấp thống trị thiết
lập nên và được bảo đảm thực hiện bằng bộ mấy cưỡng chế như quuan đội,
cảnh sát, nhà tù,…Quyền lực công cộng này được sử dụng để đàn áp giai
cấp bị bóc lột.
Đặc trưng thứ ba, để duy trì sự tồn tại của mình, duy trì quyền lực
công cộng và nuôi sống bộ máy hành chính cùng các lực lượng, công cụ
cưỡng chế thì nhà nước phải có sự đóng góp từ dân cư đó là thuế má. Thuế
14


má mang tính chất bắt buộc đối với các thành viên trong xã hội. Việc thu

thuế dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước với sự tham gia của các cơ quan và
phương tiện cưỡng chế. “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có
sự đóng góp của công dân, đó là thuế má. Xã hội thị tộc hoàn toàn không
biết đến thuế má. Nhưng ngày nay, chúng ta biết đến thuế má một cách khá
đầy đủ” [C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, t.21, tr.254, Nxb Chính trị quốc
gia, 1995].
Trên đây là ba đặc trưng cơ bản của nhà nước mà Ph.Ăng ghen đã
chỉ ra trong tác phẩm. ba đặc trưng này hoàn toàn khác so với thị tộc, bộ lạc
trước kia.
2.3 Chức năng của nhà nước
Trước hết, theo Ph.Ăngghen, nhà nước có hai chức năng là chức
năng thống trị của giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng thống trị của
giai cấp nói lên rằng bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ chuyên chính của
một giai cấp, sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, biện pháp có thể để bảo vệ sự
thống trị của giai cấp đó. Chức năng xã hội của nhà nước nói lên rằng bất
cứ nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung
vì sự tồn tại của xã hội. Hai chức năng này có mối quan hệ qua lại với
nhau, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị và sự thống trị
chính trị còn kéo dài chừng nào nhà nước còn thực hiện chức năng xã hội
của nó.
Đồng thời, nhà nước với tư cách là đại biểu cho chủ quyền của một
quốc gia còn thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội
của nhà nước là duy trì trật tự xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Nhà nước xây dựng và thực thi các chính sách, sử dụng quân đội, cảnh sát,
bộ máy tuyên truyền và các công cụ khác nhằm duy trì và phát triển xã hội
theo những nguyên tắc và chuẩn mực nhất định. Nhà nước thực hiện chức
15


năng đối nội là chủ yếu, vì nó ra đời và tồn tại trước hết trên phạm vi quốc

gia - dân tộc. Chức năng đối ngoại của nhà nước là bảo vệ lãnh thổ quốc
gia, trong một số trường hợp là mở mang lãnh thổ quốc gia và quan hệ với
các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia.
Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của
giai cấp thống trị.
2.4 Sự tiêu vong của nhà nước
Ph.Ăngghen cho rẳng nhà nước là một phạm trù lịch sử, sự xuất hiện
và mất đi của nhà nước là tất yếu như nhau. Nhà nước ra đời để duy trì xã
hội trong vòng trật tự theo ý chí của giai cấp thống trị. Đến khi cơ sở kinh
tế thay đổi làm cho nhà nước không còn tồn tại. Ph.Ăngghen viết: “nhà
nước tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng có xã hội không
cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính
quyền nhà nước cả. Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai
đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sự
phân chia đó làm cho nhà nước trỏ thành một tất yếu. Bây giờ, chúng ta
đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát triển sản xuất, trong đó sự tồn
tại của những giai cấp nói trên không những không còn là một sự tất yếu
nữa, mà còn trở thành một trở ngại trục tiếp cho sản xuất. Những giai cấp
đó sẽ không tránh khỏi biến mất, cũng như xưa kia, chúng ta không tránh
khỏi xuất hiện. Giai cấp tiêu vong thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu
vong theo. Xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và
bình đẳng giữa những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước
xếp vào vị trí thật sự của nó lúc bấy giờ: vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh
cái xe kéo sợi và cái rìu bằng đồng” [C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, t.21,
tr.257- 258, Nxb Chính trị quốc gia, 1995].
Theo Ph.Ăngghen, nhà nước tiêu vong cũng là một tất yếu như sự xuất
hiện của nó trong điều kiện xã hội nhất định. Nhà nước không tồn tại, cũng
16



