Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận về vấn đề con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.37 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Từ khi con người và xã hội loài người xuất hiện đến nay, vấn đề con
người luôn là vấn đề phức tạp trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Nhận thức và
giải quyết vấn đề con người là nội dung cơ bản trong mọi học thuyết chính trị
xã hội, trong đó có triết học. Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác
nhau thậm chí trái ngược nhau khi bàn về con người. Cuộc đấu tranh xoay
quanh vấn đề con người là một trong những nét nổi bật của lịch sử triết học
nhân loại. Chỉ đến Triết học Mác Lênin ra đời mới tạo ra bước ngoặt cách
mạng, khoa học trong quan niệm về con người, những giá trị đích thực của con
người trong nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội và phát triển tư duy mới được
trả về đúng vị trí của nó. Chủ nghĩa Mác- Lênin thực chất là học thuyết về giải
phóng con người và xã hội loài người. Hiện nay, dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá sâu
sắc, trở thành xu thế khách quan không thể đảo ngược. Con người và nguồn lực
con người ngày càng được đặt vào vị trí trung tâm của mọi quá trình phát triển
xã hội. Lý luận Mác xít về con người đã và đang trở thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để Đảng ta xác định những quan điểm, giải pháp
để phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI nhân loại chứng kiến những
biến đổi nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới. Những sóng gió của
thời đại đã và đang tác động mạnh mẽ đến tồn tại và phát triển của Triết học
Mác- Lênin, đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ngay trên quê hương của
nó; Sự phát triển bão táp của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại; sự
kế thừa một cách triệt để những tiến bộ khoa học công nghệ và sự điều chỉnh
thích nghi trong điều kiện lịch sử mới của chủ nghĩa tư bản …Thực tiễn sinh
động của thời đại đang đặt ra những thử thách khắc nghiệt đối với chủ nghĩa
Mác- Lênin trong đó có Triết học, với tư cách là cơ sở lý luận của chủ nghĩa


2



xã hội, những giá trị đích thực của Triết học Mác- Lênin đang bị công kích từ
nhiều phía, trong đó có những quan điểm khoa học về con người. Vấn đề bảo
vệ và phát triển triết học Mác Lê-nin nói chung, đặc biệt là những quan điểm
khoa học về con người đang đặt ra hết sức bức thiết.
Vì vậy, tôi chọn vấn đề “Quan điểm Triết học Mác - Lênin về con
người và vấn đề con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay ”
làm đề tài viết tiểu luận.


3

NỘI DUNG
1. Một số quan điểm triết học ngoài Mácxít về con người
Từ khi xuất hiện trên trái đất với tính cách là người, con người luôn có
nhu cầu khám phá những bí mật của thế giới xung quanh và về chính bản thân
mình, hàng loạt những câu hỏi do con người đặt ra và tự đi tìm câu trả lời: thế
giới xung quanh ta là gì? Con người là gì? Con người sinh ra từ đâu và có vai
trò gì trong thế giới? Tất cả các khoa học, nhất là khoa học xã hội, trong đó có
triết học suy cho cùng đều đi tìm lời giải đáp. Lời giải đáp đã có từ trong các
truyền thuyết thần thoại, sử thi lưu truyền trong dân gian, mặc dù đó chỉ là
những quan niệm có tính chất triết lý thô sơ, nhân sinh về cuộc sống con
người. Và sự xuất hiện tư duy triết học đánh dấu bước nhảy vọt trong năng
lực nhận thức của con người, đồng thời đánh dấu một giai đoạn mới trong
việc tự ý thức về bản thân.
Các nhà duy vật phương Tây cổ đại đã giải thích sự cấu tạo của thân thể
con người từ các yếu tố vật chất, họ đã có những "tuyên ngôn" về con người
có sức mạnh nhận thức và cải tạo thế giới, nhận thức và cải tạo chính bản thân
mình. Nhưng sức mạnh tiềm tàng của con người có tính độc lập không phụ
thuộc vào sức mạnh nằm ngoài con người. Sự tuyên chiến của triết học với

niềm tin ngây thơ vào sức mạnh siêu nhiên thần bí, các điều tiên tri kỳ lạ là
nhiệm vụ chủ yếu của triết học duy vật trong cuộc đấu tranh với triết học duy
tâm. Ngoài ra, thời kỳ cổ đại ở Phương Tây, người ta đã cho rằng: triết học
phải là học thuyết dạy cho con người biết sống như thế nào, do đó, nhiệm vụ
đặt ra phải nhận thức và tự nhận thức (Xôcrát). Đêmôcrít cho rằng: lúc đầu
con người cũng sinh sống như các động vật, sử dụng các vật phẩm sẵn có
trong thiên nhiên. Chính sự thiếu thốn làm cho nhu cầu ngày càng tăng, từ sự
thúc đẩy của nhu cầu mà bàn tay, trí tuệ của con người tạo nên văn minh về
nhà ở, quần áo và các công cụ sản xuất.... Arixtốt - đại biểu đại diện giai cấp
chủ nô, ông coi con người nô lệ là "những công cụ biết nói". Ông đã nêu lên


4

luận đề: Con người là động vật xã hội và con người cũng là động vật chính trị.
Thừa nhận con người cần phải nghiên cứu thế giới tự nhiên vì bản thân con
người là một bộ phận của tự nhiên. Như vậy, triết học Phương Tây cổ đại đã
rất chú ý bàn đến những vấn đề thực tiễn của con người, hướng con người với
tự nhiên để chinh phục, cải tạo tự nhiên đáp ứng nhu cầu cuộc sống của mình.
Những vấn đề nhân sinh quan cũng giải quyết được dựa trên mối quan hệ con
người với tự nhiên.
Ở phương Đông thời cổ đại, người ta lại bàn luận về các vấn đề "nhân
tình thế thái" với quan niệm con người là tiểu vũ trụ, giải quyết quan hệ người
- người là gốc để giải quyết các quan hệ khác. Sức mạnh của con người được
hướng vào cải tạo chính con người. Khổng Tử chủ trương nhập thế "Tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Lão Tử khuyên răn con người "Vô vi", "Vô
kỷ". Thích ca màu ni cứu vớt chúng sinh bằng con đường tu hành "diệt dục",
hạnh phúc tột đỉnh của con người khi nó từ bỏ hoàn toàn đời sống xã hội để
quay về sống với cái "tâm" của mình. Mặc dù chưa tìm thấy được những quan
hệ cốt lõi trong việc cải tạo con người và xã hội loài người, nhưng những triết

