Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tong hop day du cac CAU HOI VA DAP AN thi tot nghiep nganh kinh te chinh tri p3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.37 KB, 15 trang )

Câu 16- Trình bày
những nội dung cơ bản
trong tác phẩm “ Những
nhiệm vụ trước mắt của
chính quyền Xô Viêt” của
V.I.Lê nin và nêu rõ nhiệm
vụ tổ chức quản lý đất
nước. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu tác phẩm này
đối với việc phát triển và
quản lý nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện
nay.
1- Những nhiệm vụ trước
mắt của chính quyền Xô
Viết :
- Nhiệm vụ thứ nhất:
Đảng phải thuyết phục cho
đa số nhân dân thấy được sự
đúng đắn của cương lĩnh và
sách lược của mình
Nhiệm vụ này được tiến
hành từ trước CM tháng
Mười – 1917, trong thời kỳ
Nga Hoàng. Vì muốn chiến
thắng giai cấp tư sản, thì
ĐCS Bôn-sevich Nga phải
có đường lối để lôi kéo quần
chúng, trước hết là nộng dân
đi theo giai cấp vô sản để
xây dựng khối liên minh


công nông dưới sự lãnh đạo
của Đảng, của giai cấp vô
sản. Đây là LL nòng cốt để
từ đó xây dựng mặt trận tập
hợp mọi tầng lớp trong XH
để giành chính quyền từ tay
giai cấp tư sản để xác lập
nhà nước Xô Viết.
Ngày nay, nhiệm vụ này
vẫn chưa hoàn thành và theo
Lênin sẽ không bao giờ
hoàn thành triệt để được,
nhưng cũng đã hoàn thành
được về cơ bản rồi vì đa số
công nhân và nông dân Nga
đã đứng về phí những người
Bôn-sê-vich.
- Nhiệm vụ thứ hai:
Giành lấy chính quyền và
đập tan sự phản kháng của
bọn bóc lột
Đối với nhiệm vụ này
cũng đã hoàn thanh xong
xuôi và không thể coi
thường. Đây là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp vì sau
khi mất chính quyền giai cấp
tư sản cấu kết với bọn phản

động, bọn cơ hội, bọn Men

sê vích… để mưu toan hòng
lật đổ chính quyền Xô Viết.
Nhưng về căn bản, nhiệm vụ
đập tan sự phản kháng của
giai cấp bóc lột đã hoàn
thành từ tháng Mười – 1917
đến 2/1918.
- Nhiệm vụ thứ ba:
Nhiệm vụ tổ chức quản lý
nước Nga
Trước tình hình mới thì
nhiệm vụ tổ chức quản lý xã
hội trở thành nhiệm vụ chủ
yếu, trung tâm. Do đó phải
làm cho mọi người hiểu rõ
những đặc điểm của bước
chuyển từ nhiệm vụ chủ yếu
là thuyết phục nhân dân và
dùng lực lượng quân sự trấn
áp bọn bóc lột, sang nhiệm
vu chủ yếu là quản lý.
- Đây là nhiệm vụ khó
khăn và cao cả
* Là nhiệm vụ khó khăn vì:
+ Lần đầu tiên bắt tay vào
xây dựng một xã hội mới-xã
hội XHCN
+ Phải xây dựng một PTSX
mới
+ Phải tổ chức những cơ sở

kinh tế của đời sống của
hàng chục triệu con người.
Trước đây quản lý mang
tính chất hành chính, mệnh
lệnh, thì nay quản lý mang
tính chất kinh tế, phải tính
đến hiệu quả kinh tế.
* Đây là nhiệm vụ cao cả
nhất: làm tốt nhiệm vụ tổ
chức, quản lý nền kinh tế thì
mới có thể nói rằng nước
Nga không những là nước
Cộng hòa Xô viết mà còn là
nước cộng hòa XHCN.
Theo Lê Nin, nội dung bao
trùm của nhiệm vụ tổ chức,
quản lý xã hội là phải thiết
lập một xã hội mới, một kiểu
tổ chức mới, mà hệ thống tổ
chức đó thật sự xã hội hóa,
đưa năng suất lao động của
toàn xã hội lên cao- đó là
xác lập PTSX CSCN.
b- Nội dung cơ bản của
nhiệm vụ tổ chức quản lý
xã hội:

Muốn làm được điều
đó thì phải thực hiện hai nội
dung cụ thể sau:

- Thứ nhất, phải tiến hành
cải tạo toàn bộ nền kinh tế
quốc dân
+ Xóa bỏ quan hệ sản xuất
cũ xây dựng quan hệ sản
xuất mới
+ Tiếp tục đấu tranh giai cấp
dưới hình thức mới và
phương pháp mới tạo ra
những điều kiện khiến cho
giai cấp tư sản không thể tồn
tại và tái sinh được.
- Thứ hai, phải chuyển nền
kinh tế nhỏ, cá thể lên sản
xuất lớn tập thể, hiện đại. Vì
Xuất phát từ đặc điểm của
nước Nga.
- Nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa chưa phát triển
- Tuyệt đại vẫn là tiểu nông,
sản xuất nhỏ, cá thể
- Bị chiến tranh tàn phá
Do đó, trước hết phải giúp
đỡ nông dân, phát triển lực
lượng sản xuất, đưa tiến bộ
khoa học vào để nâng cao
năng suất lao động xã hội;
xác lập được một xã hội cao
hơn CNTB cả về 2 phương
diện :

+ Đây là một xã hội lao
động được tổ chức ở trình
độ cao, xã hội dựa trên chế
độ công hữu về TLSX chủ
yếu.
+ Xã hội này tạo ra một
năng suất lao động cao hơn
CNTB. Đó là cái quyết định
thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội đối với CNTB.
C- Những biện pháp để
thực hiện nhiệm vụ tổ
chức quản lý xã hội
* Biện pháp thứ nhất: phải
tiến hành kiểm kê, kiểm soát
việc phân phối sản phẩm có
tính chất toàn xã hội.
- Mục đích của kiểm kê kiểm
soát : là nhằm làm cho mọi
người có bánh mì, áo mặc,
có nhà để ở… từ đó loại trừ
bọn ăn bám, tức bọn nhà
giàu và bọn tham nhũng.
Đối với bọn này phải thẳng
tay trừng trị

Nội dung
của kiểm kê,
kiểm soát:
* Một là, phải

kiểm kê kiểm
soát những xí
nghiệp trong
các ngành kinh
tế…qua kiểm
kê kiểm soát,
công nhân sẽ
học được cách
quản lý và từ
đó tham gia
điều tiết sx và
nâng
cao
NSLĐ.
* Hai là, phải
kiểm kê kiểm
soát các giai
cấp bóc lột, bọn
nhà giàu, ăn
cắp, lưu manh;
để thấy tàn dư
xấu xa của xã
hội cũ, để phá
ung nhọt của
CNTB để lại,
bắt nó phục
tùng CNXH và
phục
tùng
nghĩa vụ LĐ.

* Ba là, phải
kiểm kê, kiểm
soát tình hình
sản xuất và
phân phối sản
phẩm, đây là
thực chất của
cải
tạo
XHCN…từ đó
nắm được tình
hình để đề ra
đường lối kinh
tế đúng đắn
cho từng thời
kỳ.
Cụ thể là:
- Chống quan
liêu
tham
nhũng
- Quốc hữu hóa
ngân
hàng,
kiểm soát lưu
thông tiền tệ
- Thiết lập
chính sách thuế

1



- Áp dụng chế độ nghĩa vụ
lao động
- Củng cố và chỉnh đốn
những tổ chức độc quyền
Nhà nước…độc quyền
ngoại thương
* Ý nghĩa của kiểm kê, kiểm
soát
Không kiểm kê, kiểm soát
thì không điều tiết được sản
xuất, không quản lý được
đất nước
- Không chống được tính tự
phát tiểu tư sản, vô chính
phủ
- Không kiểm kê kiểm soát
thì những mầm mống của
CNXH sẽ bị tiêu diệt
* Biện pháp thứ hai Phải
thực hiện nghĩa vụ lao động
và xây dựng kỷ luật lao
động
- Chế độ nghĩa vụ LĐ trước
hết là đối với bọn bóc lột,
lười biếng, bọn ăn bám, đối
với bọn này phải cưỡng bức
LĐ thì mới được sống chính
đánh trong XH mới.