như từ xa xưa xã hội đã có thời kỳ không cần đến nhà nước, thậm chí
không có một khái niệm nào về nhà nước: “Đã từng có những xã hội không
cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính
quyền nhà nước cả. Đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, giai
đoạn đương nhiên phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế và phân chia
xã hội thành giai cấp thì sự xuất hiện của nhà nước trở thành một tất yếu.
Nhưng sẽ đến thời kỳ sự tồn tại của những giai cấp nói trên không còn là
một tất yếu nữa, hơn nữa sự tồn tại của các giai cấp còn là trở ngại trực tiếp
cho sản xuất” [C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, t.21, tr.257, Nxb Chính trị
quốc gia, 1995].
Giai cấp vô sản giành lấy nhà nước và biến những tư liệu sản xuất thành
sở hữu của xã hội, từng bước tự xoá bỏ mình với tư cách một giai cấp, xoá
bỏ sự khác biệt giai cấp và mọi sự đối lập giai cấp, đồng thời xoá bỏ cả nhà
nước. Khi nhà nước đã trở thành đại diện của toàn thể xã hội, không còn
giai cấp nào bị áp bức nữa, không còn đấu tranh sinh tồn cá nhân nữa, vai
trò của nhà nước sẽ mất dần đi. Nhà nước sẽ đi đến chỗ tự tiêu vong cũng
là một tất yếu khách quan khi nó đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình,
khi chủ nghĩa cộng sản văn minh được hoàn thành.

17


Chương 3
Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM VÀ SỰ LIÊN HỆ TƯ TƯỞNG ĐÓ
TRONG XÂY DỰNG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Ý nghĩa của tác phẩm
Qua tác phẩm Ph.Ăngghen đã trình bày một cách khoa học, đầy sức
thuyết phục về nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của sự phân
chia xã hội thành giai cấp và sự ra đời của nhà nước. Đây là nguyên lý quan
trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Ông đã làm rõ quá trình hình thành,

quá trình phát triển và sự tiêu vong của chế độ tư hữu sự phân chia giai cấp
và nhà nước. Những tư tưởng của ông về nhà nước trong tác phẩm đã góp
phần giúp cho các nhà tư tưởng sau này kế thừa để xây dựng được nhà
nước hoàn thiện hơn đặc biệt là bộ máy nhà nước.
Qua tác phẩm này, ông cũng thể hiện được tài năng kiệt xuất của
mình trong việc kết hợp những phương pháp lôgich lịch sử, phương pháp
nghiên cứu khoa học, thái độ khách quan trug thực đối với thành quả của
các nhà khoa học đương thời qua việc tiếp thu có phê phán những kết quả
nghiên cứu của họ. Khi có những phát kiến mới về khoa học, ông đã nghiên
cứu một cách nghiêm túc, sẵn sàng bổ sung cho mình những tri thức mới,
sự phê phán và sửa chữa những thiếu xót của mình. Đó là tấm gương sáng
về đạo đức của những người làm khoa học.
Cung cấpcho chúng ta một cách nhìn khái quát, đầy đủ, chi tiết về
vấn đề nhà nước như; nguồn gốc, bản chất, hình thức,…Đồng thời, ông nêu
lên luận điểm về nhà nước kiểu mới – nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà
nước này hoàn toàn khác về chất so với các nhà nước trước đó.

18


Trên cơ sở đó, ph.Ăngghen cho rằng cuối cùng nhà nước vô sản cũng
mất đi, nhưng sự mất đi đó không hoàn toàn giống như các nhà nước trước
kia là bằng bạo lực cách mạng. Đây là sự mất đi bằng con đường tự tiêu
vong, từ chính yếu tố trong long nó. Một khái quát khoa học vô cùng có giá
trị của Ăngghen là sự xuất hiện và mất đi của nhà nước là tất yếu như
nhau.
Tác phẩm còn tấn công vào luận điệu sai lầm của giai cấp tư sản khi
cho rằng nhà nước là cơ quan điều hòa quyền lợi giữa các giai cấp cùng tồn
tại trong một thiết chế xã hội, nhà nước tư sản là nhà nước có chế độ dân
chủ tốt đẹp nhất cần được bảo vệ.

Tác phẩm góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác lênin, động
viên phong trào cách mạng vô sản. Bằng những nguyên lý, luận điểm được
đưa ra trong tác phẩm đã làm phong phú thêm nhiều vấn đề; cuộc cách
mạng vô sản tất yếu xảy ra trên
Tác phẩm sau này được Lênin kế thừa rất nhiều các nội dung,
nguyên lý để viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng.
3.2. Sự vận dụng tư tưởng của Ph.Ăngghen về nhà nước trong xây
dựng bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay
Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển những tư tưởng của chủ
nghĩa Mác- lênin về nhà nước một cách sáng tạo, tiếp thu một cách chọn
lọc để có thể tìm ra con đường cứu nước, đem lại nền độc lập tự do cho đất
nước. Đồng thời xây dựng được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân, một nhà nước vẫn mang bản chất giai cấp nhưng
lại có tính xã hội hóa. Đặc biệt thông qua tư tưởng về nhà nước trong tác
phẩm “nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” là tiền
đề cho những tư tưởng tiếp theo về nhà nước được ra đời.