gia phương Đông cũng có những cống hiến quan trọng trong các giải pháp cải
tạo xã hội, con người về đạo đức, về giáo dục, về nhân sinh quan...
Đến thế kỷ XIV - XV, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời đưa
nhân loại thoát khỏi "đêm trường trung cổ", xuất hiện những tư tưởng mới,
phù hợp với sự ra đời của chế độ xã hội mới. Cuộc đấu tranh kéo dài giữa các
hệ tư tưởng diễn ra liên tục và khá quyết liệt. Lý trí và tự do tư tưởng của con
người, chống lại lòng tin mông muội có tính tôn giáo và sự biện hộ cho nó là
thần học kinh viện. Mong muốn giải phóng cá nhân con người, sự đề cao cuộc
sống hạnh phúc, chống lại sự chà đạp thô bạo lên nhân cách và chủ nghĩa khổ
hạnh. Đến thời kỳ phục hưng đã xây dựng nên một quan niệm khá hoàn
chỉnh, có hệ thống về con người và đã diễn đạt được một hình thái sáng sủa
đầy sức sống. Đó là đặt con người vào vị trí trung tâm của thế giới. Hạnh
phúc, sự phát triển và sự hoàn thiện của con người là mục đích của sự phát


5

triển xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là sự phản ánh khát vọng của giai cấp tư
sản ở giai đoạn hình thành. Bên cạnh mặt tiến bộ, cách mạng chứa đựng sẵn
những mặt yếu và mâu thuẫn bên trong. Những mặt này sẽ lớn dần lên cùng
với sự tiến lên của giai cấp tư sản thành giai cấp thống trị. Dù sao triết học thời
phục hưng đã chuẩn bị cho một bước phát triển mới về khoa học, về sự nghiên
cứu con người. Niềm tin và sức mạnh của con người, đặc biệt là tri thức và năng
lực tư duy của con người được thể hiện đậm nét. Những luận đề "Tri thức là sức
mạnh, sức mạnh là tri thức" của Bêcơn, hay "Tôi tư duy nên tôi tồn tại" Đềcáctơ. Đây là những luận đề chống lại thái độ của các tín đồ tôn giáo. Đặc biệt
các nhà duy vật thời kỳ này, trong khi khẳng định nguồn gốc tự nhiên, những
yêu cầu "bản chất" của con người và xuất phát từ đòi hỏi phải thay đổi các quan
hệ xã hội cho phù hợp với bản chất con người. Họ cho rằng lý trí, khoa học và
giáo dục là những động cơ thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Học thuyết về con
người, về xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong di sản tư tưởng của các nhà

duy vật thuộc phái khai sáng ở Pháp thế kỷ XVIII. Đại biểu Môngtexkiơ cho
rằng xã hội cũng như giới tự nhiên đều phải phục tùng những quy luật khách
quan, trạng thái tự nhiên của con người là sống hoà bình và bình đẳng với nhau.
Hônbách cho rằng con người sinh ra vốn không thiện, cũng không ác, thiện hay
ác là do hoàn cảnh tạo nên, đặc biệt là những điều kiện chân chính của xã hội.
Theo ông, sự hiểu biết đúng đắn về lợi ích cá nhân với tư cách là cơ sở tất yếu
của hành vi con người, có thể dung hợp với lợi ích của xã hội.
Ở Đức, cuộc cách mạng dân chủ tư sản chậm hơn các nước Tây Âu.
Kinh tế, chính trị lạc hậu, nhưng những tư tưởng, lý luận với hình thức tư biện
về thế giới và con người tương đối phát triển. Hêghen đã biết tất cả lo âu và
những hy vọng của con người. Ông chứng kiến sự thay đổi của hai thế giới cũ
và mới. Ông viết: "Con người phải sống trong cả hai thế giới tương phản nhau
đến mức ý thức cũng phải vật lộn trong mâu thuẫn ấy... Một mặt chúng ta thấy
con người bị gắn với tính thời sự tầm thường và tính thời gian của trái đất bị
dằn vặt bởi những nhu cầu và khổ cực, bị đe doạ bởi giới tự nhiên, bị sa lầy


6

vào trong vật chất, bị thống trị bởi các bản năng tự nhiên. Mặt khác, con
nguời vươn lên cái ý niệm vĩnh cửu, lên vương quốc của tư duy và tự do. Nó
tự coi như là ý chí của các quy luật và các quy định phổ biến. Nó tước bỏ thế
giới khỏi tính thời sự phong phú và giải quyết tính thời sự ấy bằng sự trừu
tượng. Tinh thần khẳng định quyền lực và phẩm giá của nó trước tình trạng
hỗn loạn và tàn bạo của giới tự nhiên".
Hêghen là đỉnh cao của triết học tư biện vì ông đã vận dụng sự trừu
tượng hoá trừu tượng đến 2 lần khi ông quy khách thể vào khái niệm của nó
và quy con người vào nhận thức của họ. Hai lần ấy khá giống nhau để có thể
ghép thành một hiện thực duy nhất, hiện thực của tinh thần tuyệt đối mà sự
vận động của nó sẽ tạo ra thế giới vì thông qua con người tạo ra sự nhận thức

về thế giới ấy. Tinh thần của con người được đồng nhất với tinh thần của triết
học tư biện Hêghen khi con người đạt tới tột cùng của nhận thức. Nhưng con
người trong quan niệm của Hêghen chỉ là con người tư biện và cái thế giới
bắt nguồn từ ý niệm con người cũng là một thế giới lộn ngược: Thực thể trở
thành chủ thể, ý niệm trở thành bản chất của thế giới và động lực của lịch sử.
Còn hành động thực tiễn của con người thì bị xoá bỏ trước tư biện biện
chứng. Đây cũng là sự thể hiện tính chất thoả hiệp về chính trị của giai cấp tư
sản Đức, Hêghen coi chế độ chuyên chế Phổ là "hợp" quy luật, là hình thức
cuối cùng và hoàn thiện của "ý niệm tuyệt đối". Như vậy, Hêghen đã xây
dựng một lâu đài triết học đồ sộ, nhưng ông để cho con người sống trong một
túp lều tranh của một hiện thực tồi tàn của vương quốc Phổ. Cuối cùng sự
phát triển về kinh tế - chính trị ở Đức đã làm nổ tung sự điều hoà và chấm dứt
bước chuyển tiếp ấy.
Đến giữa thế kỷ XIX, Lútvích PhoiơBắc (nhà triết học theo phái dân chủ
cấp tiến của giai cấp tư sản Đức) đã bàn đến những vấn đề con người và xã
hội nhiều hơn. Cùng với tự nhiên, con người là đối tượng chân chính của triết
học. Chính vì vậy ông đã gọi triết học của ông là triết học mới "Triết học
tương lai về nhân bản học - học thuyết về con người". Ông đã khôi phục chủ


