Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.5 KB, 25 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.

XHCN : xã hội chủ nghĩa
ĐKQT : đoàn kết quốc tế


MỤC LỤC

Trang
Mở đầu
Phần 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế
1.2 Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế
Phần 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
trong quan hệ đối ngoại của đảng ta hiện nay
2.1 Tình hình thế giới và trong nước giai đoạn hiện nay
2.2 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng do
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện trải qua hơn 88 năm,


đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Một trong những nhân tố
tạo nên sự thắng lợi đó là đường lối quốc tế đúng đắn, mà
cốt lõi là chiến lược ĐKQT của Hồ Chí Minh. Quá trình
hình thành và phát triển chiến lược đoàn kết của Hồ Chí
Minh gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người, gắn liền với các thời kỳ phát triển của Đảng và
Cách mạng Việt Nam, gắn liền với tiến trình cách mạng
thế giới. ĐKQT cùng với đoàn kết dân tộc thực sự trở
thành chiến lược cách mạng và hoạt động thực tiễn của Hồ
Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế biến đổi nhanh
chóng và xu thế toàn cầu hóa đang gia tăng, nhất là lĩnh
vực kinh tế, không một quốc gia nào có thể phát triển mà
lại không mở rộng quan hệ, đoàsn kết, hợp tác với các
nước khác. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để phát
triển và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, một
trong những vấn đề quan trọng là phải mở rộng đoàn kết
hợp tác theo tinh thần " Việt Nam sẵn sàng làm bạn là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế". Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc trế có ý nghĩa quan
trọng trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước ta.
Việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh, cũng như phương pháp, phong cách và nghệ
thuật Hồ Chí Minh về ĐKQT là một công việc quan trọng,
có ý nghĩa thiết thực đối với việc thực hiện đường lối
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.


Với những lý do trên tôi lựa chọn đề tài: " Vận dụng

tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ
đối ngoại của Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận thi
kết thúc học phần môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Hiểu sâu, nắm vững những nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKQT và sự vận dụng
tư tưởng đó trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện
nay.
Nhiệm vụ: khái quát lại những nội dung chủ yếu
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKQT, làm nổi bật những
quan điểm chiến lược về ĐKQT của chủ tịch Hồ Chí
Minh, cũng như quá trình vận dụng tư tưởng đó trong quan
hệ đối ngoại của Đảng và nhà nước ta từ khi đổi mới đến
nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dựa trên thế giới quan phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và các
quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh
cùng với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
đại đoàn kết. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: nghiên
cứu tài liệu, phương pháp tổng kết thực tiễn, so sánh, …
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Danh mục từ viết tắt
tiểu luận được cấu trúc thành 2 phần:
Phần 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Phần 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế trong quan hệ đối ngoại của đảng ta hiện nay


PHẦN 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN

KẾT QUỐC TẾ
1.1 Những nhân tố hình thành tư tưởng đoàn kết
quốc tế của Hồ Chí Minh
1.1.1 Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng
đồng người Việt có từ ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên
nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch sử ngàn năm đã hun
đúc nên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Yêu
nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn
kết thống nhất, nhân ái khoan dung.
Trước hết, là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu
nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt qúa trình lịch sử của dân tộc
Việt Nam. Những nội dung chủ yếu của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam đã từng bước được đúc kết, hình thành một
hệ thống các nguyên lý với tư tưởng của các anh hùng hào
kiệt như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,
Quang Trung… chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc
giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước. Đó cũng là động lực chi phối mọi suy nghĩ,
hành động của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Lúc đầu, chính chủ
nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa
tôi theo Lênin, tin theo quốc tế thứ III. Truyền thống yêu
nước của dân tộc được Nguyễn Tất Thành tiếp thu từ
những ngày ở quê hương và trên con đường bôn ba khắp
năm châu bốn bể. Người đã đến với những người lao động
trên thế giới, đến với tình hữu ái vô sản và đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, đó là con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc.
Thứ hai, đó là tinh thần đoàn kết, tương ái của dân

