Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

vai trò của luật dân sự với Quản lý xã hội tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.71 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, Luật dân sự giữ vai trò rất quan trọng. Xét trên
phương diện chung nhất, luật dân sự là công cụ để thiết chế hóa đường lối
chính sách của Đảng,bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hành có
hiệu quả trên quy mô toàn từng lớp, là dụng cụ để nhà nước quản lý mọi mặt
đời sống tầng lớp, là công cụ để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ,
thực hành quyền và bổn phận của mình.
Luật dân sự với tư cách là nguyên tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó
luôn tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội nói chung, cũng
như tới các nguyên tố của thượng tầng chính trị - pháp lý nói riêng. Sự tác
động và ảnh hưởng của pháp luật biểu thị ở nhiều mức độ khác nhau tùy
thuộc vào từng loại đối tượng và từng loại quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh
của luật.
Tuy nhiên, những điểm nói trên mới chỉ phản ánh vai trò pháp luật ở
bình diện chung. Để thấy rõ vai trò của pháp luật cần phải coi xét nó ở góc độ
cụ thể gắn với việc thực hành các chức năng và nhu cầu điều chỉnh bằng luật
pháp các quan hệ.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của Luật dân sự tôi
chọn vấn đề “Vai trò Luật dân sự trong quản lý xã hội” làm tiểu luận
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
2.1 Mục đích
Phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng vai trò của Luật dân sự đối
với quản lý xã hội.
2.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên khóa luận có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề chung về Luật dân sự
- Phân tích thực tiễn vai trò của Luật dân sự trong quản lý xã hội
3. Kết cấu của tiểu luận
Chương I: Một số vấn đề chung về Luật dân sự
Chương II: Vai trò của Luật dân sự đối với quản lý xã hội



1


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ
1.1. Khái niệm chung về Luật dân sự
Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao
gồm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân
thân.
1.1.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự
Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự (BLDS) được xác định tại Điều
1 BLDS 2005: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý
cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác; quyền nghĩa
vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (được gọi chung là quan
hệ dân sự)”.
Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự bao gồm hai nhóm quan hệ là
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự.
Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự là những nhóm quan hệ tài sản
và quan hệ nhân thân phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông,
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa... nhằm thoả mãn các nhu cầu về vật chất, tinh
thần của các chủ thể.
1.1.1.1.Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản do LDS sự điều chỉnh là những quan hệ phát sinh giữa
các chủ thể trên cơ sở một tài sản nhất định
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản
nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác. ( Điều 172 BLDS).
Quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự là quan hệ giữa người và người

thông qua một tài sản nhất định như: Tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng hoặc
các quyền về tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn liền với một tài sản
2


hoặc một quyền tài sản nhất định.
Luật dân sự quy định tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền
tài sản
Điều 163 BLDS không định nghĩa thế nào là tài sản mà chỉ quy định
mang tính liệt kê: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản”.
a,Vật
Vật là loại tài sản nhiều nhất, phổ biến và thông dụng nhất trong đời
sống con người.
Ví dụ: Oxy là một bộ phận của thế giới vật chất, đáp ứng được nhu cầu
của con người nhưng nếu oxy còn ở dạng không khí chung thì chưa được coi
là vật. Chỉ khi oxy được nén vào bình, túc là khi đó con người có thể nắm giữ,
quản lý thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và mới có thể trở thành môt tài
sản được pháp luật điều chỉnh
b,Tiền
Giá trị của hàng hoá được xác định bằng lượng lao động kết tinh để sản
xuất ra hàng hoá đó. Tiền là thước đo giá trị chung, là giá trị đại diện cho giá
trị thực của hàng hoá và là phương tiện lưu thông trong giao lưu dân sự. Với
vai trò quan trọng như vậy, tiền được coi là một tài sản quý. Ngoài ra, tiền còn
có một khía cạnh chính trị pháp lý đặc biệt, thể hiện tư cách đại diện cho chủ
quyền quốc gia. Nhà nước có quyền ấn định giá trị của tiền, phát hành tiền,
quản lý việc lưu thông tiền... Người có tiền (chủ sở hữu) khi sử dụng tiền phải
tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của Nhà nước.
c,Giấy tờ có giá
Ngoài tiền có giá trị thanh toán, các loại giấy tờ trị giá được bằng tiền