7

nghĩa nhất nguyên về thế giới và con người theo chủ nghĩa duy vật. Theo
PhoiơBắc, con người là một bộ phận của tự nhiên, là một sinh vật có hình thể
vật chất ở trong không gian và thời gian. Không phải thượng đế tạo ra con
người, mà con người do giới tự nhiên đem lại. Không thể tách linh hồn ra
khỏi thể xác được. ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất đặc biệt, chỉ có ở con
người - đó là bộ óc. PhoiơBắc tin tưởng vào khả năng nhận thức của con
người. Con người vừa đủ các giác quan cần thiết để có thể lĩnh hội được toàn
bộ thế giới một cách đại thể.

Những quan điểm nhân bản đã làm PhoiơBắc nhìn nhận con người có
tính chất một chiều, phiến diện, càng không thể đánh giá đúng bản chất của
con người. PhoiơBắc quan niệm con người chỉ là một sinh vật có thực thể, có
cảm giác chứ không phải là một sinh vật xã hội có tính lịch sử cụ thể của nó.
Đó chỉ là con người trừu tượng chung chung có tính tộc loại tổng hợp với
những tính chất sinh lý và đạo đức nhất định, con người đứng ngoài lịch sử,
trên giai cấp với bản chất bất biến của nó. Ông tưởng tượng ra một sự thống
nhất linh thiêng của bản chất con người trong tất cả mọi cá nhân, mọi thời đại,
mọi nước. PhoiơBắc phản đối việc đồng nhất con người với tư duy ý thức như
chủ nghĩa duy lý trước kia đã quan niệm, song ông cho rằng bản chất con
người là sự thống nhất toàn vẹn của linh hồn và thể xác. Nhưng bản chất con
người trong quan niệm của ông chỉ là cảm tính, là đời sống của ý trí và trái
tim, là lương tâm, là tính đa dạng của những cảm xúc, của cá nhân (yêu ghét,
đau khổ, khao khát, hạnh phúc...). Tính chất tĩnh quan của chủ nghĩa duy vật
PhoiơBắc thể hiện rất rõ trong vấn đề ý thức. Trong việc xem xét hoạt động
của con người. Theo ông, con người chỉ phản ánh thế giới khách quan một
cách thụ động, ý thức chỉ là bản sao chép hình ảnh các sự vật một cách đơn
giản có tính chất tự nhiên chủ nghĩa. Ông hoàn toàn không nghiên cứu hoạt
động thực tiễn của con người, hoạt động cách mạng nhằm biến đổi hiện thực
khách quan. Cho nên, triết học mới của PhoiơBắc chỉ là để giải thích cái gì đã
có chứ không phải để thay đổi những gì đang có.


8

Tóm lại, trong suốt quá trình lịch sử lâu dài, việc con người tự nhận thức
về bản thân mình đã được nâng lên không ngừng, cùng với việc nhận thức tự
nhiên và xã hội. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng trong lịch sử, rất nhiều vấn
đề về con người chưa được giải quyết một cách thoả đáng, căn bản và triệt để.
Loài người chỉ có thể tìm thấy câu trả lời xác đáng cho mọi vấn đề về con

người trong triết học Mác-Lênin.
2. Quan điểm Triết học Mác - Lênin về con người
Sáng tạo ra Chủ nghĩa duy vật lịch sử, được xem là một trong hai phát
kiến thiên tài của Mác. Ở đó, bằng việc vân dụng những nguyên lý duy vật
biện chứng vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, Mác đã tìm ra kết cấu và quy luật
vận động của lịch sử, trong đó những quan điểm khoa học về con người và xã
hội loài người được xem như nội dung cốt lõi của bước ngoặt cách mạng
trong lịch sử triết học mà Mác và Ăngghen đã thực hiện. Trước hết, Ăngghen
đã khẳng định, trong phê phán triết học mới của PhoiơBắc: "Người ta chỉ đi
từ con người trừu tượng của PhoiơBắc đến những con người hiện thực sinh
động. Nếu người ta xét những con người đó trong các hành động lịch sử của
họ... Sự sùng bái con người trừu tượng, cái hạt nhân đó trong tôn giáo mới
của PhoiơBắc tất cả được thay thế bằng khoa học nghiên cứu những con
người hiện thực, trong sự phát triển lịch sử của họ" (1). Và thực sự Mác,
Ăngghen, Lênin đã chứng tỏ rằng con người là điểm xuất phát và sự giải
phóng con người là mục đích cao nhất của triết học Mác-Lênin. Ngay trong
tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" năm 1844. Mác đã trình bày một cách
rõ nét, hệ thống và khái niệm con người theo quan điểm duy vật lịch sử. Khái
niệm đó là khái niệm đa nghĩa, con người không đơn giản là những cá nhân
riêng biệt, là phương thức tồn tại của con người trong thế giới và không đơn
giản là chủ thể trừu tượng của nhân loại. Mà con người là cá nhân đặc biệt
thực hiện trong nó bản chất tộc loại và có mọi khả năng để phát triển. Đối với
con người thì toàn bộ lịch sử là quá trình sinh thành của nó, còn đối với lịch
sử, con người thể hiện ra là một chủ thể của sự phát triển lịch sử. Toàn bộ sự