- Đi đôi với chế độ nghĩa vụ
LĐ cưỡng bức đối với bọn
bóc lột, ăn bám. Còn phải áp
dụng chế độ nghĩa vụ LĐ tự
giác đối với mọi người LĐ.
* Biện pháp thứ ba: Sử
dụng chuyên gia tư sản và
lợi dụng thành tựu khoa họckỹ thuật của CNTB
- Sử dụng chuyên gia tư
sản để học tập kinh nghiệm
quản lý của họ bằng cách trả
lương cao cho các chuyên
gia tư sản
- Học cách làm việc của
tư sản: phương pháp Taylo
và chế độ quản lý TBCN.
- Tiếp thu và học tập tất
cả mọi thành tựu khoa học
kỹ thuật của CNTB
* Biện pháp thứ tư: Tổ
chức thi đua xã hội chủ
nghĩa
- Thi đua là cần thiết và có
nhiều tác dụng:
+ Kích thích tính tích cực
của quần chúng trong lao
động sản xuất và quản lý
đất nước
+ Thông qua phong trào
thi đua mà phát hiện nhân


tài, sàng lọc, thử thách,cất
nhắc đề bạt cán bộ
* Biện pháp thi đua:
- Chế độ công bố công
khai, Luật lệ, Kiểm kê, kiểm
soát
- Sử dụng báo chí để
làm công cụ xây dựng
CNXH. Báo chí phải giới
thiệu hết sức tỉ mỉ những
thành công của các công xã
kiểu mẫu, phải nghiên cứu
nguyên nhân thành công,
những phương pháp làm
việc và quản lý của các công
xã đó.
- Cần phải nêu gương
điển hình để thu hút đông
đảo quần chúng LĐ tham
gia phong trào thi đua
- Tự phê bình và phê
bình
* Biện pháp thứ năm:
Nguyên tắc tập trung
dân chủ
- Thứ nhất, kết hợp sự
quản lý kinh tế tập trung, có
kế hoạch với việc phát huy
dân chủ rộng rãi, có sự tham

gia của quần chúng.
- Thứ hai, kết hợp
nguyên tắc tập thể dân chủ
XHCN với sự chuyên chính
của cá nhân, tức là kết hợp
sự lãnh đạo của thủ trưởng
với sự tham gia ở dưới lên.
* Biện pháp thứ sáu:
Nâng cao năng suất lao động
- Chủ nghĩa xã hội muốn
chiến thắng được CNTB
phải có năng suất lao động
cao hơn
- Đối với nước Nga, muốn
nâng cao năng suất lao động
phải có những điều kiện sau:
- Phải có cơ sở vật chất của
một nền đại công nghiệp,
phát triển ngành nhiên liệu,
sắt, máy móc, CN hóa chất.
- Phải nâng cao trình độ học
vấn và văn hóa của quần
chúng nhân dân.
- Phải nâng cao tinh thần kỷ
luật lao động, nâng cao kỹ
năng lao động, tính khéo léo,
tăng cường độ LĐ và tổ
chức LĐ cho tốt hơn.
- Phải tiếp thu, học tập
khoa học kỹ thuật và kinh


nghiệm quản lý của CNTB,
mà trước hết là phương pháp
Taylo.
- Phải chú ý cả hai mặt:
Một mặt phải xây dựng
được những cơ sở của việc
tổ chức thi đua XHCN và
mặt khác phải dùng những
biện pháp cưỡng bức lao
động.
* Biện pháp thứ bảy:
phải thực hiện chuyên chính
vô sản
- Trước hết Lê nin phê
phán những quan điểm cải
lương, cơ hội, muốn xóa bỏ
CM vô sản và chuyên sinh
vô sản. Lê nin viết “… Ai
tưởng rằng bước chuyển từ
CNTB lên CNXH có thể
thực hiện được, mà không
cần đến cưỡng bức và
chuyên chính, thì sẽ phạm
một điều dại dột hết sức lớn
và tỏ ra không tưởng một
cách hết sức vô lý”.
- Thực tiễn chứng minh
rằng, chỉ có chuyên chính tư
sản hay chuyên chính vô sản

chứ không có một trung gian
nào. Vì vậy, Lênin khẳng
định từ CNTB lên CNXH
thì chuyên chính vô sản là
một tất yếu.
-Tính tất yếu phải có chuyên
chính vô sản:
+ Để đập tan sự phản kháng
của giai cấp bóc lột và bọn
chống đối cách mạng
+ Để tổ chức xây dựng xã
hội mới-XHCN
- Nhiệm vụ của chuyên
chính vô sản:
- Bạo lực trấn áp- phải có
bàn tay sắt
- Tổ chức xây dựng, quản lý
đất nước
Biện pháp:
- Phát động nhân dân tự giác
xây dựng đất nước, quản lý
dân chủ
- Sử dụng luật pháp, tòa án
để cưỡng bức đối với những
kẻ phạm pháp
- Giáo dục thuyết phục,
đấu tranh với tính tự phát
tiểu tư sản
- Đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng độc đoán


Tóm lại,
trong thời kỳ
quá độ từ
CNTB
lên
CNXH,
cần
phải có Nhà
nước CCVS;
cần phải có
cưỡng
bức.
Mức độ và
hình
thức
cưỡng bức này
phụ thuộc vào
ba yếu tố
- Trình độ
phát triển của
giai cấp cách
mạng
Hoàn
cảnh lịch sử
bên trong và
bên ngoài
Hình
thức
phản

kháng của giai
cấp tư sản và
tiểu tư sản
III-Ý
NGHĨACỦA
TÁC PHẨM
Việt Nam
có nhiều đặc
điểm
tương
đồng với nước
Nga khi bắt tay
vào xây dựng
CNXH cho nên
tác phẩm này
có ý nghĩa to
lớn. Do đó,
những tư tưởng
của Lê nin
trong tác phẩm,
cũng như qua
thực tiễn quá
trình xây dựng

hình
CNXH trong
thời kỳ quá độ
ở Liên Xô
trước đây, đã
để lại cho

chúng ta những
cơ sở lý luận và
thực tiễn phong
phú để bắt tay

2


vào xây dựng mô hình
CNXH ở nước ta :
+ Vấn đề xã hội hóa sản
xuất
+ Vấn đề xây dựng chế độ
quản lý mới là cấp bách
- Về khuyến khích vật chất
kết hợp với giáo dục tư
tưởng chính trị
- Về chế độ tiết kiệm
- Về phương pháp lãnh đạo
+ Phương thức và hình thức,
biện pháp lãnh đạo phải
được chuyển biến và hoàn
thiện khi tình hình đã thay
đổi.
+ Phải biết nắm lấy khâu
trung tâm, mắt xích chủ yếu
trong từng giai đoạn cách
mạng
Những bài học kinh
nghiệm đó giúp ta tránh

được những vấp váp, những
bước đi quanh co để rút
ngắn được thời gian xây
dựng CNXH, nhanh chóng
đạt tới mục tiêu cuối cùng
mà Đảng và Nhà nước ta đề
ra là “Dân giàu, nước mạnh,
XH công bằng, dân chủ, văn
minh”.

Câu 17: Phân
tích khái niệm, tính tất
yếu, tác dụng của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay.
Trả lời: gồm 3 ý.
1/ Khái niệm.
Hội nghị lần thứ
Bảy Ban chấp hành Trung
ương khóa VII Đảng ta đã
quan niệm đầy đủ và rõ
ràng vầ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa như sau:
“Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là quá trình
chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ

và quản lý kinh tế, xã hội
từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến,
hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao”.
Như vậy, theo
quan điểm của Đảng ta
hiện nay, quá trình CNH ở
nước ta là quá trình CNH,
HĐH, là quá trình cải biến
lao động thủ công lạc hậu
thành lao động sử dụng
máy móc, khoa học kỹ
thuật tiên tiến hiện đại.
Đo đó, CNH, HĐH ở
nước ta so với trước đây
có những điểm mới như
sau:
Thứ nhất: CNH
phải gắn liền với HĐH.
Có như vậy mới rút ngắn
được quá trình CNH.
Thứ hai: CNH,

HĐH theo cơ chế mới –
cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nướckhông còn theo cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp.
Thứ ba: CNH,
HĐH là sự nghiệp của

toàn dân với sự tham gia
của tất cả các thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ
đạo.
Thứ tư: CNH,
HĐH theo xu thế quốc tế
hóa và hội nhập kinh tế
thế giới, tham gia phân
công lao động quốc tế
không phải theo kiểu
khép kín làm từ đầu đến
cuối như trước đây.
Đối với các nước
tư bản chủ nghĩa, CNH là
một quá trình tự phát, bắt
đầu từ công nghiệp nhẹ,
cần ít vốn đầu tư nhưng
đảm bảo thu được lợi
nhuận nhanh chóng. Công
nghiệp nặng chỉ bắt đầu
phát triển khi công nghiệp
nhẹ đã tích lũy được

nhiều lợi nhuận, đòi hỏi
phải có nhiều máy móc
thiết bị, vận tải đường sắt
phát triển.
Nước ta tiến hành
CNH, HĐH nền kinh tế
quốc dân trong thời kỳ
quá độ nhằm mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, nâng cao phúc lợi
vật chất và văn hóa của
nhân dân lao động. Mỗi
bước tiến hành CNH,
HĐH đều gắn liền với
việc xây dựng, củng cố và
hoàn thiện các quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa
mà nền tảng là kinh tế nhà
nước và kinh tế hợp tác
xã. Sự nghiệp CNH, HĐH
được tiến hành một cách
có ý thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng ta, dưới sự
điều hành và quản lý của
nhà nước, nhà nước của
dân , do dân và vì dân.
Như vậy, Quá
trình CNH, HĐH ở nước
ta có bản chất xã hội khác
với quá trình CNH đã

từng diễn ra ở các nước tư
bản phát triển hoặc các
nước công nghiệp mới.
Với tính chất ưu việt của
chế độ xã hội mới, với
việc học hỏi có chọn lọc

kinh nghiệm
của các nước
đi
trước,
CNH, HĐH
nước ta có thể
đi nhanh và
hiệu quả hơn.
2/ Tính tất
yếu.
CNH
là quá trình có
tính quy luật
đối với tất cả
các
nước
muốn tìm con
đường
phát
triển để thoát
khỏi
nghèo
nàn, lạc hậu

so với các
nước khác.
- Đối
với các nước
đã qua tư bản
chủ
nghĩa
cũng phải tiến
hành
công
nghiệp hoá,
hiện đại hoá
để:
+ Tổ chức,
sắp xếp lại
nền đại công
nghiệp
TBCN, phân
bố lại cho
đồng đều, hợp

trong
phạm vi cả
nước để hình
thành cơ sở
vật chất kỹ
thuật cho chủ
nghĩa xã hội.
+ Sử dụng và
tiếp thu những

thành
tựu
khoa học kỹ
thuật, tiếp tục
phát
triển
khoa học –
công nghệ để
thúc đẩy lực
lượng
sản
xuất phát triển
+ Hình thành
cơ cấu kinh tế
mới xã hội
chủ nghĩa có