19


Hiện nay vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước nói riêng và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung đòi hỏi phải có sự vận dụng một
cách linh hoạt những tư tưởng đó. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước
ta có nhiều nghị quyết về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước, về cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Song, năng lực
quản lý điều hành của bộ máy Nhà nước ta chưa ngang tầm với đòi hỏi của
thời kỳ mới. vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước ta hiện nay:
Thứ nhất, đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền
Việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải phù hợp với đặc điểm

của hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ” do một Đảng duy nhất lãnh đạo, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Kiện toàn tổ chức bộ máy phải nhằm bảo đảm các cơ quan trong hệ
thống chính trị hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình
trạng quan liêu, trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức
không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
cả hệ thống chính trị.
Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước phải
bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hệ
thống chính trị nước ta.
Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải vừa kế thừa những thành
quả, kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, Đổi mới nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước
trong điều kiện mới
20


Trước hết cần phải nhận thức đúng, nhận thức đầy đủ vai trò, chức
năng của Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là Nhà nước với lý tưởng dân
chủ, nhân đạo và công bằng nhất, trong đó nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực. Pháp luật thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục
vụ nhân dân. Mọi mặt tổ chức và hoạt động của Nhà nước đều đặt trên cơ
sở pháp luật, chịu sự quản lý thống nhất của pháp luật. Pháp luật là tối
thượng, Nhà nước không thể đứng trên hay đứng ngoài pháp luật, Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước và công dân bình đẳng trước
pháp luật.

*Cần nhận thức đúng bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân:
Nhà nước của dân nghĩa là Nhà nước trong đó tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, nhân dân là chủ thể cao nhất, duy nhất của quyền lực Nhà
nước, Nhà nước do dân, nghĩa là Nhà nước do nhân dân dựng lên, nhân dân
là cuội nguồn của Nhà nước. Vì Nhà nước của dân nên việc xây dựng và
quản lý Nhà nước phải do nhân dân đảm nhận, nhân dân quyết định. “Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Nhà nước
vì dân nghĩa là Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển không ngoài mục đích
phục vụ nhân dân, Nhà nước với tính chất là công cụ đắc lực để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình, là công cụ hữu hiệu để nhân dân xây
dựng và bảo vệ đất nước mình.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân không có nghĩa là Nhà nước làm
cho dân, làm thay dân tất cả. Nhà nước phải bảo đảm được quyền làm chủ
của nhân dân để phát huy được tính sáng tạo, sức mạnh của dân, để nhân
dân thực sự là người chủ đất nước mình, được làm tất cả những gì mà luật
pháp không cấm, được cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước
21


* Nhận thức đúng vấn đề phân công quyền lực trong tổ chức bộ máy
Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, kiến tạo bộ máy quyền lực Nhà nước phải
quán triệt một cách sâu sắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện 3
quyền “lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Và cải cách bộ máy Nhà nước hiện nay không có nghĩa là phải quy
định lại các thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có vị trí
cao nhất, mà ở chỗ phải hoàn thiện tổ chức của các cơ quan này để chúng
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đúng theo thẩm quyền và trách nhiệm như

Hiến pháp đã quy định
Thứ ba, các định hướng kiện toàn bộ máy nhà nước trong điều kiện
mới
* Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Như vậy
Quốc hội là cơ quan làm luật, sản phẩm chủ yếu của Quốc hội là luật và
đạo luật. Hoàn thiện tổ chức nâng cao vai trò và vị thế của Quốc hội trong
bộ máy Nhà nước hiện nay không có nghĩa tăng thêm thẩm quyền cho
Quốc hội mà ở chỗ tăng cường năng lực làm luật của Quốc hội và của các
đại biểu Quốc hội.
Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật; giảm mạnh việc ban hành
Pháp lệnh; khắc phục tình trạng ban hành luật khung, hạn chế tối đa luật
phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản pháp luật ban hành phải
quán triệt tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính; quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước; hạn chế tối đa việc quy định về tổ chức bộ máy ngay trong các luật
chuyên ngành và quy định thủ tục hành chính phức tạp.
22


Nâng cao năng lực và chất lượng giám sát của Quốc hội, xác định rõ
cơ chế giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ;
đổi mới việc xem xét báo cáo công tác và việc trả lời chất vấn của Chính
phủ, của Toà án nhân dân Tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao
cần đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ
ban của Quốc hội, tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội theo hướng
chuyên sâu hơn; tăng thêm các thành viên chuyên trách, cải tiến lề lối làm
việc của các Uỷ ban. Hoàn thiện quy chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng
đại biểu Quốc hội; đề cao vai trò và trách nhiệm của từng đại biểu Quốc
hội.