được sử dụng tương đối rộng rãi, góp phần làm cho giao lưu dân sự trở nên đa
dạng, sôi động và phong phú hơn. Những giấy tờ này quy định những khoản
tiền cụ thể mà chủ thể được hưởng khi xuất trình trước một tổ chức có trách
nhiệm (ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng ...).
3


d,Các quyền tài sản
Quyền tài sản phải thoả mãn hai điều kiện là trị giá được bằng tiền và
có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự. Đây là những quyền gắn liền với tài
sản mà khi thực hiện các quyền đó chủ sở hữu sẽ có một tài sản.
1.1.2. Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự
Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự là những biện pháp, cách thức
phù hợp mà thông qua đó pháp luật tác động đến xử sự của các chủ thể trong
các quan hệ xã hội. Nhờ có sự tác động này, các quan hệ tài sản và quan hệ
thân đã phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt theo ý chí của Nhà nước được thể
hiện trong các quy phạm pháp Luật dân sự cụ thể.
Phương pháp điều chỉnh của LDS sự là tự nguyện thỏa thuận trên cơ
sở bình đẳng, độc lập.
Phương pháp bình đẳng : Các chủ thể tham gia trong quan hệ tài sản,
nhân thân phi tài sản được bình đẳng và độc lập về tổ chức và tài sản
Phương pháp thoả thuận. Từ sự bình đẳng của chủ thể, quyền tự định
đoạt của họ trong việc tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự nên việc
giải quyết tranh chấp giữa các bên được tiến hành “hoà giải “ hoặc tự “thoả
thuận “
LDS sử dụng phương pháp thỏa thuận vì các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật dân sự đều bình đẳng, độc lập với nhau
1.2. Chủ thể của Luật dân sự
Chủ thể của Luật dân sự rất đa dạng, có thể là cá nhân, có thể là tổ
chức... Để tham gia quan hệ pháp Luật dân sự thì các chủ thể phải có tư cách

chủ thể - được xác định bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Theo qui
định của Bộ luật dân sự, chủ thể của Luật dân sự bao gồm: Cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
1.2.1. Cá nhân
Năng lực chủ thể của cá nhân được xác định bởi hai yếu tố là năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
4


a, Năng lực pháp luật của cá nhân.
Năng lực pháp Luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có
quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự” (Khoản 1 Điều 14 BLDS). Năng lực
pháp Luật dân sự của cá nhân là tiền đề pháp lí cần thiết để cá nhân tham gia
các quan hệ pháp Luật dân sự. Năng lực pháp luật của cá nhân có những nội
dung sau đây: Các quyền nhân thân gắn với tài sản, các quyền nhân thân
không gắn với tài sản, quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền tài sản khác,
năng lực pháp Luật dân sự của cá nhân có từ lúc người đó sinh ra và gắn liền
với một cá nhân suốt đời cho đến khi chết. Trong một số trường hợp cần thiết
Luật dân sự còn công nhận và bảo vệ quyền lợi cho cá nhân khi người đó còn
là thai nhi.
b, Năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực
hành vi dân sự chính là khả năng của cá nhân để tiến hành các hành vi nhằm
thực hiện năng lực pháp luật. Do đó, năng lực hành vi dân sự của cá nhân có
quan hệ chặt chẽ với năng lực pháp luật, dựa trên năng lực pháp luật và có sau
năng lực pháp luật.
Bộ luật Dân sự phân chia năng lực hành vi dân sự thành các mức độ
sau đây:
+ Người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự:

Là những người từ 18 tuổi tròn trở lên nếu không bị Toà án tuyên bố là
người hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự.
+ Người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ:
Những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng
lực hành vi chưa đầy đủ. Những người này khi xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ những giao
dịch nhỏ phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