3


trình độ cao trên cơ sở
phân công lao động xã hội
phát triển, đảm bảo tính
hiện đại, hợp lý và hiệu
quả.
- Đối với các nước đang
phát triển:
Tất yếu phải công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
để xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội.
-Đối với nước ta,
một nước nông nghiệp sản
xuất nhỏ, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cần thiết phải
tiến hành CNH, HĐH. Sự
nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta là cần thiết khách
quan vì những lý do sau:
+ Để khắc phục
tình trạng kinh tế nghèo
nàn, kỹ thuật lạc hậu, sản
xuất kém phát triển, tút
hậu xa so với các nước
trong khu vực và trên thế
giới, tình trạng bất bình
đẳng và phụ thuộc về kinh
tế, chính trị, xã hội còn
tồn tại...
+ Do yêu cầu cải
tổ cơ cấu kinh tế, hình
thành cơ cấu kinh tế mới
hợp lý, hiện đại, tạo ra sức
sản xuất mới, khai thác,
sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên
nhiên, phát triển sản xuất,
nâng cao năng suất lao
động, cải thiện đời sống

nhân dân.
+ Do yêu cầu đẩy
mạnh phát triển lực lượng
sản xuất để hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới
XHCN, tạo ra sự phù hợp
giữa QHSX với tính chất
và trình độ của LLSX.
Trên cơ sở đó hình thành
những quan hệ mới về
kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và tư tưởng.
+ Do yêu cầu phát
triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhanh chóng
hội nhập vào kinh tế khu
vực và thế giới, tạo điều
kiện tốt để thực hiện sự

phân công và hợp tác
quốc tế.
+ Do yêu cầu xây
dựng, củng cố an ninh,
quốc phòng, hiện đại hóa
quân đội, xây dựng lực
lượng quân sự mạnh, có
vũ khí, khí tài hiện đại đủ
sức bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa.
3/ Tác dụng
Việc tiến hành
CNH, HĐH nhằm xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật cho CNXH. Nếu
CNH, HĐH thực hiện tốt
sẽ phát huy nhiều tác
dụng to lớn đối với sự
phát triển mạnh mẽ nền
kinh tế quốc dân.
Thứ nhất: Tiến
hành CNH, HĐH sẽ tạo
điều kiện thay đổi về chất
cho nền sản xuất xã hội,
làm tăng năng suất lao
động xã hội, tăng khả
năng chinh phục và chế
ngự thiên nhiên của con
người, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, phát
triển xã hội, nâng cao đời
sống của nhân dân, ổn
định tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội, góp phần
quyết định sự thắng lợi
của CNXH.
Thứ hai: Tiến
hành CNH, HDH sẽ tạo
cơ sở vật chất, tăng cường

củng cố vai trò của kinh tế
nhà nước, nâng cao năng
lực quản lý, khả năng tích
lũy và phát triển sản xuất
tạo ra nhiều việc làm,
nâng cao thu nhập giúp
cho sự phát triển tư do và
toàn diện của con người
trong mọi hoạt động của
nền sản xuất xã hội.
Thứ ba: Tạo điều
kiện cho khoa học kỹ
thuật và công nghệ phát
triển nhanh, tiên tiến, hiện
đại; tăng cường lực lượng
vật chất – kỹ thuật cho
quốc phòng vững mạnh,
đảm bảo an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội của

đất nước trong sáng, lành
mạnh.
Thứ tư: tạo điều
kiện để nhanh chóng xây
dựng một nền kinh tế độc
lập tự chủ, đa dạng hóa,
đa phương hóa, phát triển
kinh tế hàng hóa, thực
hiện tốt việc mở rộng
phân công và hợp tác lao

động sản xuất trong nước
và quốc tế, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả
trên tất cả các mặt, các
lĩnh vực.
Như vậy, Công
nghiệp hóa hiện đại hóa
có mối quan hệ gắn bó
trực tiếp với lực lượng sản
xuất. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là để thực
hiện xã hội hóa sản xuất
về mặt kinh tế - kỹ thuật
theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nó có tác
dụng, ý nghĩa quan trọng
và toàn diện. Đảng ta đã
xác định: " Phát triển lực
lượng sản xuất, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo hướng hiện
đại... là nhiệm vụ trung
tâm" trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

4


Câu 18: Phân tích

nội dung, điều kiện và
giải pháp đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay.
Trả lời:
1- Nội dung
a- áp dụng cách
mạng khoa học – công
nghệ để xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay cuộc CM
KH - CN đang phát triển
với tốc độ hết sức nahn
chóng. Cuộc cách mạng
KHCN có những đặc
trưng cơ bản như sau:
Một là: cách mạng
khoa học kỹ thuật gắn liền
với cách mạng công nghệ,
nên còn gọi là cách mạng
công nghệ mới với những
thành tựu công nghệ hiện
đại làm biến đổi sâu sắc
trình độ, khả năng sản

xuất, số lượng và chất
lượng sản phẩm.

Hai là: Khoa học,
công nghệ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp
bởi những thành tựu của
nhiều ngành khoa học như
khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội, khoa học kỹ
thuật, khoa học kinh tế…
Đều tác động trực tiếp đến
sản xuất. Thời gian phát
minh khoa học được đưa
ra ứng dụng đã rút ngắn,
phạm vi ứng dụng rộng
rãi hơn.
Ba là: Cách mạng
kHCN đã đưa loài người
bước vào thời đại mới,
một nền văn minh tiến bộ
- nền văn minh tin học.
Cách mạng khoa
học công nghệ hiện nay
đã có những thành tựu và
nội dung mới như:
-Tự động hóa cao:
sử dụng người máy, tự
động điều khiển.
-Nguồn năng lượng
mới: sử dụng năng lượng
nguyên tử, mặt trời, thủy
điện.

-Vật liệu mới bền,
nhẹ, chịu nhiệt như: sứ
chịu nhiệt, chất siêu dẫn,
sợi quang học.
-Công nghệ mới:
công nghệ điện tử, sinh
học, tin học.
-Về điện tử tin học:
đây là lĩnh vực rộng lớn,
mới mẽ đã đạt được
những thành tựu hiện đại
như: Máy tính điện tử, vi
điện tử, tin học, viễn tin
học…
Cách mạng KHCN
ở nước ta hiện nay phải
làm tốt hai nhiệm vụ sau:
Một là: Trang bị kỹ
thuật công nghệ hiện đại,
tiên tiến cho kinh tế quốc
dân, hình thành cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXH.
Hai là: Tổ chức
nghiên cứu, thu thập
thong tin, phổ biến ứng
dụng những thành tựu
mới của KHCN hiện đại

vào sản xuất,
đời sống với

những
hình
thức, bước đi,
quy mô thích
hợp.
Cốt lõi
của
CNH,
HĐH là cải
biến lao động
thủ công, lạc
hậu thành lao
động sử dụng
kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại
để đạt năng
suất lao động
xã hội cao.
Cần thực hiện
cơ khí hóa,
hiện đại hóa
và tự động
hóa sản xuất,
trước hết là cơ
khí hóa một
cách phổ biến.
Thực
hiện
CNH,
HĐH

các
ngành của nền
kinh tế quốc
dân đòi hỏi
phải được tiến
hành đồng bộ,
cân đối. Có
như vậy mới
tạo điều kiện
thuận lợi cho
nền sản xuất
xã hội phát
triển tốt với
tốc độ nhanh,
hiệu quả.
Tóm lại,
để phát triển
LLSX,
xây
dựng cơ sở
vật chất – kỹ
thuật
cho
CNXH
cần
chú ý những
điểm sau:
- Phải ứng
dụng
công

nghệ mới tiên
tiến, hiện đại
kết hợp với
công
nghệ
truyền thống.

5


- Sử dụng công nghệ mới,
tốn ít vốn, vòng quay
nhanh, hiệu quả cao, thu
hút nhiều lao động, giữ
nguyên được các ngành
nghề truyền thống.
- Kết hợp phát triển chiều
rộng với phát triển theo
chiều sâu, xây dựng mới
cải tạo cũ, thực hành tiết
kiệm.
- Kết hợp các loại quy mô
lớn, vừa và nhỏ cho thích
hợp, cải tiến quy mô vừa
và nhỏ, coi trọng hiệu quả
sx kinh doanh và hiệu quả
kt -xh.
- Vừa tuần tự, vừa nhảy
vọt đi tắt đón đầu.
- Vừa phát triển khoa học

cơ bản vừa phát triển
khoa học ứng dụng, đặc
biệt ưu tiên khoa học ứng
dụng.
b- Xây dựng cơ
cấu kinh tế mới kết hợp
với phân công lao động
Cơ cấu kinh tế quốc
dân là tổng thể các cơ cấu
ngành, vùng và các thành
phần kinh tế. Trong hệ
thống các cơ cấu đó cơ
cấu ngành là quan trọng
nhất
Thực hiện CNH,
HĐH nền kinh tế quốc
dân là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ lạc
hậu, ít hiệu quả sang một
cơ cấu ngày càng phù hợp
với xu hướng phát triển
của nền sản xuất hiện đại,
do sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học, công
nghệ.
Sự phát triển cơ sở
vật chất – kỹ thuật trong
tiến trình CNH, HĐH gắn
liền một cách hữu cơ với
quá trình phát triển phân

công lao động xã hội.
Phân công lao động
xã hội là sự phân chia sắp
xếp lao động vào các
ngành, các lĩnh vực, các
vùng kinh tế nền kinh tế
quốc dân nhằm tạo ra
những quan hệ kinh tế

mới giửa các ngành, các
vùng và các lĩnh vực kinh
tế khác nhau. Phân công
lao động theo hướng
CNH, HĐH ở nước ta
hiện nay phải tuân thủ các
quá trình có tính quy luật
sau:
+Tỷ trọng và số lượng
tuyệt đối lao động công
nghiệp, dịch vụ ngày một
tăng.
+Tỷ trọng và số lượng
tuyệt đối lao động tong
ngành sản xuất phi vật
chất, dịch vụ tăng dần và
tốc độ tăng phải nhanh
hơn các ngành sản xuất
vật chất.
+Tỷ trọng lao động trí tuê
ngày càng tăng và chiếm