tộc. Truyền thống này hình thành cùng một lúc với sự hình


thành dân tộc, từ hoàn cảnh và yêu cầu đấu tranh chống
thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Người Việt Nam quen
gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn
có nhau. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam
đã có sự phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn bền
vững. Vì vậy Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa và phát huy
sức mạnh truyền thống đoàn kết của dân tộc để hình thành
tư tưởng ĐKQT, phấn đấu vì một thế giới hòa bình, ổn
định và phát triển.
Thứ ba, ngoại giao truyền thống Việt Nam cuãng là
một nhân tố quan trọng hình thành tư tưởng ĐKQT của Hồ
Chí Minh. Ngoại giao truyền thống Việt Nam xem trọng
việc giữ hòa khí, đoàn kết hữu nghị với các nước, phấn
đấu cho sự thái hòa, yêu chuộng hòa bình là bản chất của
ngoại giao Việt Nam. Trong khi lập trường nguyên tắc giữ
vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự
xâm lược của các ngoại bang, Đại Việt luôn kiên trì đường
lối hòa bình trong quan hệ ngoại giao với các nước láng
giềng. Hòa hiếu là tư tưởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt
đúng như nhà sử học Phan Huy Chú đã đúc kết lịch sử
ngoại bang của đất nước chúng ta: “Trong việc trị nước,
hòa hiếu với láng giếng là việc lớn”.
1.1.2 Chủ nghĩa Mac – Lê Nin và Quốc tế Cộng sản
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước, cuối năm 1917
Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp, tham gia phong trào
công nhân Pháp và gia nhập Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn
Ái Quốc muốn nhanh chóng tìm ra con đường cứu nước

đúng đắn và tìm lực lượng đoàn kết tin cậy. Điều quan
trọng hơn hết của Nguyễn Ái Quốc là “sự đoàn kết”, “đoàn
kết với các dân tộc thuộc địa”. Hầu hết trong các buổi mít
tinh, thảo luận, Nguyễn Ái Quốc đều phát hiện và khéo lái
những vấn đề đang thảo luận sang vấn đề đoàn kết với các


vấn đề thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã từng nói: Trong các
cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đoàn kết với các
dân tộc thuộc địa, nhưng đó lại là vấn đề mà tôi quan tâm
hơn hết.
Sau khi được biết Quốc tế thứ III do Lênin sáng lập
có chủ trương đoàn kết các dân tộc thuộc địa và nhất là
được đọc “Bản sơ thảo lấn thứ nhất luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa” của Lênin, lần dầu tiên Nguyễn Ái
Quốc biết có một tổ chức quốc tế ủng hộ sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc bị áp bức. Luận cương của Lênin
đã giải quyết trọn vẹn một vấn đề rất cơ bản mà Nguyễn
Ái Quốc đặc biệt quan tâm là vấn đề dân tộc và thuộc địa
đặt ra trong mối quan hệ quốc tế, chỉ ra con đường giải
phóng các dân tộc thuộc địa. Luận cương tạo ra một bước
chuyển biến căn bản trong nhận thức tư tưởng về vấn đề
đồng minh về xác định kẻ thù. Luận cương là lời giải đáp
hợp lý nhất, đúng đắn nhất mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy
được về con đường cứu nước, con đường giải phóng dân
tộc, đó là “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, gắn
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua
(tháng 12/1920) Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành

Đảng ra nhập Quốc tế III, trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng việc làm đó, Nguyễn
Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ ĐKQT. Từ đoàn kết các dân
tộc thuộc địa, mở thành đoàn kết với giai cấp vô sản chính
quốc và giai cấp vô sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc viết
những bài tham luận, phát biểu trong các kỳ sinh hoạt đảng
và các cuộc họp của các tổ chức xã hội khác, tham gia lãnh
đạo Ban Nghiên cứu về thuộc địa, ra báo Người cùng
khổ…. Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chủ nghĩa


thực dân, đế quốc, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ
Pháp và thế giới, hình thành mặt trận ĐKQT đối với sự
nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Những việc làm
đó đã “Đánh dấu một bước chuyển biến quyết định trong
nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái
Quốc, từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu sâu sắc và sáng
tạo những hẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác - Lênin,
“Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại”, “Vô sản toàn thế giới
và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Nguyễn Ái Quốc
đã gọi Lênin là hiện thân của tình anh em bốn bể”. Nguyễn
Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Lao động tất cả các nước đoàn
kết lại” và người khẳng định, chính Lênin và Quốc tế
Cộng sản đã chỉ ra cho dân tộc và giai cấp vô sản thế gới
sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn kết các lực lượng
cách mạng trong phạm vi từng nước và thế giới vào cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hồ
Chí Minh tiếp thu và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin trên
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, trên cơ sở đó Người
xây dựng và phát triển tư tưởng ĐKQT của mình.

Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng
sản là nhân tố quan trọng có ý nghĩa định hình rõ rệt tư
tưởng ĐKQT của Hồ Chí Minh. Trải qua gần 10 năm tìm
đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu
nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc
tế Cộng sản, từ một nhà yêu nước trở thành một chiến sĩ
quốc tế chân chính.
1.2 Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế
1.2.1 Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
Một là, Thực hiện ĐKQT nhằm kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng.


ĐKQT chính là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách
mạng thế giới tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù. Trong đó sức mạnh dân tộc là tổng hợp
các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là chủ
nghĩa yêu nước truyền thống, ý thức tự lực, tự cường của
dân tộc. Sức mạnh quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất
rộng: Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc; Phong trào
cách mạng của công nhân và nhân dân lao động các nước
chính quốc và TBCN nói chung; Phong trào XHCN;
Phong trào vì Hòa bình, ĐLDT, Dân chủ và tiến bộ xã hội;
Phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương...
Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức còn
là sức mạnh của tiến bộ khoa học công nghệ, làm thay đổi

có tính cách mạng về các lĩnh vực như: năng lượng, vật
liệu, công nghệ sinh học, giao thông vận tải…, loài người
đã tiến một bước dài trong việc chinh phục thiên nhiên.
“50 năm qua thế giới đã có những chuyển biến lớn... đặc
biệt là sức mạnh nguyên tử, nhiều hơn thế kỷ trước cộng
lại”.
Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc phải
gắn liền với ĐKQT. Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho
thực hiện ĐKQT. ĐKQT là nhân tố thường xuyên và hết
sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng
lợi.
Hai là, Thực hiện ĐKQT nhằm góp phần cùng nhân
dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính
trị là thời địa đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các
quốc gia, mở rộng ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu
rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc


không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí
Minh đã hoạt động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của
cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới. “Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn
quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình.
Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân
dân các nước khác để giữ gìn hòa bình thế giới, chống
chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế
quốc...giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của
nước ta…Đó là lập trường quốc tế cách mạng”

Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường ĐKQT trong
cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các Đảng Cộng sản phải
kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa
cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh…
những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết
thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập
kỷ qua là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở
thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhờ giương cao
ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của
các trào lưu cách mạng thời đại, làm sức mạnh dân tộc
được nhân lên gấp bội, chiến thắng những kẻ thù có sức
mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện
ĐKQT, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và


thời đại. Bởi lẽ, theo Người: Độc lập cho dân tộc mình
đồng thời là độc lập cho dân tộc bạn giúp bạn là tự giúp
mình.
1.2.2 Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
Một là, Các lực lượng cần đoàn kết
Theo Hồ Chí Minh các lực lượng cần đoàn kết đó là:
Thứ nhất, Phong trào cộng sản, phong trào công