5


+ Người không có năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi
dân sự:
Trẻ em dưới 6 tuổi thì không có năng lực hành vi dân sự. Những người
bị bệnh tâm thần, mất trí... bất kể họ ở lứa tuổi nào bị Tòa án tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều phải
do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện.
Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là mất tích theo yêu cầu của
người có quyền và lợi ích liên quan khi người đó biệt tích đã hai năm liền mà
không có tin tức xác thực là còn sống hay đã chết. Tài sản của người bị tuyên
bố mất tích được giao cho người được người mất tích uỷ quyền quản lý; đối
với tài sản chung do chủ sở hữu chung còn lại quản lý. Nếu vợ (chồng) người
mất tích đã chết, hoặc mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì con đã thành niên hoặc cha, mẹ quản lý nếu không còn ai nêu trên
thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản. Nếu người vợ hoặc chồng của
người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn, Tòa án giải quyết cho ly hôn. Khi giải
quyết cho vợ (chồng) của người bị tuyên bố mất tích ly hôn, tài sản của người
bị tuyên bố mất tích được giao cho con đã thành niên quản lý hoặc cha mẹ của
người bị tuyên bố mất tích quản lý nếu không có những người này thì Tòa án
chỉ định người khác quản lý tài sản.

Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết theo yêu cầu của
người có quyền và lợi ích liên quan khi người đó biệt tích đã năm năm liền trở
lên mà không có tin tức xác thực là còn sống; hoặc khi quyết định tuyên bố
mất tích của Tòa án có hiệu lực ba năm mà vẫn không có tin tức xác thực là
còn sống; người bị mất tích trong chiến tranh sau 5 năm kể từ ngày chiến
tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; người bị mất tích
do tai nạn, thảm họa, thiên tai sau một năm kể từ ngày tai nạn, thảm họa, thiên
tai kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Tuỳ từng trường hợp Toà án xác định ngày chết của
người bị tuyên bố chết căn cứ vào các điều kiện để Toà án tuyên bố chết nêu
6


trên. Người vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố chết có quyền đi kết hôn với
người khác. Tài sản của người bị tuyên bố chết được chia theo qui định của
pháp luật về thừa kế.
1.2.2. Pháp nhân
a,Khái niệm pháp nhân
Khái niệm pháp nhân được hiểu là: Một tổ chức thống nhất, độc lập,
được thành lập một cách hợp pháp. Tổ chức đó có tài sản riêng, chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình và nhân danh mình tham gia vào các quan hệ
pháp luật một cách độc lập.
b, Các điều kiện của pháp nhân
Các điều kiện của pháp nhân được quy định tại Điều 84 BLDS. Một tổ
chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: Được
thành lập một cách hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh
mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
1.2.3. Hộ gia đình
Theo quy định tại Điều 116 BLDS thì: “Hộ gia đình mà các thành viên

có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các
lĩnh vực này”.
Như vậy, có thể coi hộ gia đình là chủ thể hạn chế của quan hệ pháp
Luật dân sự.
Trong hộ gia đình, tài sản chung của hộ là tài sản chung hợp nhất và là
một thể thống nhất được tạo dựng bởi công sức của các thành viên, được tặng
cho, thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản
chung. Pháp
Vd: Luật dân sự quy định: Quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng,
rừng trồng của hộ gia đình là tài sản chung của hộ.
7


Tư cách chủ thể của hộ gia đình phát sinh đồng thời với việc hình thành
hộ gia đình (điều này có tính chất tương tự như pháp nhân). Theo quy định
của Điều 106 BLDS, hộ gia đình chỉ được tham gia các quan hệ dân sự liên
quan đến quyền sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, vay vốn
ở Ngân hàng để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ.
Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự do chủ hộ, hoặc người đại diện theo uỷ quyền của chủ hộ đã
xác lập, thực hiện nhân danh hộ gia đình (Điều 110 BLDS).
Khi phải chịu trách nhiệm tài sản, thì tài sản đó là tài sản chung của hộ.
Nếu tài sản chung của hộ không đủ để chịu trách nhiệm dân sự, thì các thành
viên trong gia đình phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình.
Trong trách nhiệm dân sự, hộ gia đình phải chịu trách nhiệm như cá nhân.
Nghĩa là trách nhiệm của hộ gia đình là trách nhiệm vô hạn.
1.2.4. Tổ hợp tác
Theo quy định tại Điều 111 BLDS thì: “Tổ hợp tác được hình thành

trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực
hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là
chủ thể trong các quan hệ dân sự”.
Hợp đồng hợp tác có các nội dung chủ yếu sau đây: Mục đích, thời hạn
hợp đồng hợp tác; Họ, tên, nơi cư trú của tổ trưởng và các tổ viên; Mức đóng
góp tài sản, nếu có; phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức giữa các tổ viên;
Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ trưởng, của các tổ viên; Điều kiện
nhận tổ viên mới và ra khỏi tổ hợp tác; Điều kiện chấm dứt tổ hợp tác.
Theo qui định của pháp luật, có thể hiểu tổ hợp tác là chủ thể của quan
hệ pháp Luật dân sự khi có các điều kiện sau đây: Thành viên của tổ hợp tác
tối thiểu phải là 3, các cá nhân này phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; tài
sản của tổ hợp tác do các thành viên đóng góp. Tài sản này được dùng để chịu
trách nhiệm dân sự cho quan hệ dân sự mà tổ hợp tác tham gia; hợp đồng hợp
8


tác phải được chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp cơ sở.
Hoạt động của tổ hợp tác được thực hiện thông qua đại diện của tổ. Bộ
luật dân sự quy định đại diện của tổ hợp tác trong giao dịch dân sự là tổ trưởng do các tổ viên cử ra. Tổ trưởng có thể uỷ quyền cho tổ viên thực hiện
một số công việc nhất định cần thiết cho tổ. Việc uỷ quyền của tổ trưởng cũng
phải tuân theo các quy định của Luật dân sự về uỷ quyền. Các giao dịch dân
sự do người đại diện xác lập (bao gồm cả đại diện theo pháp luật và đại diện
theo uỷ quyền) thực hiện vì mục đích hoạt động của tổ, được đa số tổ viên
nhất trí sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của cả tổ hợp tác.
Tổ hợp tác phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện (tổ trưởng hay đại diện uỷ quyền) xác lập, thực
hiện nhân danh tổ hợp tác. Khi phải chịu trách nhiệm tài sản, thì tài sản chung
của cả tổ là cơ sở để xác định trách nhiệm. Trong trường hợp tài sản chung
của tổ không đủ để thực hiện nghĩa vụ, thì tổ viên phải chịu trách nhiệm liên

đới theo phần tương ứng với phần đã đóng góp bằng tài sản riêng của mình.
Trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác cũng là trách nhiệm vô hạn (Điều 117
BLDS).
1.2.5 Nhà nước CHXHCNVN
Là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự (bởi nhà nước có bộ
máy quyền lực công cộng đặc biệt:công an, …, chủ sở hữu của tài sản đặc
biệt:tài sản không người thừa kế, tài sản bị trưng thu, trưng mua, tài sản là cổ
vật, vật có giá trị văn hóa lịch sử bị chôn giấu, chìm đắm hoặc bị đánh rơi,bỏ
quên không tìm được chủ sở hữu.)

9


Chương 2
VAI TRÒ CỦA LUẬT DÂN SỰ TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI
2.1. Tích cực
2.1.1. Đối với hệ thống pháp luật
Thành tựu lớn nhất, đồng thời thể hiện rõ vai trò của BLDS là Bộ luật
này đã đánh dấu bước phát triển mới, khẳng định một diện mạo mới không
chỉ của pháp luật dân sự mà của cả hệ thống pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở
kế thừa BLDS năm 1995, BLDS đã khắc phục được những mâu thuẫn, chồng
chéo của hệ thống pháp luật về tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng; bước đầu tạo cơ
sở cho sự thống nhất, đồng bộ và trở thành nền tảng pháp lý của hệ thống
pháp luật dân sự (luật tư). BLDS đã bao quát được tương đối đầy đủ phạm vi
các quan hệ thuộc lĩnh vực tư khi xác định phạm vi điều chỉnh tại Điều 1:
“BLDS quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân
và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động”. Đây là các quan hệ có bản chất chung là được xác
lập, thực hiện dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự

chịu trách nhiệm của các chủ thể.
2.1.2. Đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
BLDS đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua việc ghi nhận chế độ sở hữu,
các hình thức sở hữu, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; hoàn thiện thêm
một bước các quy định về quyền của các chủ thể đối với tài sản của người
khác, trong đó có quyền sử dụng đất. Những quy định trong BLDS về các vấn
đề liên quan đến tài sản và quyền sở hữu là hết sức cần thiết vì sở hữu luôn là
yếu tố quan trọng hàng đầu của bất cứ nền kinh tế nào, trong đó có nền kinh
tế nước ta. Ngoài ra, chỉ khi nào cá nhân, tổ chức được công nhận và bảo hộ

10


các quyền tài sản, trong đó có quyền sở hữu thì họ mới yên tâm làm giàu cho
mình và cho xã hội;
BLDS đã đề cao nguyên tắc tự do hợp đồng, nguyên tắc người dân
được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, bảo đảm quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể, bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý cho các chủ thể
trong các quan hệ dân sự. Nhờ có các quy định có tính chất nền tảng này mà
các quan hệ thị trường mới có thể phát sinh, tồn tại và phát triển một cách
thuận lợi và bền vững;
Trên cơ sở tôn trọng quyền tự do sở hữu, tự do hợp đồng, BLDS đã có
những quy định nhằm hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền
vào quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của các quan hệ dân sự mà thực
chất là các quan hệ hàng hóa tiền tệ (quan hệ kinh doanh, quan hệ thị trường);
bảo đảm cho các quan hệ này được hình thành một cách dễ dàng và phát triển
một cách ổn định;
Bằng những quy định có tính tương thích với pháp luật, thông lệ quốc
tế, BLDS đã góp phần thúc đẩy các giao lưu dân sự, thương mại trong bối

cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện của Nhà nước ta;
BLDS đã tạo cơ sở pháp lý để Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác công nhận, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật dân sự; giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát
sinh giữa họ với nhau, qua đó góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình
kinh tế – xã hội của đất nước.
2.1.3. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
BLDS nói riêng, pháp luật dân sự nói chung giữ vị trí quan trọng trong
nâng cao sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền và nhân dân. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác đã tiến hành
nhiều hoạt động thực hiện công tác này, như: chủ trì xây dựng, trình Chính
phủ ban hành chương trình, đề án, kế hoạch dài hạn, trung hạn về phổ biến,
11


giáo dục pháp luật nói chung, trong đó có BLDS; phối hợp với các cơ quan, tổ
chức có liên quan để tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật dân
sự nói chung, BLDS nói riêng; tổ chức xây dựng Đề cương giới thiệu, phổ
biến BLDS gửi Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tổ
chức pháp chế của các Bộ, ngành, tổ chức và đăng trên cổng thông tin điện tử
Bộ Tư pháp; ban hành các văn bản hướng dẫn Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; tổ chức pháp chế của các Bộ, ngành, tổ chức về công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong đó có nội dung tập trung phổ biến là
BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành; biên soạn, phát hành tài liệu cho
công tác phổ biến, giáo dục như tờ rơi, tờ gấp, sổ tay pháp luật, đĩa hình, đĩa
tiếng về quy định của BLDS và những văn bản hướng dẫn mới ban hành cho
cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân; mở các lớp tập huấn, đào tạo cho các
tuyên truyền viên, báo cáo viên ở trung ương và địa phương về công tác tuyên
truyền, phổ biến các nội dung liên quan đến pháp luật dân sự nói chung,