9

phát triển của con người thể hiện ra là sự "tự tha hoá", là sự "lột bỏ". Xoá bỏ
sự tha hoá đó là sự chiếm hữu bản chất của con người. "Con người chiếm hữu

bản chất toàn diện của mình một cách toàn diện, nghĩa là như một con ngưòi
hoàn toàn" (2). Với quan niệm đó, Mác chỉ ra sự hình thành phương thức tồn
tại mới của con người.
Con ngưòi gắn nó với sự phát triển ngày một phong phú về đời sống của
mình, với việc tổ chức theo cách mới mối quan hệ của con người, với sự thay
đổi địa vị của con người trong xã hội. Mác coi chủ nghĩa cộng sản là sự xoá
bỏ một cách tích cực "sự tự tha hoá" của con người, là "sự chiếm hữu một
cách thực sự bản chất của con người, bởi con người và vì con người, là việc
"con người hoàn toàn quay trở lại con người với tính cách là con người xã
hội, nghĩa là có tính chất người. Sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý
thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển đã đạt được" (3).
Khẳng định vai trò của con người trong việc cải biến tự nhiên, cải tạo xã hội,
chủ nghĩa Mác khẳng định: Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản
xuất vật chất, mà còn là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong sự phát
triển của lực lượng sản xuất, nó là chủ thể của quá trình lịch sử, của tiến bộ xã
hội. Bằng lao động sản xuất, con người cải tạo tự nhiên để thoả mãn nhu cầu
của mình, đồng thời cải tạo cả bản thân mình. Ăngghen viết: "Lao động là
nguồn gốc của mọi của cải, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người và như thế đến một mức mà trên ý nghĩa nào đó, chúng ta
phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người" (4). Trong hoạt động
lao động chinh phục tự nhiên, con người cải biến tự nhiên và trên cơ sở đó,
sáng tạo ra những điều kiện bảo đảm cho sự sinh tồn của bản thân mình, sáng
tạo ra lịch sử của chính mình, sản phẩm lao động của con người thể hiện sự
thống nhất giữa xã hội và tự nhiên. Con người bằng hoạt động lao động sáng
tạo của mình, chinh phục, cải biến tự nhiên không phải tư cách là những thành
viên của cộng đồng xã hội. Sống trong cộng đồng xã hội, con người tất yếu có
quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong hoạt động lao


10


động sản xuất, con người và xã hội không tách rời tự nhiên. Nó có thể tồn tại,
phát triển dựa vào tự nhiên và trên cơ sở biến đổi tự nhiên "Mọi khoa ghi
chép lịch sử đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy và những thay đổi
của chúng do hoạt động của con người gây ra trong quá trình lịch sử" (5).
Với quan niệm đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cho rằng: nếu
không có tự nhiên và xã hội thì con người không thể tiến hành sản xuất được.
Song đến lượt mình, sản xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con
người cải biến tự nhiên, biến đổi xã hội trở thành nhân tố quyết định trực tiếp
sự tồn tại phát triển của con người, của xã hội loài người. Trình độ sản xuất
của con người càng cao thì càng có điều kiện để thoả mãn nhu cầu vật chất
của mình và do đó càng làm phong phú thêm đời sống xã hội, đời sống tinh
thần của con người, thông qua đó tự phát triển mình, phát triển xã hội, thúc
đẩy tiến bộ xã hội. Mác, Ăngghen khẳng định: Con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực phát triển của lịch sử, của tiến bộ xã hội. Lịch sử loài người là
lịch sử của con người, do con người và vì con người. Phát triển xã hội trước
hết có nghĩa là "phát triển sự phong phú bản chất con người, coi như là một
mục đích tự thân" (6).
Mục tiêu cao cả, ý nghĩa vĩnh hằng, bản chất nhân đạo, thước đo nhân
văn, sự phát triển tiến bộ xã hội là phát triển con người, đưa "con người từ
vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do" (7). "Để sản xuất ra
những con người phát triển toàn diện, cần phải có một nền kinh tế phát triển
cao, một nền văn hoá tiên tiến, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền
giáo dục phát triển và việc tạo ra những thành tựu kinh tế xã hội đó không chỉ
là một phương pháp để tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một phương
thức duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển một cách toàn diện"
(8). Điểm đặc biệt của triết học Mác - Lênin còn thể hiện khi xem xét giải
quyết vấn đề tương quan giữa nhân tố sinh học và nhân tố xã hội trong bản
chất của con người. Các nhà kinh điển cho rằng cái quyết định trong con
người là cái xã hội. Con người và xã hội không tách rời nhau và chỉ có trong

xã hội, trong khuôn khổ của hoàn cảnh xã hội cụ thể, con người mới tồn tại


11

với tư cách con người, ý thức tư duy của con người xuất hiện như là sản phẩm
xã hội, do đó là tính thứ hai trong sự tồn tại của xã hội của con người. Từ phê
phán con người của PhoiơBắc, Mác khẳng định "bản chất con người không
phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" (9).
Như vậy đã xác định rõ bản chất xã hội của con người, nhấn mạnh ý
nghĩa của những mối liên hệ, những đặc tính xã hội của con người. Chủ nghĩa
Mác tuyệt đối không cào bằng những đặc thù của cá nhân riêng biệt, không hạ
thấp những phẩm chất đặc thù nhân cách. Mặt sinh học của con người là
những quy luật sinh học nói chung, như những đặc điểm về cơ cấu chức năng
của cơ thể, ảnh hưởng của môi trường đối với hoạt động cơ thể, đặc tính di
truyền, một số nét tâm lý biểu hiện đặc tính phản ánh cấp thấp: tri giác, cảm
tính, hoạt động thụ cảm và phân tích...
Chính mặt xã hội của con người đã làm cho mặt sinh học trong con người
phát triển ở một trình độ khác hẳn về chất đối với những động vật khác. Bằng hoạt
động lao động sáng tạo, con người đã vượt lên trên các động vật không chỉ ở trong
mối quan hệ với xã hội mà cả ở trong mối quan hệ sinh học. Thậm trí mặt sinh học
trong con người cũng không tồn tại bên cạnh mà tồn tại ngay trong con người xã
hội, khó có thể phân biệt đâu là mặt sinh học, đâu là mặt xã hội, chỉ có trong nhận
thức chúng ta mới tách chúng ra được mà thôi. Đặc điểm sinh học của con người
chính là ở chỗ con người đã được chuẩn bị về mặt di truyền học để tiếp thu hình
thái xã hội của sự vận động vật chất, đặc biệt là cấu tạo bộ óc. Con người, ngoài sự
di truyền còn có sự kế thừa xã hội, bằng con đường giáo dục, chương trình này
truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trước cho thế hệ sau. Mặc dù chương trình
kế thừa về mặt xã hội không được ghi lại trong các gien di truyền, nhưng nó vẫn

biểu hiện như nguyên nhân bên trong của sự phát triển cá nhân nhưng nó không
thực hiện một cách tự động tách rời với di truyền nhận được từ cha mẹ. Những đặc
điểm di truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học của mình,
vừa bảo đảm để con người tiếp thu chương trình xã hội.


