Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.37 KB, 6 trang )

Năm
2018

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

BÀI TẬP KỸ NĂNG

Đề tài:
Phân tích quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay.

0


Bài làm:
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là mối quan hệ cơ bản và có tác động mạnh mẽ đối với công cuộc giải phóng dân
tộc cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh, nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc và mối quan hệ giữa chúng là điều
hết sức cần thiết.
1.

Khái quát về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và dân tộc:

Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, song đó là hai phạm trù
chỉ các mối quan hệ xã hội khác nhau. Do đó, giai cấp và xã hội không thể thay thế cho
nhau. Trong dân tộc thì có giai cấp và quan hệ giai cấp thì có vai trò quyết định tới sự
hình thành bản chất xã hội, xu hướng phát triển của dân tộc, tính chất quan hệ của các
dân tộc với nhau. Giai cấp nào lãnh đạo dân tộc thì dân tộc đó mang bản chất của giai
cấp đó.
Nhân tố giai cấp ảnh hưởng một cách cơ bản đến nhân tố dân tộc, nhưng nhân tố


dân tộc cũng ảnh hưởng sâu sắc đến nhân tố giai cấp. Đấu tranh dân tộc do đó cũng tác
động đến đấu tranh giai cấp.
2.

Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và dân tộc:

- Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau:
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn
đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình Cách mạng Việt Nam; chủ trương đại đoàn kết
dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới
sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực
phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; gắn
kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
- Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội:
Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XX), con đường cứu
1


nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Năm 1920,
ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp,
dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, Người nói: "Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải

phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực
hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do
và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói "Nước được độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Do đó, sau khi giành
độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, mọi
người được sung sướng, tự do. Người khẳng định: "Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn
liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi
ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm".
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời
đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục
tùng lợi ích của dân tộc.
Tháng 5-1941. Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: "Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của
dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được"
- Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân
tộc khác:

2


Là một chiến sĩ quốc tế chân chính,Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp
bức.

Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự
quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến
chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: "giúp
bạn là tự giúp mình" và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà
đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
3.

Ý nghĩa đối với Việt Nam ngày nay:

Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay,
việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp
thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng
CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh
vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến
đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những
động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả
cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước
thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn
mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn
mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý
nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan
điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay
chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra.

Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng
3


tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định
hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập
trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí
Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn
của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn
nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai
cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ
với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do,
sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền
vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi
vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ:
đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về
CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp.
Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta
đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là
nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH
ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân
dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự
lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong
mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Phương hướng vận dụng và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
đổi mới là nắm vững quan điểm thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của
Người để giải quyết đúng đắn vấn đề do thực tiễn đặt ra.Nội dung chủ yếu để vận dụng

tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam hiện nay cơ bản như sau:
- Kiên định đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đó là tiếp tục con
đường xây dựng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản được vạch ra trong cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH mà đại hội Đảng lần VII đã vạch
ra.
4


- Dựa vào sức mạnh của toàn dân :
+Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người.
+Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.
+Tôn trọng quyền làm chủ của toàn dân.
+Dựa trên sức mạnh của dân,xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên giá trị
truyền thống văn hóa dân tộc.
- Xây dựng và chỉnh đốn hệ thống chính trị trong sạch và vững mạnh.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển
mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm
bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường
tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy
hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh
xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Điều đó càng cho thấy sự cần
thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định,
tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta
vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

5




×