BLDS nói riêng; phối hợp với các cơ quan thông tin, truyền thông ở Trung
ương như: Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Pháp luật
Việt Nam… xây dựng các chuyên trang, chuyên mục về phổ biến pháp luật
dân sự..
2.2. Hạn chế
2.2.1. Đánh giá về mối quan hệ chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp
giữa quy định của Bộ luật dân sự với các quy định pháp luật khác
2.2.1.1. Về Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản
Khoản 1 - Điều 168 BLDS quy định: “Việc chuyển quyền sở hữu đối
với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”. Tuy nhiên, tại khoản 5 - Điều 93 của
Luật nhà ở năm 2005 quy định: “Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên
mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm
hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá
nhân…”.
12


Như vậy, một khối tài sản thống nhất là nhà và đất nhưng thời điểm
chuyển quyền giữa đất và nhà trên đất lại khác nhau. Quy định như vậy gây
khó khăn cho Tòa án khi xét xử.
2.2.1.2 Về xử lý vi phạm hợp đồng
Khi hợp đồng đã được giao kết hợp pháp thì các bên phải thực hiện, tuy
nhiên trên thực tế việc xử lý vi phạm hợp đồng giữa BLDS 2005 và Luật
thương mại 2005 chưa thống nhất. Khoản 2 - Điều 422 BLDS 2005 quy định:
“Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”, trong khi đó Điều 301 Luật thương
mại quy định: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức
phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng
không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy
định tại Điều 266 của Luật này”. Cùng điều chỉnh về một vấn đề nhưng rõ ràng

có sự khác biệt giữa các văn bản. Mặt khác, mối quan hệ về chế tài phạt vi
phạm và bồi thường thiệt hại cũng không có sự thống nhất. Theo quy định của
khoản 1 - Điều 307 Luật thương mại: “Trường hợp các bên không có thỏa
thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”, trong khi khoản 3 - ĐIều 422
BLDS 2005 lại quy định: “Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về
bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt”. Như vậy,
nếu không có sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm không có
quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Thiếu sự thống nhất giữa Bộ
luật dân sự và Luật thương mại sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng luật để giải
quyết tranh chấp trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
2.2.1.3 Vấn đề lãi suất
Khoản 1 - Điều 476 BLDS 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên
thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
Quy định này thể hiện sự áp đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro
pháp lý cho các hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay của các tổ
13


chức tín dụng nói riêng. Theo quy định của Luật ngân hàng Nhà nước thì
“Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các
loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.”
Việc BLDS quy định mức trần lãi suất không vượt quá 150% cũng với mục
đích chống cho vay nặng lãi. Tuy nhiên, việc đặt ra tỷ lệ 150% là không phù
hợp vì lãi suất cơ bản thường được quan niệm là lãi suất định hướng và ở mức
rất thấp so với lãi suất thị trường. Do vậy mức 150% không đủ để đảm bảo
mức lãi suất hợp lý thông thường trên thực tế mà các tổ chức, cá nhân tham
gia quan hệ cho vay cần áp dụng. Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân
cho vay đều phải áp dụng mức lãi suất vượt quá mức lãi suất tối đa được quy

định tại BLDS và do vậy, các hợp đồng cho vay luôn ở trong tình trạng có thể
bị tuyên bố vô hiệu bất kỳ lúc nào.
Theo Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 của Ngân hàng
Nhà nước quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, Điều 1 quy định: “Tổ chức tín dụng
cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng phù
hợp với quy định của pháp luật về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng và trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách
hàng vay”. Quy định này cho phép các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất thị
trường, đồng thời tạo ra hai mặt bằng pháp lý đối với hoạt động cho vay: tổ
chức tín dụng cho vay theo lãi suât thị trường còn các tổ chức, cá nhân khác
cho vay theo lãi suất quy định tại BLDS. Điều này tạo ra sự không thống
nhất trong hệ thống pháp luật, đồng thời vẫn không loại trừ được rủi ro của
các tổ chức tín dụng với lý do Thông tư 07 nêu trên có hiệu lực thấp hơn
BLDS và vì vậy, hợp đồng tín dụng của họ có thể bị tuyên vô hiệu bất kỳ lúc
nào.
2.2.1.4. Vấn đề về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu
Một số quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu trong BLDS
2005 (Điều 427). Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự ; Điều 607. Thời
14


hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại; Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về
thừa kế; Điều 777. Thời hiệu khởi kiện đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài) trùng lắp với quy định về thời hiệu trong Bộ luật tố tụng dân sự sửa
đổi bổ sung năm 2011 (Điều 159. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu).
2.2.2.Xác định những vấn đề phát sinh trong thực tiễn giao lưu dân
sự chưa được pháp luật quy định và cần được pháp luật điều chỉnh
2.2.2.1. Về Huỷ bỏ hợp đồng dân sự
Khoản 1 - Điều 425 BLDS 2005 quy định: “Một bên có quyền huỷ bỏ

hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là
điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”. Tiếp
đó, Khoản 1 - Điều 426 quy định: “Một bên có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Như vậy, khi một bên vi phạm hợp đồng, bên kia có quyền yêu cầu đình chỉ
hay hủy bỏ hợp đồng khi vi phạm hợp đồng là điều kiện đình chỉ hay hủy bỏ
“mà các bên đã thỏa thuận” hoặc “pháp luật có quy định”.
Nghiên cứu các quy định về các hợp đồng cụ thể trong BLDS - đặc biệt
là hợp đồng mua bán - thì không có điều, khoản nào quy định về hủy bỏ, đình
chỉ hợp đồng (ngoại trừ Điều 494 “Quyền của bên cho thuê nhà ở”). Theo
Khoản 1 - Điều 425 thì nếu các bên không có các thỏa thuận trước về điều
kiện hủy bỏ thì hợp đồng không thể bị hủy bỏ. Quy định như vậy là bất hợp
lý, không bảo vệ được quyền lợi của bên nghiêm túc thực hiện hợp đồng và
dung túng cho sự vi phạm của một bên khi pháp luật không có cơ chế bảo vệ
hữu hiệu. Trên thực tế các tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán tài sản,
nhất là mua bán nhà và một bên yêu cầu hủy hợp đồng do bên kia vi phạm
nghĩa vụ dân sự (thường là nghĩa vụ trả tiền) không phải là hiếm. Và tòa án
vẫn chấp nhận hủy hợp đồng nếu một bên không có thỏa thuận trước về điều
này khi giao kết hợp đồng.
2.2.2.2 Về hợp đồng ủy quyền

15


BLDS năm 2005 (chương XVIII, mục 12 Hợp đồng ủy quyền, từ Điều
581 đến Điều 589) không có điều luật nào quy định về hình thức của hợp
đồng uỷ quyền. So sánh với BLDS năm 1995, có Điều 586 quy định về hình
thức của hợp đồng ủy quyền như sau: “Hợp đồng ủy quyền phải được lập
thành văn bản; nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định, thì hợp đồng
ủy quyền phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực

của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền”. Qua thực tế xét xử các vụ án dân
sự khi có ủy quyền, Tòa án vẫn phải đòi hỏi các hợp đồng ủy quyền phải có
công chứng hoặc xác nhận của chính quyền địa phương để đảm bảo giá trị
pháp lý của hợp đồng ủy quyền mặc dù BLDS 2005 không quy định.
2.2.2.3. Về Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
+ Điều 645 BLDS 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa
kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền
thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Tuy nhiên,
BLDS 2005 lại không có điều luật nào quy định đối với phần di sản đã hết
thời hiệu khởi kiện thì giải quyết như thế nào, thuộc quyền sở hữu, sử dụng
của ai ? Thực tế, có nhiều trường hợp khi đương sự khởi kiện thừa kế, Tòa án
phải trả lại đơn với lý do đã hết thời hiệu khởi kiện. Khi người dân đi đăng ký
quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thì cơ quan chức năng yêu cầu phải có
sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế hoặc bản án có hiệu lực pháp luật của
Tòa án giao quyền sở hữu, sử dụng cho họ. Như vậy, vô tình các quy định
pháp luật làm cho người dân rơi vào tình cảnh không thể có quyền sở hữu, sử
dụng di sản thừa kế mà lẽ ra họ có thể được hưởng quyền này.
+ Mặt khác, quy định thời hiệu mười năm trong điều luật này là quá
ngắn. Hầu hết người Việt Nam không có thói quen chia di sản ngay sau khi
người thân chết, nhất là khi một bên cha hoặc mẹ vẫn còn sống. Chính vì thực
tế này mà dường như có xu hướng hạn chế việc xem xét hết thời hiệu (hay
hậu quả của việc hết thời hiệu), nhằm cho phép các thừa kế vẫn còn khả năng
chia di sản của người thân để lại. Ví dụ: Ngày 10/8/2004, Tòa án nhân dân tối
16