12

Lê nin có nhận xét trong xã hội có đứa bé lọt lòng đã bú ngay phải cái
tâm lý tư hữu từ dòng sữa mẹ. Như thế không phải cái tâm lý đó đã được
truyền lại bằng con đường di truyền sinh học mà là bằng con đường kế thừa
xã hội. Bởi vì những điều kiện môi trường lặp lại trong hàng loạt thế hệ đã
ảnh hưởng đến việc con người tiếp thu những hành vi xã hội nhất định nào đó.
Lịch sử loài người đã diễn ra bên cạnh sự tiến hoá di truyền. Nhưng sự tiến
hoá này chậm chạp vô chừng nếu so với sự tiến hoá xã hội. Quyết định sự tiến
bộ của loài người không phải là nguyên nhân sinh học mà là nguyên nhân xã
hội, là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của các cuộc cách mạng xã hội.
Chương trình di truyền chỉ là cơ sở, là khả năng cho sự phát triển năng lực và
phẩm chất con người. Chỉ có bằng con đường rèn luyện giáo dục làm cho mọi
người có điều kiện tiếp thu tất cả những thành tựu của nền văn hoá vật chất và
tinh thần đã được gắn chặt trong chương trình xã hội mới có thể tạo ra những
năng lực và phẩm chất tốt đẹp của con người.
Song như thế không có nghĩa chủ nghĩa Mác-Lênin xem nhẹ tính sinh học
của con người, bỏ qua việc tiếp thu những thành tựu của sinh học và di truyền
học. Khi nghiên cứu những hành vi của những người cụ thể thì không chỉ xét
đến những điều kiện xã hội, mà còn phải xét đến cả những điều kiện sinh học (và
điều kiện tự nhiên nói chung). Nói một cách khác, phải xem xét cả những mầm
mống tự nhiên của con người mà bằng cách này hay cách khác đã ảnh hưởng ít
nhiều đến sự phát triển năng lực người. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin
chưa bao giờ nói rằng mọi người đều có năng lực ngang nhau. Quan niệm bình

đẳng của Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự bình đẳng xã hội chứ không phải là sự bình
đẳng về mặt sinh học, bình đẳng về năng lực. Bởi thế nên "hành vi" của các dân
tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội được quy định về mặt xã hội thì trong sự
quy định hành vi của từng con người cụ thể cần phải tính đến sự tác động qua lại
hết sức phức tạp giữa mặt xã hội và mặt sinh vật.
Như vậy, tương ứng với luận điểm mà Mác nêu ra về bản chất của con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, thì con người chính là một thực thể


13

xã hội. Cùng với điều đó cũng cần phải khẳng định rằng con người là một bộ
phận của tự nhiên, là một thực thể sinh học, tổ chức sinh học của thực thể
người là một cái gì đó có giá trị tự thân. Việc nhìn nhận, đánh giá con người
trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố sinh học và yếu tố xã hội là
phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Mặt khác, quan niệm của triết học Mác Lênin khi xem xét bản thân con
người từ các quan hệ xã hội không phải đơn giản, thô thiển của một phép tính
cộng các quan hệ xã hội hoặc chỉ tính đến quan hệ giai cấp, quan hệ chính trị.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quan hệ sản xuất là cơ sở của các quan hệ xã
hội khác, nhưng các quan hệ xã hội khác có tính độc lập tương đối. Bản thân
quan hệ sản xuất là quan hệ của con người trong quá trình sản xuất.
Các quan hệ xã hội quy định bản chất của con người được triết học
Mác-Lênin xem xét không tách rời, cô lập với quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Hơn nữa, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi phải xem
xét các quan hệ xã hội cấu thành bản chất con người trong sự liên hệ "tổng
hoà" giữa chúng. Mặt khác, không chỉ là tổng hoà của các quan hệ kinh tế với
chính trị và văn hoá, đạo đức và pháp quyền... mà còn phải xem xét mặt vật
chất và tinh thần, mặt không gian và thời gian của các quan hệ xã hội. Trong

sự tổng hoà này, đặc biệt cần thấy rõ sự thống nhất chung toàn nhân loại với
cái đặc thù giai cấp và dân tộc trong cái riêng của mỗi cá nhân con người. ở
đây, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, những cái chung
chỉ là "một bộ phận, một khía cạnh hay một bản chất" của cái riêng. Sự xem
thường cái cá nhân, cái nhân loại trong việc giải quyết những vấn đề chính trị
xã hội là biểu hiện xa lạ với quan điểm Mác xít. Mặt khác, cũng cần phải phê
phán sự thổi phồng cái chung toàn nhân loại, hạ thấp đặc thù của cái giai cấp,
dân tộc... nếu quan niệm trừu tượng về con người là một hạn chế của các học
thuyết triết học trước Mác thì ngày nay việc thổi phồng tính chung nhân loại


14

của con người thường lại là cách che đậy tính giai cấp của các quan điểm
chính trị, phản động nhất định.
Như vậy, Mác, Ăngghen, Lênin đã tạo ra bước ngoặt cách mạng trong
nhận thức và quan niệm về vấn đề con người - một vấn đề, một hiện tượng
phức tạp nhất trong lịch sử. Không chỉ dừng lại ở sự phân tích khoa học về
bản chất con người mà chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét con người trong sự
thống nhất giữa bản chất và tồn tại, giữa lý luận và thực tiễn. Công lao bất hủ
của các ông chính là ở chỗ đã làm cho người ta thấy "sự phù hợp giữa sự biến
đổi của hoàn cảnh và hoạt động của con người, chỉ có thể xét và hiểu một
cách hợp lý như là thực tiễn cách mạng" (10).
Cần phải coi lịch sử như một quá trình tự sinh của con người, do con
người thực hiện quá trình cải tạo thế giới. Đối với triết học Mác-Lênin, quá
trình xây dựng và phát triển của con người là sự tác động của điều kiện khách
quan, thống nhất với quá trình tự biến đổi, phát triển của con người. Quá trình
đó được thực hiện trong tiến trình hoạt động của chính con người.
Thực tiễn phát triển lịch sử của nhân loại đã chứng minh tính đúng đắn của
những tư tưởng, quan niệm đó của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Lịch sử xã