ưu thế so với lao động
giản đơn trong tổng số lao
động xã hội.
Phân công lao
động xã hội có ảnh hưởng
trực tiếp tới việc hình
thành cơ cấu kinh tế hợp
lý.
Cơ cấu kinh tế là
tổng thể hữu cơ các mối
quan hệ chủ yếu về chất
lượng và số lượng tương
đối ổn định của các yếu tố
kinh tế, hoặc các bộ phận
hợp thành của nền kinh tề,
của LLSX và quan hệ sản
xuất trong hệ thống tái sản
xuất xã hội, với những
điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định và trong những
thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế có
nhiều loại: Cơ cấu ngành,
cơ cấu vùng, cơ cấu thành
phần kinh tế,... Trong đó
cơ cấu ngành kinh tế có
vai trò quan trọng nhất.
Cơ cấu kinh tế được coi là
hợp lý, là tối ưu khi nó
đảm bảo các yêu cầu sau:

-Tạo ngành nghề
sản xuất mới, quan hệ
kinh tế mới, nhiều việc
làm mới phù hợp với quy
luật khách quan, nhất là
quy luật kinh tế , phản ánh
đúng xu hướng vận động

phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước.
-Phù hợp với thị
trường trong nước và
quốc tế, với sự tiến bộ
KHCN đang phát triển
như vũ bảo trên thế giới.
Phải tốn ít vốn,
hiệu quả cao, cho phép
khai thác tối đa tiềm năng
của đất nước, của các
ngành, các thành phần,
các xí nghiệp cả bề rộng
và bề sâu.
-Hoạt động ngay,
vòng quay nhanh, lãi suất
cao, thực hiện sự phân
công, hợp tác quốc tế theo
hướng quốc tế hóa sản
xuất và đời sống ngày
càng phát triển của cơ cấu
kinh tế mở.

-Phải tạo được đà
cho sự phát triển tiếp theo
của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Theo tinh thần
NQ ĐH lần thứ 9 về xây
dựng cơ cấu kinh tế, trong
những năm trước mắt cần
tập trung vào các lĩnh vực
sau:
* Xây dựng cơ cấu
ngành:
+ Nông nghiệp:Phát
triển nông nghiệp toàn
diện và nông nghiệp sản
xuất hàng hóa, ứng dụng
tiến bộ KHCN nhất là
công nghệ sinh học, đổi
mới cây trồng, vật nuôi,
đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ
giới hóa, điện khí hóa,
giải quyết tốt vấn đề tiêu
thụ nông sản hàng hóa,
phát triển kết cấu hạ tầng,
công nghiệp, dịch vụ,
chuyển dịch cơ cấu lao
động, tạo việc làm mới và
cải thiện đời sống nhân
dân.
+Công nghiệp: Phát

triển công nghiệp hàng
tiêu dùng, xuất khẩu và
phát triển một số ngành
mũi nhọn, ngành công
nghiệp nặng có nhu cầu
và khả năng phát triển.
Chú trọng phát triển DN

vừa và nhỏ,
xây dựng một
số tập đoàn
kinh tế lớn đi
đầu
trong
cạnh tranh và
hiện đại hóa.
+ Dịch
vụ: Phát triển
mạnh và nâng
cao
chất
lượng ngành
dịch
vụ:
thương mại,
hàng không,
hàng
hải,
kiểm
toán,

bảo
hiểm.
Xây
dựng
đồng bộ và
từng
bước
hiện đại hóa
hệ thống kết
cấu hạ tầng:
Giao thông,
điện
lực,
thông
tin,
thủy lợi, cấp
thoát nước.
+Xây
dựng kết cấu
hạ tầng:Xây
dựng đồng bộ
và từng bước
hiện đại hóa
hệ thống kết
cấu hạ tầng;
Phát
triển
năng lượng đi
trước
một

bước:
chú
trọng
thủy
năng,
khí,
than để cân
đối
nguồn
điện, nghiên
cứu sử dụng
năng
lượng
nguyên
tử;
phát
triển
mạng
lưới
thông tin hiện
đại và đầy
nhanh
ứng
dụng
công
nghệ thông tin
trong các lĩnh
vực; Nâng cấp
các
tuyến


6


đường bộ, đường sắt,
cảng biển, sân bay; Bảo
đảm nước sạch cho đô thị,
khu công nghiệp và cho
trên 90% dân cư nông
thôn.
*Xây dựng cơ cấu
vùng kinh tế:
-Vùng đồng bằng
giữ vị trí hàng đầu trong
việc sản xuất lương thực,
thực phẩm, cây công
nghiệp ngắn ngày, cây ăn
quả, chăn nuôi, phát triển
công nghiệp nông thôn và
mở mang dịch vụ.
-Vùng trung du,
miền núi và tây nguyên
phát triển mạnh kinh tế
hàng hóa, phát huy thế
mạnh lâm nghiệp, cây
công nghiệp dài ngày,
chăn nuôi đại gia súc,
khoáng sản. Hình thành
các vùng chuyên canh gắn
với công nghiệp chế biến.

Khai thác đi đôi với bảo
vệ, tái tạo nguồn tài
nguyên, bảo vệ môi
trường. Hình thành các
trung tâm công, thương
nghiệp và đô thị gắn với
các tổ hợp tác kinh tế lãnh
thổ.
-Vùng biển hướng
vào khai thác, nuôi trồng
và chế biến thủy sản, khai
thác và chế biến dầu khí
và các khoáng sản, phát
triển các ngành sản xuất,
dịch vụ về hàng hải. Khai
thác tiềm năng kinh tế
biển, phát triển kinh tế hải
đảo.
-Các thành phố, thị
xã, thị trấn là những trung
tâm kinh tế và văn hóa,
chủ yếu là trung tâm công
nghiệp và thương mại trên
từng vùng lớn và vùng
nhỏ. Việc phát triển đô thị
phải phù hợp với đặc
điểm của mỗi vùng nhằm
giải quyết việc làm, tăng
nhanh sản phẩm xã hội.
*Xây dựng cơ cấu

thành phần kinh tế:
Trong điều kiện của nước
ta hiện nay, để thực hiện

thành công sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước thì
phải có sự tồn tại, đan xen
nhau của 6 thành phần
kinh tế theo Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định như sau:
-TP KT Nhà nước.
-TP KT Tập thể.
-TP KT cá thể, tiểu chủ.
-TP KT tư bản tư nhân.
-TP KT Tư bản nhà nước.
-TP KT có vốn đầu tư
nước ngoài.
2- Điều kiện và giải
pháp đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay.
a- Điều kiện
-Phải có sự ổn định về
chính trị, kinh tế, xã hội
+ ổn định chính trị: Là
giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng, vai trò

quản lý của nhà nước và
ổn định về đường lối
chính sách, sự đoàn kết
toàn dân, nhất trí tin
tưởng vững chắc vào sự
lãnh đạo của Đảng.
+ ổn định kinh tế: Là
giữ được đồng tiền ổn
định, không lạm phát,
đảm bảo các cân đối vĩ
mô.
+ ổn định xã hội: Không
có chiến tranh, hạn chế
thất nghiệp, phân hoá
giàu nghèo quá đáng...
Phải có môi trường
quốc tế thuận lợi, hoà
bình, hợp tác trên các
nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi
b- Các giải pháp
Tạo nguồn vốn cho
quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Tạo nguồn vốn tích lũy là
vấn đề quan trọng hàng
đầu cho việc thực hiện
CNH –HĐH. Vì muốn
CNH-HĐH phải có nhiều
vốn để xây dựng các

ngành công nghiệp cần
thiết và mua sắm thiết bị
khoa học, công nghệ hiện

đại; không có vốn thì
không thể nói đến CNHHĐH.
Nước ta cần tạo
nguồn vốn từ 2 nguồn:
Một là, tích lũy từ nội bộ
nền kinh tế quốc dân
(trong nước); hai là, vay
vốn từ các nguồn ở nước
ngoài dưới các hình thức
viện trợ, đầu tư... Trong
đó, vốn từ nội bộ nền kinh
tế quốc dân là chủ yếu và
lâu dài, do kết quả phát
triển sản xuất, tăng năng
suất lao động mà có.
Để tạo dược hai
nguồn vốn đó là hết sức
khó khăn, song khó khăn
hơn nữa là vấn đề quản lý,
sử dụng tốt, có hiệu quả
cao nguồn vốn đó đề khai
thác tối đa khả năng nền
kinh tế của đất nước trong
quá trình tiến hành CNHHĐH.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ,
công nhân kỹ thuật phát

triển nguồn nhân lực.
Thực hiện CNH,
HĐH là phát triển mạnh
LLSX, xây dựng cở sở vật
chất, kỹ thuật của CNXH.
Sự nghiệp đó là nhiệm vụ
của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế, vì vậy
cần phải đào tạo một
nguồn nhân lựcđủ trình độ
đáp ứng nhu cầu đặt ra.
Nguồn nhân lực
đó là các cán bộ nghiên
cứu, kỹ sư thực hành,
công nhân lành nghề, nhất
là đội ngũ cán bộ quản lý
kinh doanh giỏi... Vậy,
chúng ta cần phải có kế
hoạch bồi dưỡng và sử
dụng tốt nhằm phát huy
mọi khả năng trình độ của
họ. Để đạp ứng nhu cầu
của thời đại, cần phải đổi
mới giáo dục và đào tạo
từ phổ thông trở lên Đại
học, đào tạo lại cán bộ,
tiêu chuẩn hóa cán bộ và
đưa đi đào tạo bồi dượng
ở các nước tiên tiến. Phải
tăng nhanh cán bộ đầu


ngành, công
nhân
lành
nghề, cán bộ
quản lý giỏi,
kinh
doanh
giỏi...
-Đẩy
mạnh
công
tác
nghiên
cứu
khoa học.
Để
tránh khỏi bị
tụt hậu xa so
với các nước,
chúng ta cần
phải
đầy
mạnh
sự
nghiệp CNH,
HĐH,
phát
triển kinh tế xã hội trên cơ
sở phải đẩy

mạnh nghiên
cứu phát triển
KHKT

công
nghệ
mới,
ứng
dụng những
thành
tựu
mới, tiên tiến
vào sản xuất
kinh doanh.
Cụ
thể là nghiên
cứu cơ bản
phải đi vào
lĩnh vực mũi
nhọn; nghiên
cứu ứng dụng
phải phù hợp
với tình hình
ở nước ta và
thế giới, phải
kết hợp hài
hòa các trình
độ và quy mô,
phấn đấu tiến
kịp trình độ

thế
giới.
Những
kết
quả về nghiên
cứu KHKT,
công
nghệ
phải là cơ sở
cho
những
quyết
định
trong công tác