nhân thế giới, đây là lực lượng nòng cốt của ĐKQT.
Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã
tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, đồng thời Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ
mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng của
nước nhà đi đến thắng lợi vẻ vang. Đó là phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; là Liên Xô và sau này là các
nước XHCN; là Quốc tế III và sau này là Cục thông tin
quốc tế. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của
dân tộc ta không tách rời sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô
và các nước XHCN, của các Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế.
Thứ hai, Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa.
Ra đi tìm đường cứu nước từ một nước nô lệ nên trái
tim Người cùng nhịp đập với nổi thống khổ của các dân tộc
khác cùng hoàn cảnh với dân tộc mình. Từ sớm, Hồ Chí
Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc để dễ bề cai
trị của các nước đế quốc, tạo sự thù ghét, đối kháng dân
tộc, chủng tộc,… nhằm làm suy yếu sức mạnh của các
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Người
đề nghị Quốc tế cộng sản phải làm sao cho các dân tộc
hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau (“làm cho các dân tộc
thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết


nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh
phương Đông tương lai, khố liên minh này sẽ là một trong
những cái cánh của cách mạng vô sản” và bằng mọi cách

phải làm cho “đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp
xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn
đường cho một sự hợp tác thật sự sau này”.
Thứ ba, Đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những
người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do và công lý.
Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là
đấu tranh cho hoà bình, độc lập, thống nhất và tiến bộ, Hồ
Chí Minh quan tâm đến việc khơi dậy lương tri của loài
người, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức
quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng người cụ thể trên
hành tinh đối với cuộc cách mạng chính nghĩa của nhân
dân ta. Quan điểm ngoại giao này cũng thể hiện chủ nghĩa
nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã tìm thấy
bạn ngay trong các nước đi xâm lược. Bởi vậy, mà Người
chủ trương chống thực dân, chống bọn xâm lược chứ
không phải chống người Pháp, người Mỹ nói chung.
Hai là, Hình thức ĐKQT
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý – chính trị và
tính chất chính trị trong xã hội khu vực và trên thế giới
cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời
kỳ. Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối
đại ĐKQT tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các trào lưu
cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Trong mối quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh luôn dành
sự quan tâm đặc biệt đối với các dân tộc trên bán đảo
Đông Dương. Bởi lẽ, cả ba dân tộc đều là láng giềng gần
gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn
hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm



1941, Người thành lập riêng Mặt trận độc lập đồng minh
cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập
Đông Dương độc lập đồng minh và Mặt trân đoàn kết Việt
– Miên – Lào nhằm phối hợp và giúp đỡ nhau cùng chiến
đấu, cùng thắng lợi.
Đối với các nước khác, Người chăm lo củng cố mối
quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh
thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
Như vậy, trong tư tưởng đại đoàn kết, Hồ Chí Minh
đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trân:
Mặt trận đại đoàn kết dân tộc
Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào
Mặt trân nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam
Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam
chống đế quốc xâm lược.
1.2.3 Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
Một là, Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và
lợi ích, có lý, có tình.
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng giữa các
nước chống đế quốc chủ nghĩa nhờ đặt cách mạng Việt
Nam trong bối cảnh chung của thời đại kết hợp với lợi ích
của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới
và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp
chung, sự nghiệp tiến bộ của loài người.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên
nền tảng của chủ nghĩa Mac Lê Nin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản có lý, có tình.

Hai là, Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường


Theo Hồ Chí Minh đoàn kết là tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, Hồ Chí
Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào
sức minh f là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước
hết mình phải tự giúp lấy mình đã”; và Người chỉ rõ: “Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.


PHẦN 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG QUAN HỆ
ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY
2.1 Tình hình thế giới và trong nước giai đoạn hiện
nay
Một là, Tình hình thế giới
Hiện nay tình hình thế giới hiện nay đang vận động
theo xu thế đan xen nhau phức tạp, trong đó nổi lên các
vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển
đòi hỏi bức xúc của các dân tộc trên thế giới. Các nước
đều giành ưu tiên và coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết
định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp, đồng
thời chú trọng sự ổn định chính trị và hợp tác quốc tế
Thứ hai, các quốc gia lớn nhở đều tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực và quốc
tế về kinh tế, chính trị, thương mại, và các lĩnh vực khác.

Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng gay gắt và
quyết liệt.
Thứ ba, các dân tộc nêu cao ý thức độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của
nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân
tộc, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế.
Thứ tư, các nước XHCN, các Đảng Cộng sản và
công nhân, các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới
kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Sự nghiệp cải cách, đổi mới của các nước XHCN
chứng tỏ sức sống và khả năng tự đổi mới để phát triển
chủ nghĩa xã hội. Phong trào cộng sản và công nhân thế
giới đang được phục hồi với những nỗ lực tìm kiếm những
hình thức tập hợp lực lượng mới, củng cố vai trò trong đời
sống chính trị xã hội.


Thứ năm, các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa
bình. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt không thể tách rời
của quan hệ quốc tế hiện đại, đồng thời cũng là vấn đề có
tính nguyên tắc trong phương pháp xử lý các vấn đề quốc
tế.
Hai là, Tình hình trong nước
Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử tạo tiền đề cần thiết
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chúng ta đã mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đang chủ động và hội nhập
kinh tế quốc tế. Nhờ đó mà uy tín và vị thế của nước ta
đang được nâng lên trên thế giới và khu vực. Điều đó tạo

thêm nhiều thuận lợi cho chúng ta tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh hơn.
Bên cạnh đó, đất nước ta đang đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn
biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào,
đó là: Nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế so với nhiều nước trên
thế giới và trong khu vực. Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên gắn với quan liêu, tham nhũng, lãng phí
là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu CNXH
vẫn tồn tại: Chưa nhận thức rõ định hướng CNXH của nền
kinh tế, chưa quán triệt đầy đủ thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, mất cảnh giác trước các âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch, chưa tích cực tự giác
học tập lý luận chính trị… Các thế lực thù địch âm mưu
“diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các
chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế
độ chính trị ở nước ta, trong quan hệ với nước ta họ vẫn
gắn các vấn đề đó với các vấn đề kinh tế.


Tổng hợp các yếu tố thuận lợi và thách thức trên có
thể nhận định: Những năm tới đất nước ta có cơ hội lớn để
tiến lên, tuy khó khăn còn nhiều. Đòi hỏi bức bách của
toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thử
thách, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ
phát triển nhanh hơn và bền vững hơn.
2.2 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay

2.2.1 Những kết quả đạt được của đoàn kết quốc tế
Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ khi
đổi mới đến nay được xác định và thực hiện với tư cách là
một bộ phận của chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ
đất nước, làm cầu nối nước ta với thế giới, gắn sự nghiệp
của toàn thể dân tộc ta với trào lưu phát triển và tiến bộ
của thời đại. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về ĐKQT được vận dụng trong chính sách đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trong chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định
hướng XHCN trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKQT trong
quan hệ đối ngoại, đã nhận thức đúng đắn tính chất của
thời đại, nhận biết những mâu thuẫn cơ bản, chiều hướng
diễn biến thời cuộc, tranh thủ và phát huy được các điều
kiện, cơ hội thuận lợi mà tình hình mới đưa lại, chúng ta
đã chủ động tham gia hội nhập khu vực và thế giới với lộ
trình cụ thể, phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước và
khả năng thực tế của dân tộc mình, khai thác những thuận
lợi đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài
đối với sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất nước. Trong một
thế giới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn, hài hòa


quan hệ của nước ta với các nước láng giềng và các nước
lớn tiếp tục được coi trọng trong chính sách đối ngoại của
Việt Nam. Từ đó tạo thế đứng ổn định, lâu bền và ngày
càng nâng cao vị thế quốc tế của nước ta, phục vụ đắc lực
lợi ích quốc gia, phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại và