hội loài người đã trải qua nhiều nấc thang phát triển khác nhau, nhiều chế độ xã
hội có trình độ khác nhau, ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, sự phát triển của lịch sử xã hội là xã hội với những con người tương ứng.
Những con người ấy vừa là sản phẩm của xã hội, vừa là chủ thể cải tạo xã hội.
Xã hội càng phát triển thì càng tạo ra những con người phát triển cả về năng lực,
trình độ, thể chất.... Đồng thời những con người ấy lại chính là chủ thể để cải
biến xã hội.
Những tư tưởng của triết học Mác – Lênin về con người tuy đã ra đời
cách đây hơn 150 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Lần đầu tiên trong lịch sử, triết học Mác Lênin đã đưa lại cho chúng ta
một phương pháp luận đúng đắn, thế giới quan khoa học cách mạng trên cơ sở
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong xem xét


15

và nhận thức về con người một cách khoa học, đồng thời các nhà kinh điển
đã đặt ra vấn đề phải giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội thoát khỏi mọi bất công trong xã hội. Những tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn
trong tiến trình phát triển của nhân loại đấu tranh cho mục tiêu cao cả, những
tiến bộ xã hội trong thế kỷ XX vừa qua và càng có ý nghĩa đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay.
3. Quan điểm của Đảng về con người và phát huy nhân tố con người
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Tiếp cận với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ phương pháp luận về vấn đề
con người, trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lĩnh hội và vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, xây
dựng nên hệ thống những quan điểm, tư tưởng, nội dung các vấn đề về con
người một cách sâu sắc. Hồ Chí Minh luôn coi các vấn đề của con người, bản
chất con người, sự nghiệp trồng người là mục tiêu, là quan tâm thường trực, là

trách nhiệm vẻ vang trong cuộc đời hoạt động của mình. Từ lá thư đầu tiên
gửi Cụ Phan Chu Trinh năm 1913 đến lời di chúc cuối cùng, vấn đề tha thiết
nhất mà Hồ Chí Minh thường đề cập là các vấn đề thuộc về con người. Mong
muốn cháy bỏng trong suốt cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
làm sao cho dân ta, những người cùng khổ, trẻ em, thanh niên, phụ nữ, những
người già cả đều vui vẻ, khoẻ mạnh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành và sống trong hoà bình, trong tình hữu nghị, tình yêu thương và
niềm hạnh phúc.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng con người vừa là sản phẩm của lịch sử,
vừa là động lực phát triển của lịch sử. Con người sinh ra trong xã hội, do đó
các hoàn cảnh xã hội làm nảy sinh trong con người cả cái thiện và cái ác. Vì
lẽ đó, khi kiến tạo một xã hội mới, theo quan niệm của Hồ Chí Minh trước hết
phải tích cực, chủ động xây dựng những con người, những nhân cách cho xã
hội đó. Xã hội nào cũng có những con người đại diện cho nó. Xã hội phong
kiến ở Việt Nam, có những nhân cách kẻ sỹ, bậc trượng phu, người quân tử


16

làm nòng cốt xây dựng xã hội ấy. Xã hội tư sản đã coi các thương gia, nhân
sỹ, các nhà tư bản là nòng cốt xây dựng xã hội đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, mục tiêu phấn đấu trong cuộc cách mạng của chúng ta là chủ nghĩa xã
hội, vì vậy “muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người
mới xã hội chủ nghĩa”.
Con người xã hội chủ nghĩa vừa là sản phẩm sinh thành của quá trình
phát triển xã hội mới, vừa là kết quả của hoạt động lao động sản xuất tích cực.
Con người xã hội chủ nghĩa là những con người có phẩm chất rất mới mà xã
hội cũ không có. Con người xã hội chủ nghĩa khác với nhân cách của kẻ sỹ,
thương gia, trượng phu, quân tử, nhà tư bản. Đó là những con người được
hình thành không chỉ gắn với tiến trình cách mạng của nhân dân mà nó còn

phải đại diện cho các giá trị đạo đức mới, lý tưởng của xã hội mới. Đó là
những con người kiên quyết chống áp bức và bóc lột, coi lao động là nguồn
sống, là trách nhiệm, là vinh dự, là nguồn tạo ra hạnh phúc. Đó là những con
người có tình yêu sâu sắc với đồng loại, yêu những người lao động nghèo khổ
trên thế giới. Nhân tố cơ bản tạo thành tính cách của những con người như
vậy là tính cách mạng của nó. Con người vừa có đạo đức trong sạch, vừa có lý
tưởng tiên tiến.
Những quan điểm, tư tưởng trên đây và những lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân,
ta phải hết sức tránh", "Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm phải trồng người", "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có
con người mới xã hội chủ nghĩa" đã trở thành những tư tưởng xuyên xuốt toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong thế kỷ XX, trong những năm đầu
và những năm tiếp theo của thế kỷ XXI.
Thực tế chứng minh rằng, những tư tưởng vĩ đại về con người của các
nhà kinh điển, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo
vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Con người và nhân tố con người đã trở
thành mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, và “chiến lược con