cao đã ban hành Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP về Hướng dẫn áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó:
“Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các
đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác

nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng
thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do
người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các
thừa kế”. Tuy nhiên, việc thực hiện hướng dẫn này trên thực tế cũng không
đơn giản. Vì, trong những vụ án cụ thể luôn có những quan điểm khác nhau
về việc có đủ điều kiện để áp dụng Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP để di sản
thừa kế trở thành tài sản chung hay không. Và, Tòa án thay vì giải quyết tranh
chấp về thừa kế thì giải quyết tranh chấp chia tài sản chung.
2.2.2.4. Vấn đề về chuyển đổi giới tính và người chuyển giới
Những năm gần đây quan niệm, nhìn nhận và thái độ của xã hội với
những người chuyển đổi giới tính và có nhu cầu chuyển giới ngày càng cởi
mở hơn. Số lượng người có mong muốn được thực hiện phẫu thuật xác định
lại giới tính (không chỉ vì khiếm khuyết bẩm sinh) cũng ngày một tăng cao.
Tuy nhiên bản thân những người này khi thực hiện thành công phẫu thuật
chuyển giới vẫn chưa được tạo điều kiện trong việc xác định lại giới tính
trong các giấy tờ quan trọng cũng như các mối quan hệ pháp luật dân sự như:
kết hôn, thừa kế... Vì vậy, thực tế trên đặt ra yêu cầu cần mở rộng quy định
với nhóm chủ thể đặc biệt này để đảm bảo hiệu quả quản lý và theo kịp xu
hướng phát triển thế giới.

17


KẾT LUẬN
Luật dân sự là đạo luật lớn, phạm vi điều chỉnh rộng, tác động đến mọi
mặt của đời sống xã hội, đời sống nhân dân, là luật chung, luật nền cho các
luật khác trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ hình thành trên cơ
sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm.
Dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi) là một trong những dự án luật có vai trò
rất quan trọng nhằm thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp

năm 2013 trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Dự thảo Bộ luật quy định nhiều vấn đề mới, có tính đột phá trong công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
lĩnh vực dân sự, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Triển khai nghiên cứu tiểu luận do hạn chế về thời gian, về kinh
nghiệm thực hiện của bản thân ; mặc dù tôi đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để
hoàn thành tiểu luận nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
muốn nhận được ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để
hoàn thiện và phát triển hơn nữa nghiên cứu của mình.

18


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ......................2
1.1. Khái niệm chung về Luật dân sự................................................................2
1.1.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự....................................................2
1.1.2. Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự...............................................4
1.2. Chủ thể của Luật dân sự.............................................................................4
1.2.1. Cá nhân...................................................................................................4
1.2.2. Pháp nhân...............................................................................................7
1.2.3. Hộ gia đình..............................................................................................7
1.2.4. Tổ hợp tác................................................................................................8
1.2.5 Nhà nước CHXHCNVN............................................................................9
Chương 2. VAI TRÒ CỦA LUẬT DÂN SỰ TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI....10

2.1. Tích cực....................................................................................................10
2.1.1. Đối với hệ thống pháp luật....................................................................10
2.1.2. Đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.....................................................10
2.1.3. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.................................................11
2.2. Hạn chế.....................................................................................................12
2.2.1. Đánh giá về mối quan hệ chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp giữa quy
định của Bộ luật dân sự với các quy định pháp luật khác..............................12
2.2.2.Xác định những vấn đề phát sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự chưa
được pháp luật quy định và cần được pháp luật điều chỉnh...........................15
KẾT LUẬN....................................................................................................18

19



×