* Tiếp tục kiện toàn bộ máy của Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
Nhà nước cao nhất. Chính phủ với tính cách là cơ quan đứng đầu nền hành
chính quốc gia, có vị trí đặc biệt quan trọng.
Từ nhận thức như vậy, cần “đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới
tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan
hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại, đúng với vai trò là cơ quan
hành chính cao nhất”. Chính phủ tập trung thực hiện tốt hơn nữa chức năng
quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định.
Một nền hành chính mạnh mẽ phải được bắt đầu từ một Chính phủ
mạnh. Chính phủ và bộ máy hành chính Nhà nước thống nhất quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an
ninh và đối ngoại theo đúng chức năng, thẩm quyền theo luật định.

23


C. KẾT LUẬN
Với tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã trả lời một cách khoa học câu hỏi
nhà nước là gì, nó xuất hiện như thế nào và trên cơ sở nào, tại sao trong các
thời kỳ lịch sử khác nhau, nhà nước lại có các hình thức và vai trò khác
nhau. Nhà nước xuất hiện là do những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hoà. Nhà nước là cơ quan thống trị của một giai cấp này đối với một số giai
cấp khác, nhà nước có bản chất giai cấp của nó. Từ việc chỉ ra nguồn gốc
xuất hiện nhà nước, bản chất giai cấp của nhà nước và tính chất bóc lột, áp
bức giai cấp của các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản,
Ph.Ăngghen nêu lên quan điểm về một nhà nước kiểu mới - nhà nước của
giai cấp vô sản khác về chất so với các kiểu nhà nước áp bức, bóc lột và
bác bỏ những quan điểm phản khoa học về vấn đề nhà nước.
Những luận điểm của Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm này

thể hiện sự phát triển và hoàn chỉnh về cơ bản và có hệ thống các quan
điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước. Dựa trên quan điểm duy vật
về lịch sử và các sự kiện lịch sử Ph.Ăngghen làm rõ được cơ sở nguồn gốc
ra đời của nhà nước,bản chất, đặc trưng của nhà nước, chức năng của nhà
nước và sự tiêu vong nhà nước. Ph.Ăngghen cho rẳng nhà nước là một
phạm trù lịch sử, sự xuất hiện và mất đi của nhà nước là tất yếu như nhau.
Những tư tưởng về nhà nước của Ph.Ăngghen có ý nghĩa quan trọng
và là cơ sở cho những tư tưởng để xây dựng Nhà nước sau này. Lênin và
Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo và phát triển những tư tưởng
đó, đồng thời để chống lại những tư tưởng phi mác xít và những tư tưởng
phản động. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt Nam
hiện nay đã có sự vận dụng sáng tạo, trong đó việc có xây dựng, bảo vệ và
đổi mới bộ máy nhà nước Việt Nam nhất là trong giai đoạn hiện nay.
24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph.Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật, Hà
Nội, t.21,1995.
2. Đỗ Mười: Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh. Nxb, Chính trị quốc gia, 1988.
3. TS. Nguyễn Thọ Khang: Giới thiệu một số tác phẩm của C.Mác và
ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị - Hành chính,
2013.
4. TS. Trần Ngọc Liêu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. TS. Nguyễn xuân Phong: Giới thiệu một số tác phẩm của C.Mác, ph.
Ăng ghen và V.I.Lênin về chính trị. Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
6. PGS, TS. Lê Minh Quân: Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

7. TS. Phạm Tất Thắng: Tư tưởng của C.Mác, ph.Ăng ghen, V.I.Lênin về
công tác tổ chức và vấn đề vận dụng của Đảng ta hiện nay. Nxb, Chính trị
quốc gia – Sự thật, 2013.
8. PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn, PGS, TS. Trần Ngọc Linh, PGS, TSKH.
Trần Nguyễn Tuyên: Quan điểm chính trị trong một số tác phẩm kinh điển
Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.

25


×