17

người” được Đảng và Nhà nước ta xác định trong những năm thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước, trong hệ thống các chính sách xã hội là phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh nước ta. Mỗi con người Việt Nam sẽ tự vươn lên và
khẳng đinh đúng diện mạo của mình trong đời sống xã hội.
Trước đây, trong một thời gian dài do nhận thức không đúng và thực
hiện không có hiệu quả trên phương diện lý luận cũng như trong thực hiện
chính sách xã hội cho nên không phát huy hết được mọi tiềm năng, trí sáng
tạo của con người Việt Nam, coi lợi ích của tập thể là cái cao cả, cái tốt đẹp và

hoàn thiện nhất, vì vậy, mà lợi ích của cá nhân, của người lao động bị xem
nhẹ, thậm trí cho rằng quan tâm đến lợi ích cá thể là tính xấu, là cái mà cần
phải lên án.... Đặc biệt là trong thời gian dài của chế độ bao cấp thì đã có lúc
lợi ích riêng của cá nhân bị xem nhẹ, không được khuyến khích phát triển.
Như vậy đã làm triệt tiêu động lực của sự phát triển, làm lu mờ, cũng như
không phát huy được tài năng của mỗi cá nhân và con người trong sự phát
triển kinh tế – xã hội, đánh đồng giữa lợi ích của nhân tố con người với các
nhân tố khác, nói cách khác chỉ thấy con người như một phương tiện của sự
phát triển kinh tế – xã hội.
Các Mác và Ăngghen đã dùng khái niệm con người không phải với tư
cách là một phạm trù độc lập, mà những di sản của các ông để lại chính là
phương pháp luận nghiên cứu con người một cách khách quan, toàn diện, lịch
sử, cụ thể và phát triển. Nghiên cứu nhân tố con người dưới ánh sáng của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng,
chúng ta phải thấy được con người vừa có tính chủ thể, vừa có tính khách thể,
phải thấy được hoạt động của con người vừa có tính chủ thể, vừa có tính khách
thể, hoạt động ấy được gắn chặt với các hoạt động xã hội khác. Vì thế nhân tố
con người phải được xác định là nhân tố trung tâm của sự phát triển kinh tế –
xã hội. Có như vậy thì mới khai thác tối đa tinh thần và tài trí của con người, vì
con người và do con người.
Ngày nay, trước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm
phát triển lực lượng sản xuất thì yếu tố con người vẫn luôn luôn là yếu tố


18

quyết định. Những tư tưởng, quan niệm về con người của Chủ nghĩa Mác Lê
nin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhận thức lại ngày càng đúng đắn
hơn, rõ ràng hơn. Việc nhận thức đúng đã đặt cơ sở khoa học vững chắc cho
sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã

hội, trong đó nhân tố con người phải vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định “Trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Trong nhận thức và hành động, Đảng và
Nhà nước ta đã có những chủ trương, những chính sách xã hội hợp lý, đặc biệt
chú trọng và coi nhân tố con người là trung tâm cho sự phát triển, coi trọng lợi ích
của cá nhân cũng như của mọi thành viên trong xã hội, giải quyết hài hòa giữa lợi
ích chung và lợi ích riêng trong mối quan hệ biện chứng thống nhất. Chúng ta
nhận thức rằng: phát triển nguồn lực con người không chỉ tạo ra động lực của sự
phát triển mà còn là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đến
năm 2020 là đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghệp theo hướng
hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ
tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay được tiến hành
trong bối cảnh thời đại đã có những thay đổi lớn, nằm trong không gian và
thời gian phát sinh những tác động chủ yếu của cuộc cách mạng công nghệ
lần thứ ba – một cuộc cách mạng mà động lực chủ yếu của nó là sức sáng tạo
và trí tuệ của người lao động, do vậy vấn đề con người càng có tầm quan
trọng chiến lược đặc biệt. Ngoài ra, trong quá trình phát triển, cần đặc biệt
chú trọng đến vấn đề nội lực. Nếu không xuất phát từ nội lực thì không thể có


19

phát triển bền vững. Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII/Khóa VII đã khẳng

định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững”. Văn kiện Đại hội VIII cũng đã xác định: “Nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Tổng hợp những quan điểm, tư tưởng của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và những nội dung cơ bản từ những văn kiện, nghị quyết,
chủ trương chiến lược của Đảng, có thể khái quát phương pháp luận trong
việc phát huy tốt nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cần phải chú ý đến những vấn đề cơ bản sau:
Một là: Cần phải từng bước hoàn chỉnh chính sách xã hội nhằm phát
huy mọi phẩm chất, tài năng và trí tuệ con người.
Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, của con người và vì con
người. Chính sách xã hội phải hướng đến mục đích nâng cao phúc lợi cho nhân
dân, tạo điều kiện để giải phóng mọi năng lực của con người, đặt con người ở vị trí
trung tâm của thời đại, không ngừng cải thiện đời sống của con người.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải được đặt trong
mối quan hệ với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển nhân cách, trí lực,
thể lực, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Việc không ngừng gia tăng tính tự giác, năng lực, làm
tăng sáng tạo của mỗi người, việc phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá
nhân kết hợp với sức mạnh tập thể lao động của cả cộng đồng dân tộc trên
một cơ sở nền tảng tinh thần vững chắc phải được coi là định hướng chiến
lược cho việc phát huy, bồi dưỡng nhân tố con người Việt Nam trong giai
đoạn cách mạng mới.
Phát triển kinh tế – xã hội phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, các doanh nghiệp và từng cá nhân
phát huy mọi tiềm năng sẵn có của mình. Giải quyết việc làm, khuyến khích
các ngành nghề truyền thống, tự do hành nghề, phát triển dịch vụ việc làm,



Hai là: Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, làm cho giáo
dục và đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu nhằm mục đích để nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.


21

Để giải quyết tốt vấn đề con người, Đảng và Nhà nước phải coi trọng
hơn nữa và đầu tư cho giáo dục một cách thỏa đáng. Mục tiêu của giáo dục
đào tạo trong giai đoạn hiện nay là: nhanh chóng đào tạo lớp người lao động
có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết
thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học công nghệ, xây
dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn
hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lý có đủ đức, tài. Mô hình con người Việt Nam
cần hướng tới, như văn kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ là con người “phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng
tạo, có ý thức cộng đồng, làng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình có lối
sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội”. Để thực
hiện tốt mục tiêu, mô hình đó, cần phải đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội
dung, phương pháp giảng dạy và học tập; gắn chặt hơn nữa với mục tiêu kinh
tế, xã hội, trên cơ sở công nghệ hiện đại kết hợp chặt chẽ với công nghệ
truyền thống được nâng cao; tăng cường hơn nữa học với hành, học chữ với
học nghề, nhà trường với gia đình và xã hội; huy động các lực lượng xã hội và
thông tin đại chúng tham gia kế hoạch giáo dục thường xuyên, giáo dục liên
tục, giáo dục suốt đời, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Học hành là vô
cùng, học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt” (14).
Ba là: Thực hiện tốt dân chủ hóa đời sống xã hội, thường xuyên đổi mới
và hoàn chỉnh cơ chế quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Con người chỉ có thể phát triển toàn diện trong một môi trường dân chủ

thực sự. ở đó, con người được bảo đảm đầy đủ các quyền lợi về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội.... Dân chủ hóa xã hội sẽ tạo ra một tâm trạng xã hội năng
động, kích thích con người vươn tới các tầm cao, đồng thời góp phần tích cực
vào việc khắc phục những hiện tượng xâm phạm quyền con người.