7


quản lý và xây dựng đất
nước.
-Làm tốt công tác điều tra
thăm dò khai thác tài
nguyên.
Nước ta có nguồn tài
nguyên khoáng sản phong
phú, điều kiện địa lý, môi
trường sinh thái thuận lợi,
nhưng khai thác sử dụng
hcu7a nhiều, chưa hiệu
quả nhất là tài nguyên

mới phát hiện như dầu
khí, quặng, sắt... Để phục
vụ tốt cho sự nghiệp
CNH-HĐH cần phải điều
tra, thăm dò, khai thác sử
dụng tốt hơn, có hiệu quả
hơn, nguồn tài nguyên,
môi trường đó. Điều tra,
thăm dò, khai thác tài
nguyên khoáng sản, môi
trường không chỉ phục vụ
trực tiếp CNH mà còn
phát huy cao được lợi thế
so sánh để huy động vốn
đầu tư trong nước và nước
ngoài cho phát triển kinh
tế-xã hội.
Mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế.
Nước ta tiến hành CNHHĐH trong điều kiện phát
triển kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường, nên
việc mở rộng quan hệ
quốc tế, phát triển thị
trường trong nước và
ngoài nước là vấn đề
khách quan và hết sức cần
thiết, nhằm tranh thủ vốn
ngoại tệ, KH-CN hiện đại,
phát triển hợp tác lao

động sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Mở rộng quan
hệ kinh tế quôc tế, phát
triển thị trường trong
nước và nước ngoài phải
chú ý cả bề rộng và bề
sâu, phải đa dạng hóa
quan hệ với tất cả các
nước, các khu vực, các tổ
chức kinh tế, phải thực
hiện dưới nhiều hình thức
và bằng nhiều phương
pháp đa dạng, phong phú.
Tóm lại: Các giải
pháp trên đây của quá
trình CNH, HĐH có quan

hệ mật thiết với nhau. Vì
vậy, trong quá trình thực
hiện cần nhận thức đầy
đủ, sâu sắc vấn đề này, để
có chính sách đúng đắn,
kết hợp hài hòa các giải
pháp tạo sức mạnh thúc
đẩy nhanh quá trình
CNH-HĐH xây dựng đất
nước.

Câu 19: Phân
tích tính tất yếu và các

nguyên tắc cơ bản của
việc mở rộng quan hệ

kinh tế quốc
tế trong thời
kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
hiện nay.
Trả
lời:
Quan
hệ kinh tế
quốc tế là
tổng thể các
quan hệ vật
chất và tài
chính,
các
quan hệ kinh
tế và khoa học
– công nghệ
có liên quan
đến tất cả các
giai đoạn của
quá trình tài
sản xuất diễn
ra giữa các
quốc gia cũng
như giữa các

quốc gia với
các tổ chức
kinh tế quốc
tế.
1/ Tính
tất yếu:
Không thể
có một quốc
gia nào trên
thế giới tồn tại
độc lập, phát
triển có hiệu
quả mà không
có mối quan
hệ nào với các
quốc gia khác
trên thế giới,
đặc biệt trong
lĩnh vực kinh
tế. Do đó,
ngày nay có
hai phạm trù
thực tiễn tồn
tại khách quan
đó là: Quan
hệ hàng hóa
tiền tệ và sự
trao đổi này ra
khỏi phạm vi
của một quốc

gia và sự tồn
tại của các
quốc gia độc

8


lập có chủ quyền. Cho
nên, quan hệ kinh tế quốc
tế mạng tính tất yếu khách
quan.
- Tính khách quan và
phổ biến của nó bắt nguồn
từ nhu cầu:
+ Sự phân bố tài
nguyên thiên nhiên và sự
phát triển không đồng đều
về trình độ về khoa học
kỹ thuật giữa nước này
với nước khác. Dẫn đến
yêu cầu việc sử dụng sao
cho có hiệu quả nguồn lực
mỗi quốc gia.
+ Dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại, xu
hướng mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế càng trở
nên sôi động. Cách mạng
khoa học - công nghệ hiện

đại làm cho quá trình khu
vực hoá và quốc tế hoá
đời sống kinh tế trở thành
xu hướng tất yếu của thời
đại
+ Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ
hiện đại đẩy nhanh sự
phát triển của lực lượng
sản xuất:
• LLSX vượt khỏi
khuôn khổ quốc gia để trở
thành LLSX mang tính
quốc tế
• Đẩy nhanh quá trình
khu vực hoá, quốc tế hoá
đời sống kinh tế, hình
thành nền kinh tế như một
chỉnh thể có nhiều quốc
gia tham gia, vừa hợp tác
vừa đấu tranh với nhau từ
đó tạo thành thị trường
quốc tế với giá cả quốc tế
chi phối.
+ Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ
hiện đại dẫn tới sự phát
triển mạnh mẽ của các
phương tiện giao thông
vận tải, thông tin liên lạc,

có ý nghĩa rất to lớn:
• Rút ngắn khoảng
cách và thời gian đi lại,
thu nhận và xử lý thông
tin nhanh chóng và thuận
tiện.

Làm cho quá trình
giao lưu, liên kết, phân
công và hiệp tác quốc tế
phát triển nhanh chóng cả
về chiều rộng và chiều
sâu.
+ Quá trình quốc tế
hoá đời sống được thể
hiện:
• Sự phân công và hiệp
tác quốc tế giữa các nước,
các khu vực ngày càng
phát triển: Một sản phẩm
cuối cùng là kết quả của
hàng chục, hàng trăm của
nhiều nước khác nhau
cùng tham gia sản xuất.
Ví dụ: sản xuất máy
bay....
Sự phụ thuộc lẫn nhau
về mặt kinh tế giữa các
nước ngày càng tăng:
Sự phụ thuộc lẫn nhau

về mặt kinh tế giữa các
nước ngày càng làm cho
các nước phụ thuộc vào
nhau ngày càng chặt chẽ
về
nhiều
mặt.
Mỗi nước có lợi thế riêng
và khai thác tối đa lợi thế
tuyệt đối và lợi thế so
sánh của mình.
Vì vậy thị trường của
nền kinh tế vừa là đầu vào
vừa là đầu ra đối với hoạt
động kinh tế của mỗi
nước.
• Sự hình thành kết
cấu hạ tầng sản xuất quốc
tế và chi phối sản xuất
quốc tế:
Hệ thống giao thông
quốc tế
• Quốc tế hoá đời
sống kinh tế còn biểu hiện
ở sự hình thành chi phí
sản xuất quốc tế, giá cả
quốc tế
Tóm lại, khu vực hoá,
quốc tế hoá đời sống kinh
tế là một tất yếu khách

quan nó đòi hỏi các quốc
gia phải tăng cường quan
hệ kinh tế quốc tế nhằm
khai thác có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế trong và
ngoài nước. Đối với nước
ta mở rộng hoạt động kinh
tế quốc tế không nằm

ngoài tính quy luật và
mục đích nói trên.
Như vậy: trong thời
đại ngày nay, không một
quốc gia nào tồn tại và
phát triển một cách biệt
lập, hoàn chỉnh và tự cân
đối được nền kinh tế của
mình, bởi mỗi quốc gia là
một bộ phận của kinh tế
thế giới. Xu hướng đó là
tất yếu khách quan đối với
tất cả các nước.
Do tác động của
cách mạng khoa học –
công nghệ, sự phát triển
của lực lượng sản xuất và
sự chuyên môn hoá ngày
càng cao.
Do sự thúc đẩy của quá
trình ứng dụng KHKT vào

sản xuất, các nước tiên
tiến chuyển mạnh sang
nghiên cứu và phát triển,
chuyển dịch ngành chế
tạo đến những nước có
điều kiện. Như vậy, hình
thành một mô hình phân
công quốc tế mới: phân
công giữa một bên là
nghiên cứu phát triển, một
bên là chế tạo và sản xuất.
Mô hình mới đó đã tạo cơ
hội cho các nước chậm
phát triển có điều kiện đi
tắt, đón đầu trong công
nghệ sản xuất mới. Trong
lúc các nước tiên tiến
chuyển sang nghiên cứu
phát triển, các nước chậm
phát trie63ntranh thủ nắm
bắt công nghệ sản xuất
cao, tham gia cạnh tranh
và thực hiện nhảy vọt
trong phát triển kinh tế.
Cách mạng KHKT ngày
nay trở thành LLSX trực
tiếp. Mỗi phát minh khoa
học đều trực tiếp dẫn đến
sự hình thành các nguyên
lý công nghệ mới, làm

thay đổi phương thức lao
động của xã hội loài
người, làm thay đổi cơ
cấu kinh ết quốc dân và
làm thay đổi sự phân bố
lực lượng sản xuất trên
thế giới thì nội dung phân
công và cạnh tranh quốc

tế ngày càng
sân sắc hơn,
vượt qua khỏi
ranh giới của
mỗi quốc gia.
Do yêu cầu
phát huy lợi
thế so sánh
của mỗi quốc
gia. Sự khác
biệt về điều
kiện tự nhiên
giữa các quốc
gia như: đất
đai, khi hậu,
khoáng sản, vị
trí địa lý...
đưa đến tình
trạng
mỗi
quốc gia có

lợi thế trong
việc sản xuất
một số loại
sản phẩm nào
đó và họ phải
trao đổi với
nhau
nhằm
cân bằng sự
dư thừa loại
sản phẩm này
với sự thiếu
hụt sản phẩm
khác.
Khi
tham gia vào
quá trình trao
đổi quốc tế,
các nước sẽ
có điều kiện
chuyên môn
hóa sản xuất
và xuất khẩu
các loại hàng
hóa mà việc
sản
xuất
chúng ít bất
lợi nhất và
nhập khẩu các

loại hàng hóa
mà việc sản
xuất
chúng
bất lợi nhất.
- Do
yêu cầu phát
triển của nền
kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường phát
triển dẫn đến
sự phân công