tính chất đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc
tế hiện đại.
Trên bình diện chung đó, Việt Nam đã xây dựng và
phát triển quan hệ hữu nghị, bình đẳng và hợp tác cùng có
lợi. Không ngừng mở rộng, củng cố quan hệ với các nước
và các tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Hoạt động đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay đã
triển khai một cách tích cực, chủ động và giành được
những thắng lợi quan trọng.
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục củng cố và phát
triển quan hệ với các Đảng Cộng sản và công nhân, các
Đảng cánh tả, phong trào độc lập dân tộc và các lực lượng
tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, từng bước mở rộng quan
hệ với các tổ chức chính trị, Đảng cầm quyền ở các nước
trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thúc đẩy và
phát triển quan hệ về mặt nhà nước với các quốc gia, vùng,
lãnh thổ và các tổ chức trên thế giới.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
ASEAN (tháng 7/1995) đã mở ra một giai đoạn mới trong
quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á. Việt
Nam và Trung Quốc đã ký tuyên bố bình thường hóa quan
hệ giữa hai Đảng hai nhà nước (11/1991), chúng ta xây
dựng mối quan hệ ổn định, lâu dài, hữu nghị, láng giềng
thân thiện với Trung Quốc với phương châm 16 chữ “láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai”. Chủ trương giải quyết vấn đề biên giới trên
bộ và phân định vịnh Bắc Bộ bằng đàm phán, thương


lượng, kiên trì phương châm vừa thúc đẩy quan hệ, vừa

thông qua đàm phán giải quyết một cách thỏa đáng những
vấn đề bất đồng. Việt Nam đã củng cố tình đoàn kết với
Cuba, kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh đòi Mỹ xóa bỏ
lệnh cấm vận đối với Cuba. Thúc đẩy quan hệ với cộng
hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, ủng hộ cuộc đấu tranh
thống nhất hai miền Nam - Bắc Triều Tiên. Tăng cường
hữu nghị truyền thống, hợp tác nhiều mặt với Ấn Độ và
mở rộng hợp tác với khu vực Nam Á.
Hiện nay nước ta có quan hệ ngoại giao với 185
nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, thúc đẩy quan hệ kinh
tế thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả các châu
lục; đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với
nhiều quốc gia chủ chốt trên thế giới. Ta đã xác lập quan
hệ với các nước lớn, các khu vực có tiềm năng kinh tế xuất
khẩu dầu mỏ, các nước có nhu cầu thị trường lao động,
lương thực ở Trung Đông cà châu Phi. Thúc đẩy quan hệ
với Liên bang Nga và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô
trước đây. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ ngoại
giao với Mỹ (tháng 7/1995) là thắng lợi trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam. Đẩy mạnh quan hệ với Nhật Bản
nhằm khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực của Nhật
Bản. Chúng ta đã quan hệ với Canada, Ôxtraylia, Niudilân
và các nước công nghiệp với nhằm tranh thủ vốn, kỹ thuật,
công nghệ cho phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta đã ký
hiệp định khung về hợp tác giữa Việt Nam với EU (tháng
7/1995), chính thức tham gia hiệp định hợp tác ASEAN EU, cải thiện quan hệ với các nước Tây Âu, Bắc Âu để
tranh thủ ưu đãi mà EU dành cho các nước ASEAN. Đặc
biệt, Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)
với tư cách là thành viên sáng lập, gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) (tháng 12/2006), không những



tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại, thu hút đầu tư, chuyển giao khoa học, công
nghệ và tận dụng những ưu đãi về thương mại với các
nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực, mà còn góp
phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, chúng ta đã mở rộng hoạt động đối
ngoại nhân dân từ các tổ chức chính trị - xã hội như: Công
đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội
cựu chiến binh và các Hội hữu nghị. Đối ngoại nhân dân
tiếp tục phát huy vai trò cầu nối hữu nghị giữa nhân dân ta
với nhân dân các nước, các tổ chức phi chính phủ. Ngoại
giao nhân dân đã thể hiện một cách sinh động ĐKQT của
Hồ Chí Minh cũng như đường lối đối ngoại đa dạng hóa,
đa phương hóa của Đảng và Nhà nước ta, góp phần vào
việc tăng cường đoàn kết và sự hiểu biết lẫn nhau giữa
nhân dân ta và nhân dân thế giới.
Thực tế cho thấy, sau 30 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, hội nhập vào khhu vực và quốc tế, Việt Nam đã
thể hiện là một tấm gương ổn định về chính trị, phát triển
về kinh tế và đánh dấu bước đầu thành công của sự hội
nhập. Trong những năm vừa qua, Việt Nam từng đón nhiều
đoàn khách quốc tế của các nước đang phát triển đến để
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Phát triển kinh tế và hội
nhập thành công của Việt Nam được bạn bè trên thế giới
tiếp tục bày tỏ sự khâm phục và tôn trọng vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
2.2.2 Những vấn đề cần chú ý khi vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ đối ngoại
của Việt Nam hiện nay

Trước tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến
động như hiện nay, để thực hiện tốt đường lối mở rộng
quan hệ đối ngoại nêu trên, một trong những nội dung


quan trọng là phải tiếp tục vận dụng tư tưởng đoàn kết của
Hồ Chí Minh một cách sáng tạo và phù hợp.
Thứ nhất, phải xác định rõ mục tiêu đoàn kết trong
giai đoạn hiện nay của cách mạng nước ta là dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Do vậy,
cần khai thác mọi khả năng có thể có trên phạm vi quốc
gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, với những quan hệ đa chiều. Phải gắn kết lợi ích
dân tộc với lợi ích quốc tế, phải có những chủ trương
chính sách đúng đắn mới có thể tranh thủ và tận dụng được
mọi khả năng, cơ hội để phát triển. bên cạnh đó, phải khơi
dậy ở dân tộc ta cũng như dân tộc khác nỗi nhục đói
nghèo, nỗi đau lạc hậu, tăng cường tinh thần đoàn kết, hợp
tác giữa các dân tộc cùng vươn tới hòa bình, ấm no, hạnh
phúc và văn minh trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền,
cùng có lợi, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa đế
quốc, của sự can thiệp, áp đặt từ bên ngoài. Song song với
đó là cần triển khai đồng bộ các chính sách, các giải pháp
trên bình diện quốc gia và quốc tế về đoàn kết dân tộc và
ĐKQT để làm cho mục tiêu đó thấm nhuần vào tư tưởng,
tình cảm, suy nghĩ của người Việt Nam và bạn bè quốc tế.
Thứ hai, đoàn kết phải là hội nhập với cộng đồng
quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình.
Hồ Chí Minh đã coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới, hoạt động ĐKQT của Người là

gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đặt cách
mạng Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế để tranh thủ sự
giúp đỡ của quốc tế. Người nêu rõ: Việt Nam muốn “làm
bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với ai”.
Vận dụng quan điểm đó, hiện nay chúng ta phải tiếp tục
mở cửa, hội nhập, là bạn với tất cả các nước với phương
châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.


Hội nhập quốc tế, chúng ta chủ trương hướng tới tương lai,
tạo nên sự tin cậy với các nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng
cần chống sự “hội nhập” vô nguyên tắc, hội nhập đi đến
hòa tan, đánh mất chủ quyền và bản sắc dân tộc. Hội nhập
phải đi theo lộ trình và bước đi thích hợp. Hội nhập quốc
tế vì lợi ích chung của cách mạng thế giới, Việt Nam góp
phần cùng nhân loại tiến bộ đấu tranh bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các dân tộc, đấu tranh cho hòa bình, ổn
định và phát triển. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế Việt
Nam còn tích cực tham gia vào việc giải quyết những vấn
đề mang tính toàn cầu, vì đây vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa
là nhiệm vụ dân tộc.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế, phải nêu
cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Chúng ta
xây dựng đất nước phải bằng chính sức lực và trí tuệ của
con người và đất nước Việt Nam, không thể chờ vào viện
trợ, cho không từ nước ngoài. Tuy nhiên độc lập dân tộc
không phải là biệt lập cô lập, co mình lại, khép kín, không
quan hệ, hẹp hòi, biệt phái. Nhưng càng mở rộng, ĐKQT,
chúng ta càng phải giữ độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường,
không lệ thuộc từ bên ngoài. Khai thác tối đa mọi lợi thế