22

Dân chủ hóa xã hội chỉ được bảo đảm khi thực hiện tốt một trong những
giải pháp là xây dựng, đổi mới công tác quản lý của nhà nước theo hướng
phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân.
Phải luôn bảo đảm cho công tác quản lý của Nhà nước thực sự là của
nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đổi mới phương thức hoạt
động của các thành tố trong hệ thống chính trị xã hội, đặc biệt là việc xây
dựng Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân bằng các công
cụ quản lý, các thiết chế, các tổ chức quản lý có tác dụng to lớn trong việc
phát huy dân chủ xã hội hướng đến nhân tố con người. Cơ chế quản lý của
Nhà nước là con đường, cách thức để con người vừa phát huy tốt vai trò làm
chủ xã hội, tham gia tích cực vào các hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
xã hội, vì vậy nhân tố con người càng được phát huy tốt hơn. Đồng thời phải
thực hiện tốt việc củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ, tinh giản bộ máy theo
hướng tinh gọn, kiện toàn hệ thống pháp chế bảo đảm tính công bằng, nghiêm
minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bốn là: Kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ,
bồi dưỡng truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt Nam, xây dựng và giữ gìn
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là "nguồn lực nội sinh quan trọng
nhất của phát triển", "văn hoá thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người"(15) . Để phát triển con người, tạo

nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiệ đại hoá đất nước, chúng ta
không thể không phát huy những giá trị đạo đức, tinh thần của văn hoá dân tộc,
kế thừa để xây dựng những “nhân cách văn hóa”. Đồng thời, cũng cần phải coi
trọng đặc biệt đến việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Bởi vì, đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho sự phát triển lâu bền, sự phát
triển văn hoá và con người là sự phát triển song hành, văn hoá đảm bảo cho sự
phát triển hài hoà tất cả các mặt trong bản chất con người.


23

Thực hiện tốt vấn đề này tức là góp phần xây dựng được những con
người xã hội chủ nghĩa có đạo đức, tâm hồn trong sáng, có tình cảm và lối
sống lành mạnh, có nhân cách văn hóa đúng với bản sắc, thuần phong mỹ tục
của dân tộc Việt Nam, không lai căng, không chạy theo lối sống thực dụng,
đấu tranh chống sự thâm nhập của các loại văn hóa độc hại, chống tư tưởng
kích động thù địch, mất gốc; khuynh hướng sùng ngoại, bất chấp đạo lý, xâm
hại đến thuần phong, mỹ tục và những giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Xây dựng, phát triển, bảo tồn những giá trị truyền thống, kế thừa chọn lọc
những tinh hoa văn hóa của nhân loại phải theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cần phải xây dựng xã hội ta thành một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập
quan hệ xã hội thực sự tốt đẹp và tiến bộ giữa người với người trong sản xuất và
trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó tăng nhanh hiệu quả kinh tế - xã hội.
Năm là: Tập trung mọi nỗ lực để xây dựng những con người mới xã hội
chủ nghĩa.
Phát triển con người cũng là quá trình xây dựng và hoàn thiện nhân cách
con người mới xã hội chủ nghĩa. Đó chính là quá trình tạo ra những con người
giác ngộ xã hội chủ nghĩa sâu sắc, có lập trường tư tưởng vững vàng, có kiến
thức sâu, rộng về chuyên môn nghiệp vụ, là con người có tinh thần và năng
lực làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và bản thân, là những con người lao

động mới, lao động có kỷ luật, năng suất, kỹ thuật và văn hoá. Kết hợp hài
hoà sự phát triển phong phú về tinh thần, trong sạch về đạo đức, thể lực tốt,
có tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân.
Những con người mới trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước phải là những con người không ngừng phát huy tính tích cực cá nhân,
biết làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, biết giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hoá dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, có
tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính
tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, đủ sức gánh vác công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Có thể nói đây là những nét nổi trội mà con người Việt Nam


24

hiện nay cần có so với các giai đoạn trước đây. Nó phản ánh nét đặc thù của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay. Xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa đảm
bảo cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần phải đặc biệt
quan tâm đến việc bồi dưỡng và không ngừng phát triển cho thế hệ trẻ. "Để
bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất
thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội".


25

KẾT LUẬN
Bằng phương pháp tiếp cận duy vật lịch sử và tư duy khoa học sắc bén,
trên cơ sở kế thừa những quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, với khát
vọng cháy bỏng là giải phóng con người, Triết học Mác – Lênin đã giải quyết
đúng đắn vấn đề con người, coi con người là trung tâm của triết học, của mọi

quá trình phát triển của kinh tế xã hội.
Kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của triết học Mác Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quan tâm đặc biệt đến vấn đề con người,
thể hiện cụ thể trong đường lối phát triển kinh tế xã hội. Con người ở nước ta
được xem như một tài nguyên, một nguồn lực vô cùng quý giá, có vai trò
quyết định. Quan tâm đến con người, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp
bức bất công, nghèo nàn và lạc hậu, đưa con vào địa vị làm chủ sự xã hội và
làm chủ bản thân mình, đó là mục đích cao cả. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
có thể biến những lý tưởng giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội trở thành hiện thực. Chỉ có xuất phát từ quan niệm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và sự phát triển con người với tư
cách là mục tiêu, là động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội thì chúng ta
mới có cơ sở khoa học bền vững, xây dựng, hoạch định và thực hiện tốt sự
nghiệp chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Thế giới đã, đang và có thể có nhiều biến động phức tạp, khó lường,
nhưng những tư tưởng vĩ đại của C.Mác, Ăngghen, Lênin về con người vẫn
còn nguyên giá trị và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả trên phương diện lý
luận và thực tiễn đối với việc giải quyết vấn đề con người của cách mạng ở
nước ta. Vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu để có một phương pháp
luận ngày càng hoàn thiện hơn, chỉ đạo thực tiễn xây dựng, phát huy nguồn
lực con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


×