9


lao động vượt ra khỏi phạm
vi quốc gia, thúc đẩy các
nước tham gia vào quá
trình phân công lao động
quốc tế. Sự chuyên môn
hóa cho phép mỗi quốc gia
chỉ tập trung vào một số
ngành và sản phẩm nhất
định mà họ có thễ đạt tới
quy mô sản xuất tối ưu.
Do sự đa dạng
hoá tiêu dùng ở mỗi quốc
gia. Khi thu nhập tăng thì
người tiêu dùng tìm đến

các mặt hàng phù hợp với
thị hiếu và khả năng thanh
toán của họ. Do vậy tất yếu
phải mở rộng quan hệ kinh
tế quốc tế.
- Do yêu cầu giải quyết
vấn đề môi trường sinh
thái. Mặt trái của sự phát
triển kinh tế là các vấn đề
về môi trường sinh thái,
những vấn đề này không
chỉ riêng quốc gia nào có
thể giải quyết riêng lẻ
được, nên đòi hỏi các
quốc gia phải liên kết lại
với nhau để cùng giải
quyết những vấn đề chung
của toàn cầu.
2/ Những nguyên tắc cơ
bản trong quan hệ kinh
tế quốc tế
Cần phân tích và làm
rõ các nguyên tắc sau
đây:
2.1-Bình đẳng.
- Đây là nguyên tắc có ý
nghĩa rất quan trọng là
nền tảng cho việc thiết lập
và lựa chọn đối tác trong
quan hệ kinh tế đối ngoại.

- Nguyên tắc này xuất
phát từ thực tế là mọi
quốc gia đều có chủ
quyền có quyền bình đẳng
trong quan hệ quốc tế; bắt
nguồn từ yêu cầu của sự
hình thành và p
Câu
20:
Phân tích các
hình
thức
quan hệ kinh
tế quốc tế chủ
yếu
trong
thời kỳ quá
độ lên chủ

10


nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay.
Trả lời:
ở nước ta hiện nay, có
các hình thức quan hệ
kinh tế quốc tế chủ yếu
sau:
1/ Thương mại quốc

tế:
Khái
niệm:
Thương mại quốc tế là sự
trao đổi hàng háo và dịch
vụ giữa các quốc gia,
thông qua mua – bán, lấy
tiền tệ làm môi giới, tuân
theo nguyên tắc trao đổi
ngang giá.
- Thương mại quốc tế có
những vai trò sau:
+Mở rộng khả năng
tiêu dùng và sản xuất của
mỗi nước. Nó cho phép
một nước tiêu dùng tất cả
các hàng hóa với số lượng
nhiều hơn mức có thể tiêu
dùng so với khả năng giới
hạn sản xuất trong nước,
với chế độ tự cung, tự
cấp, không tham gia vào
buôn bán quốc tế. Thương
mại quốc tế làm lợi cho
nền kinh tế quốc dân về
mặt giá trị sử dụng- nhập
khẩu những hàng hóa mà
quốc gia đó chưa sản xuất
được hoặc sản xuất với lợi
thế bất lợi – đáp ứng nhu

cầu tiêu dùng của mỗi
quốc gia.
+Tăng trưởng và phát
triển kinh tế đất nước:
Thực tế đã chứng minh
rằng: các nước đi nhanh
lên con đường tăng
trưởng và phát triển là các
nước có nền ngoại thương
mạnh, năng động.
.Sử dụng lợi thế so
sánh: biểu hiện sự kích
thích sử dụng tiềm năng
và lợi thế so sánh của
mình, tham gia tích cực
vào trao đổi quốc tế - lợi
ích so sánh tĩnh, tăng
năng lực xuất khẩu.
.Nhập khẩu kỹ thuật
và máy móc tiên tiến phát
triển và nâng cao năng lực
sản xuất, điều chỉnh cơ

cấu hàng hóa xuất khẩu và
sức cạnh tranh của nó.
Đến lượt nó lại thúc đẩy
mở rộng sản xuất – lợi ích
so sánh động. Đó chính là
một chu kỳ tuần hoàn của
sự mở rộng xuất khẩu và

tăng trưởng kinh tế quốc
dân: XK – tích lũy – nhập
khẩu – xuất khẩu.
*Nội dung của hoạt
động thương mại:
+ Xuất khẩu và nhập
khẩu hàng hóa hữu hình,
ví dụ: nguyên vật liệu,
máy móc thiết bị, lương
thực, thực phẩm, các loại
hàng háo tiêu dùng...
+ Xuất khẩu và nhập
khẩu hàng hóa vô hình, ví
dụ: các bản quyền sáng
chế phát minh, các bí
quyết công nghệ, các bản
thiết kế kỹ thuật, phầm
mềm vi tính, các dịch vụ
lắp ráp thiết bị máy móc,
các dịch vụ du lịch và
nhiều loại dịch vụ khác...
+ Gia công thuê cho
người nước ngoài và thuê
người nước ngoài gia
công. Với những quốc
gia, lương thực sản xuất
kém, thị trường nhỏ hẹp,
công nghệ lạc hậu mà lại
thiếu vốn, thì cần chú
trọng hoạt động gia công

thuê cho nước ngoài.
Ngược lại, những quốc
gia có trình độ sản xuất,
công nghệ phát triển thì
hoạt động thuê nước
ngoài gia công cho mình
mang lai tính hiệu quả
hơn.
+ Tái xuất khẩu và
chuyển khẩu.
Tái xuất khẩu là hình
thức nhập khẩu tạm thời
hàng hóa lớn từ bên ngoài
vào, sau đó tiến hành xuất
khẩu sang một nước thứ
ba ở dạng nguyên dạng
hoặc chỉ sơ chế, bảo quản,
đóng gói lại mà không
làm thay đổi về chất của
những hàng hóa đó.
Chuyển khẩu là hoạt
động kinh tế chỉ thực hiện

các dịch vụ vận tải quá
cảnh, lưu kho, lưu bãi,
bảo quản... Hình thức này
mức độ rủi ro thấp hơn
hoạt động tái xuất khẩu.
+ Xuất khẩu tại chỗ.
Hoạt động cung cấp hàng

hóa và dịch vụ cho ngoại
gia đoàn, khách du lịch
nước ngoài... Tuy các
hàng hóa và dịch vụ này
chưa vượt ra khỏi biên
giới quốc gia, nhưng nó
mang lại hiệu quả kinh tế
cao hơn do giảm bớt được
những chi phí bảo quản,
đóng gói, vận tải và thu
hồi vốn nhanh.
2/ Đầu tư quốc tế:
Khái niệm: Đầu
tư quốc tế là một quá trình
kinh doanh, trong đó vốn
đầu tư được di chuyển từ
quốc gia này snag quốc
gia khác với mục đích
sinh lời.
Vai trò: Đầu tư
quốc tế nhằm hỗ trợ cho
khả năng tích lũy yếu kém
trong nước, tranh thủ
nguồn vốn và kỹ thuật
nước ngoài để phát triển
LLSX, nâng cao trình độ
khoa học – công nghệ,
hiện đại hóa nền kinh tế,
tạo ra những sản phẩm
mới có khả năng cạnh

tranh trên thị trường thế
giới và đáp ứng những
nhu cầu ngày càng lớn
của quá trình phát triển
kinh tế.
- Các hình thức đầu
tư quốc tế:
+ Đầu tư gián tiếp:

Khái niệm: Đầu tư
gián tiếp là loại hình di
chuyển vốn giữa các quốc
gia, trong đó người chủ sở
hữu vốn không trực tiếp
quản lý và điều hành các
hoạt động sử dụng vốn,
họ chỉ hưởng lãi suất theo
tỷ lệ số vốn đầu tư.
Đặc điểm của đầu
tư gián tiếp:
=Chủ vốn đầu tư không
trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động đầu tư, họ chỉ

quan tâm đến
lợi
nhuận
thông qua lợi
tức cho vay
hoặc lợi tức

cổ phần do họ
đã bỏ vốn
mua cổ phần
v2 trái phiếu.
=Ít rủi ro
trong việc đầu
tư vốn đối với
các chủ thể
đầu tư.
=Đầu tư gián
tiếp
bằng
nhiều
con
đường;

hình thức trở
thành nợ nần,
có hình thức
thì ko, nhưng
những sự thay
đổi đột ngột
trong
hành
động của các
nhà đầu tư
nước ngoài sẽ
gây biến động
đến thị trường
vốn, đến tỷ

giá và các mặt
khác của nền
kinh tế vĩ mô.
=Quy
mô,
điều kiện đầu
tư phụ thuộc
vào tư cách
pháp nhân của
chủ đầu tư.
• Các hình
thức đầu tư
gián tiếp: viện
trợ, cho vay,
đầu tư qua thị
trường chứng
khoán.
=Đường công
cộng:
bao
gồm hình thức
viện
trợ
không hoàn
lại và cho vay
dài hạn với lãi
suất từ các tổ
chức quốc tế,
các chính phủ,
các tổ chức

phi
chính

11


phủ... nguồn viện trợ phát
triển chính thức (ODA)
=Đường tư nhân: vốn cho
vay của các định chế kinh
tế và các NH nước ngoài.
=Đầu tư qua thị trường
chứng khoán – với hình
thức mua chứng khoán,
mua cổ phiếu, tín phiếu...
theo tỷ lệ nhất định.
=Viện trợ ko hoàn lại ko
trở thành nợ nước ngoài,
nhưng quy mô nhỏ,
thường chỉ giới hạn trong
lĩnh vực văn hóa, giáo dục
và cứu trợ
*Đầu tư trực tiếp:
- Khái niệm: Đầu tư trực
tiếp nước ngoài (là loại
hình di chuyển vốn quốc
tế bằng tiền hoặc bất kỳ
tài sản nào để tiến hành
các hoạt động đầu tư.
Trong đó, người sở hữu

vốn đồng thời là người
trực tiếp quản lý và điều
hành việc sử dụng vốn.
* Bản chất:
= FDI là hình thức đầu tư
không trở thành nợ
=FDI ko chỉ đầu tư bằng
tiền mà cón đầu tư công
nghệ, tri thức kinh doanh,
nghệ thuật quản lý,..
=Mục đích đối với chủ
đầu tư nước ngoài là lợi
nhuận cao hơn, còn nước
nhận đầu tư là tăng tích
lũy, bù đắp sự thiếu hụt
ngoại tệ.
Đặc điểm:
=FDI là hình thức chủ yếu
trong đầu tư nước ngoài.
=Cơ cấu và phương thức
FDI đa dạng và ngày càng
phong phú do hệ thống
phân công lao động quốc
tế sâu rộng và sự thay đổi
môi trường thương mại
toàn cầu.
=Mức độ góp vốn theo
luật đầu tư của nước sở
tại.
=FDI quan hệ chặt chẽ

với ODA, thương mại và
chuyển giao công nghệ.
=Mỗi quốc gia, vừa là
nước nhận đầu tư đồng
thời vừa là nước đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài, ko
chỉ giữa các quốc gia phát
triển với nhau mà ngày
nay xu hướng dòng chảy
FDI vào các nước đang
phát triển và khu vực kinh
tế năng động ngày càng
tăng lên.
Vai trò của FDI
với phát triển kinh tế:
=Đối với nước đầu tư:
FDI đưa lại lợi nhuận cao
hơn nhờ lợi suất đối với
yếu tố tư bản tăng và lợi
suất đối với yếu tố lao
động, nguyên liệu giảm.
FDI kích thích việc xuất
khẩu trực tiếp thiết bị,
máy móc, mở rộng thị
trường, bành tướng sức
mạnh kinh tế, nâng cao uy
thế chính trị.
=Đối với nước nhận đầu
tư:

.Dòng chảy vào
các nước phát triển, FDI
có tác dụng giải quyết khó
khăn về thất nghiệp, lạm
phát và giúp cải thiện tình
hình thanh toán, tạo việc
làm thông qua việc mua
lại những công ty có
nguy cơ bị phá sản.
.Với dòng chảy
vào các nước đang phát
triển, FDI thúc đẩy phát
triển kinh tế thông qua
việc tạo ra những DN
mới, khắc phục được hiện
tượng thiếu vốn triền
miên, tiếp cận được trình
độ khoa học kỹ thuật tiên
tiến, trình độ quản lý kinh
tế,
tổ
chức
sản
xua61thie65n đại, thu hút
thêm lao động, cải thiện
đời sống người lao động.
• Các hình thức:
=Doanh
nghiệp
liên

doanh, Là loại DN chung
vốn kinh doanh, doanh
nghiệp hợp danh kiểu cổ
phần. Nó do các công ty,
doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế khác hoặc cá nhân
nước ngoài cùng đầu tư,
cùng kinh doanh, cùng
chịu lỗ lãi, rủi ro theo tỷ
lệ đầu tư với các công ty,

doanh nghiệp hoặc các tổ
chức kinh ết khác của
nước sở tại.
=Doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, là những DN
mà toàn bộ vốn do chủ
đầu tư nước ngoài đầu tư,
xây dựng theo luật đầu tư
của nước sở tại. Với hình
thức này, chủ đầu tư được
tự chủ trong các hoạt
động sản xuất, kinh
doanh, không bị phụ
thuộc vào ý kiến của đối
tác nước chủ nhà.
=DN hợp tác kinh doanh:
là DN hợp doanh trên cơ
sở hợp đồng, chủ đầu tư
nước ngoài cung cấp vốn,

địa điểm, nhà xưởng hiện
có, cơ sở trang thiết bị,
lao động và các dịch vụ
khác...
=Các hợp đồng đầu tư:
xây dựng – vận hànhchuyển giao (BOT); hoặc
xây dựng – chuyển giaovận hành (BOT), hoặc xây
dựng – chuyển giao .
3/ Hợp tác khoa học –
công nghệ:
Khái niệm: Hợp
tác KHCN là hình thức
phối hợp giữa các nước để
cùng nhau tiến hành
nghiên cứu, sáng chế,
thiết kế, thí nghiệm và
trao đổi các kết quả
nghiên cứu và áp dụng
vào sản xuất, kinh doanh.
-Vai trò:
Mỗi bước tiến
quan trọng của lLSX đều
gắn liền với những bước
nhảy vọt của cách mạng
khoa học kỹ thuật. Nhờ áp
dụng thành tựu KHKT từ
thế giới tự nhiên, loài
người đã chuyển dần
thành thế giới nhân tạo và
di chuyển sang thế giới

công nghệ. Ứng với mỗi
giai đoạn phát triển kế
tiếp nhau, chúng được đặt
trưng bởi một hoạt động
kinh tế, một cường độ
khoa học, công nghệ cao
hơn.

KHC
N trong thời
đại ngày nay
có vai trò đặc
biệt lớn đến
tốc độ tăng
trưởng kinh
tế.
Nhờ
sự gắn kết
chặt chẽ giữa
KH với công
nghệ, những
thành
tựu
KHCN
đã
được nhanh
chóng
ứng
dụng vào sản
xuất và cho ra

đời nhiều sản
phẩm mới với
chất
lượng
cao.
KHC
N được ứng
dụng rộng rãi
vào toàn bộ
nền kinh tế
quốc dân, tạo
nên cao trào
sản xuất mới,
tạo ra sự phát
triển vượt bậc
của sức sản
xuất xã hội.
Nên việc đầu
tư cho sự phát
triển KHCN
mang một ý
nghĩa chiến
lược lớn.
Xu
hướng khách
quan của goạt
động hợp tác
KHCN:
=Sự biến đổi
sâu sắc kết

cấu ngành, sự
di
chuyển
ngành nghề
sản xuất kéo
theo
sự
chuyển dịch
kỹ thuật, công
nghệ.
=Khi
một
ngành
kỹ
thuật
mới

12


được ứng dụng rộng rãi
trong nền kinh tế, những
ngành nghề mới, những
sản phẩm mới do kỹ thuật
mới đưa lại sẽ từng bước
phát triển đến tốc độ chín
muồi, thị trường dần bảo
hòa, tỷ suất lợi nhuận cao
do kỹ thuật tạo ra giảm
dần.

=Chính sự di chuyển vốn
và thương mại quốc tế đã
dẫn đến sự di chuyển thực
các yếu tố kinh tế. Thực
chất là sự chuyển dịch kỹ
thuật, là sự hợp tác khoa
học kỹ thuật.
-Tốc độ tăng
trưởng ko đều giữa các
nước.
- Các hình thức:
+Tiếp thu sự chuyển
dịch kỹ thuật, thu hút và
tiếp nhận những thành
quả khoa học, công nghệ
là cơ sở thúc đẩy sự phát
triển kinh tế.
Lợi thế của quá trình
này:
.Rút ngắn thời gian
đuổi kịp trình độ tiên tiến
trên thế giới.
.Tiết kiệm được sức
người, sức của, giảm bớt
được những rủi ro có thể
xảy ra trong việc paht1
triển và ứng dụng kỹ
thuật.
.Nâng cao năng suất
lao động và tăng sức cạnh

tranh của sản phẩm trên
thị trường quốc tế.
Chủ động tiếp thu
việc chuyển giao kỹ thuật,
công nghệ bằng các hình
thức chủ yếu:
.Mua, bán bằng sáng
chế hoặc thiết kế.
.Nhập khẩu thiết bị,
máy móc tiên tiến, sau đó
nghiên cứu và sản xuất
theo mẫu đó.
.Chuyển giao công
nghệ thông qua hoạt động
liên doanh đầu tư nước
ngoài, nhằm thu hút kỹ
thuật tiên tiến.
.Mời chuyên gia kỹ
thuật nước ngoài, hợp tác

đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công nhân kỹ thuật, cử
các nhân viên kỹ thuật và
chuyên gia khoa học ra
nước ngoài học tập.
.Phối hợp nghiên cứu
KHKT.
.Sưu tầm, nghiên cứu
sách báo, tài liệu khoa học
kỹ thuật cũng như việc

tăng cường đầu tư vào
giáo dục.
Chủ động tiếp thu
phải đồng thời chủ động
tạo nên năng lực phát
triển kỹ thuật nội sinh.
-Sáng tạo và đổi mới
kỹ thuật, công nghệ đã có.
Lịch sử của tăng
trưởng kinh tế thế giới đã
chứng minh rằng, chỉ có
tiếp thu chuyển giao khoa
học công nghệ sẽ ko có
kinh tế phồn vinh lâu dài,
mà phải có sự sáng tạo và
đổi mới kỹ thuật. Dựa trên
cơ sở sáng tạo để phát
minh sáng chế. Hoa kỳ,
Nhật Bản là những quốc
gia hàng đầu trong tiến
trình song song hai hình
thức vừa sáng tạo kỹ
thuật, vừa nhập khẩu kỹ
thuật – với nội dung là: bỏ
ra khoản vốn lớn gấp
nhiều lần chi phí nhập
khẩu để ứng dụng, cải tiến
và sáng tạo đối với những
kỹ thuật đã nhập, đồng
thời kết hợp những kỹ

thuật nhập từ nhiều nguồn
mà hình thành thế mạnh
kỹ thuật của mình; cần có
cơ chế sáng tạo nhằm
chuyển hóa kỹ thuật thành
sản xuất. Chỉ có như vậy,
hợp tác chuyển giao, sáng
chế khoa học kỹ thuật mới
có ý nghĩa thực tiễn.
Ngày nay, do sự thúc
đẩy của quá trình ứng
dụng thành quả khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, các
nước phát triển đã chuyển
mạnh sang lĩnh vực
nghiên cứu và phát triển,
chuyển dịch các ngành
chế tạo sang các nước có
điều kiện. Sự phân công

lao động quốc tế kết hợp
với cơ chế thị trường sẽ
mang lại cho sự hợp tác
khoa học kỹ thuật một nội
dung mới, hình thức mới
và ý nghĩa mới.
4/ Các hình thức
quan hệ kinh tế quốc tế
khác:
Ngoài các hình thức

cơ bản trên, trong quan hệ
kinh tế giữa các nước còn
có các hình thức thu ngoại
tệ khác.
- Du lịch.
Du lịch quốc tế là một
ngành
công
nghiệp
“không khói” đem lại
nguồn thu ngoại tệ lớn
cho nhiều quốc gia. Nó bổ
sung cho khoản thâm hụt
ngân sách.
Đề cập tới du lịch
phải tiếp cận tới hai
phương diện:
+Những yếu tố để
khách muốn đến và cần
đế.
+Điều kiện vật chất,
tinh thần phuu5c vụ để
thu ngoại tệ.
Nước ta có nhiều tiềm
năng, lợi thế có thể thu
hút du khách tới tham
quan, nghĩ ngơi, là một
quốc gia chưa trãi qua
khai thác của đại công
nghiệp, nên môi trường

còn gần gũi với tự nhiên,
khí hậu nhiệt đới tạo ra
nhiều sản phẩm du khách
ưa thích. Đồng thời, có
nhiều điều kiện khác lạ
mà người nước ngoài
muốn tìm hiểu... tạo ra
tính hấp dẫn của ngành du
lịch.
- Vận tải quốc tế.
Vận tải quốc tế là sự di
chuyển hàng hóa từ nơi
sản xuất tới nơi tiêu dùng
một cách kịp thời, đúng
số lượng, chất lượng,
chủng loại trên phạm vi
quốc tế.
Tốc
độ
tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc
vào khả năng vận tải, vào
năng lực luân chuyển

hàng hóa. Vận
tải ngày càng
chiếm vị trí
quan
trọng
trong đời sống

kinh tế quốc
tế. Lưu thông
hàng hóa ngày
càng
tăng
giữa
các
nước, dẫn tới
nhu cầu vận
tải cũng tăng
lên
nhanh
chóng.
Việt
Nam mở cửa
với bên ngoài,
nên vận tải ko
chỉ phục vụ
cho nhu cầu
trong
nước
mà còn đáp
ứng nhu cầu
vận tải quốc
tế để thu
ngoại tệ.
Có nhiều hình
thức tham gia
vận tải quốc
tế: vận tải

biển, vận tải
hàng không,
vận tải đường
sắt, vận tải
đường
bộ
quốc tế.
- Hợp
tác
lao
động và
chuyên
gia,…
Phân công lao
động quốc tế
phát triển đã
dẫn đến sự di
chuyển
lao
động từ nước
này sang nước
khác.
Thực
chất hợp tác
lao động và
chuyên gia là
hình thức xuất
– nhập khẩu
lao động có
kỳ hạn giữa

các nước với

13


nhau. Nhu cầu làm việc
trên thế giới có khả năng
chậm hơn tốc độ tăng lao
động, dẫn đến sức ép về
việc làm rất căng thẳng,
quan hệ cung cầu lao
động trên thế giới thường
xuyên mất cân đối.
Nước ta phải coi trọng
việc tìm thị trường đề
xuất khẩu lao động và lao
động trong nước thiếu
việc làm.Song lại nhập
khẩu lao động kỹ thuật
cao, chuyên gia giỏi, sẽ
giải quyết được những
khó khăn, nhu cầu nền
kinh tế trong nước đòi
hỏi. Thông qua đó, học
tập nắm bắt kỹ thuật hiện
đại bổ sung cho sự phát
triển lâu dài. XK lao động
ra nước ngoài đem lại
nhiều nguồn lợi cho mỗi
quốc gia và bản thân

người lao động:
+Giảm bớt sự căng thẳng
về việc làm, về tệ nạn xã
hội do thiếu việc làm gây
ra.
+Tăng nguồn thu ngoại tệ
cho NS quốc gia.
+Người lao động sẽ tích
lũy được tri thức, kinh
nghiệm cần thiết ở nước
ngoài giúp nâng cao trình
độ lao động trong nước.
+Thông qua đó mở rộng
giao lưu quốc tế, tạo cơ sở
cho người nước ngoài
hiểu được nền kinh tế, văn
hóa quốc gia.
hát triển thị trường
quốc tế mà mỗi quốc gia là
thành viên …
Với tư cách là một
thành viên, mỗi quốc gia
phải được bình đẳng và có
quyền kinh doanh như mọi
quốc gia khác. Nghĩa là
phải được đảm bảo tư cách
pháp nhân của mỗi quốc
gia trước luật pháp quốc tế
và cộng đồng quốc tế trên
cơ sở nền kinh tế thị

trường.
2.2-Cùng có lợi.

Nguyên tắc này giữ
vai trò là nền tảng kinh tế
để thiết lập và mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế
Cơ sở khách quan của
nguyên tắc này là cùng có
lợi bắt nguồn từ yêu cầu
phải thực hiện các quy luật
của kinh tế thị trường trên
phạm vi quốc tế
Nguyên tắc cùng có
lợi còn là động lực kinh tế
để thiết lập và duy trì lâu
dài mối quan hệ kinh tế
giữa các quốc gia. Cùng có
lợi là một trong nguyên tắc
làm cơ sở cho chính sách
kinh tế đối ngoại
2.3-Tôn trọng chủ
quyền và không can
thiệp vào công việc nội
bộ của mỗi quốc gia.
Trong đời sống cộng
đồng quốc tế, mỗi quốc
gia với tư cách là quốc gia
độc lập có chủ quyền về
các mặt kinh tế, chính trị,

xã hội và địa lý.
Nguyên tắc này bắt
nguồn từ nguyên tắc bình
đẳng và cùng có lợi, vì xét
đến cùng chỉ trên cơ sở
bình đẳng và cùng có lợi
về kinh tế mới là cơ sở để
cùng có lợi về chính trị xã hội
- Nguyên tắc này đòi
hỏi các bên phải tôn trọng
chủ quyền và không can
thiệp vào công việc nội bộ
của nhau.
- Tôn trọng các điều
kiện đã kí kết, không đưa
ra những điều kiện
phương hại đến lợi ích
của nhau, khong dùng cac
biện pháp có tính chất can
thiệp vào nội bộ của nhau.
2.4-Thúc đẩy sự tăng
trưởng và phát triển
kinh tế – xã hội.
Đây là nguyên tắc xuyên
suốt mọi nguyên tắc.
trong việc mở rộng quan
hệ kinh tế quốc tế ko phải
chỉ có lợi ích kinh tế, mà
còn phải xử lý tốt mọi
quan hệ giữa kinh tế và

chính trị. Mở rộng quan

hệ kinh tế đối ngoại là để
tăng trưởng kinh tế nhanh
và ổn định, nhưng sự tăng
trưởng ấy chỉ được coi là
phương tiện để thực hiện
từng bước mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH.
Do vậy mở rộng quan hệ
kinh ết quốc tế một mặt
phải tranh thủ được vốn
bên ngoài, nhưng mặt
khác phải phát huy được
nguồn lực bên trong đảm
bảo phát triển kinh tế, ko
bị lệ thuộc vào nước
ngoài, xây dựng thành
công CNXH, ko để đất
nước đi vào con đường tư
bản chủ nghĩa.
Tóm lại: Bốn nguyên tắc
trên ko tách biệt độc lập
mà có quan hệ mật thiết
với nhau. Chúng đều có
vai trò và ý nghĩa rất quan
trọng. Xa rời một nguyên
tắc nào đều làm giảm hiệu
quả của quan hệ kinh tế
quốc tế. Mặt khác, cần lưu

ý rằng, trong thực tế hiện
nay quan hệ kinh tế
thường gắn với quan hệ
chính trị, cho nên trong
chính sách đối ngoại
chúng ta vừa phải kiên trì
tính nguyên tắc, giữ vững
mục tiêu, đồng thời phải
linh hoạt, khôn khéo trong
sách lược.

14


15



×