và nguồn lực của đất nước là điều kiện cơ bản để mở rộng
quan hệ hợp tác sẽ góp phần củng cố, tăng cường thế độc
lập tự chủ của mình. Đó là hai mặt của một vấn đề, chúng
tác động qua lại và quan hệ biện chứng với nhau. Như vậy
quan niệm về độc lập dân tộc của của Đảng Cộng Sản Việt
Nam hiện nay là quan hệ mở và động, luôn kế thừa tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, tự chủ kết hợp chặt
chẽ với tiếp thu sức mạnh của thời đại để xây dựng và phát
triển đất nước. Việt Nam tuyên bố là bạn với tất cả các
nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của quốc gia, tăng
cường hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan


hệ quốc tế chính là quá trình tìm kiếm động lực cho sự
phát triển đất nước, giữ vững chủ quyền và an ninh quốc
gia trong bối cảnh đầy thách thứ của xu thế toàn cầu hóa.
Thứ tư, chúng ta phải coi trọng bài học kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bởi, chỉ có trên sức mạnh bên trong, chúng ta mới có thể
tranh thủ và tận dụng được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi
của lực lượng bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu
của cách mạng. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hiện nay, chúng ta càng mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, tranh thủ vốn, thành tựu khoa học - công nghệ, kinh
nghiệm quản lý của nước ngoài, gia nhập thị trường quốc
tế, nhưng phải trên cơ sở phát huy đầy đủ yếu tố nội dung,
bao gồm các yếu tố: con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ,
truyền thống (lịch sử văn hóa).



KẾT LUẬN
Trước tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
khó lường; quá trình hội nhập liên kết, hợp tác và đấu
tranh kinh tế giữa các nước trong mối quan hệ đa phương,
đa cực, vừa tạo thời cơ thuận lợi, vừa nảy sinh những khó
khăn, thử thách, vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với
cách mạng nước ta. Trung thành và kiên định đi theo ngọn
cờ đại đoàn kết, kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo
những tư tưởng ĐKQT của Hồ Chí Minh là một nhân tố
quan trọng giúp phát huy tối đa nội lực, tranh thủ tối đa
ngoại lực để vượt qua mọi thử thách, đưa con thuyền cách
mạng Việt Nam vững tay lái trên con đường phát triển
chung của thế giới. Qua nghiên cứu, tiểu luận đã khái quát
được những nhân tố hình thành tư tưởng ĐKQT của Hồ
Chí Minh, nội dung tư tưởng ĐKQT của Hồ Chí Minh. Từ
đó tiểu luận đã có những tổng kết những kết quả đạt được
quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐKQT trong
quan hệ đối ngoại của Việt Nam và phân tích những vấn đề
cần chú ý trong thời gian tới.
Trong quá trình nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn,
trình độ nghiên cứu khoa học của bản thân còn nhiều hạn
chế, không tránh khỏi thiếu sót, mong nhận được sự đóng
góp của các thầy cô, các đồng chí quan tâm tới vấn đề này.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô Bộ môn Lý luận chính trị đã
giúp đỡ tôi hoàn thành bài tiểu luận này.


1.
2.

3.
4.
5.
6.
7.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI, Nxb.sự thật,HN.1987.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ VII, Nxb.sự thật,HN.1991.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII. Nxb.Chính trị quốc gia,HN.1996
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX. Nxb.Chính trị quốc gia,HN.2001
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ X. Nxb.Chính trị quốc gia, HN.2006.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia, HN 2011
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII. Nxb.Chính trị quốc gia, HN 2016

Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế,
Nxb CTQG.H.1995.
9. Lê Văn Yên, Một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb.Thanh
niên. HN.1999.
10. Giáo trình………
8.



×