Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản thi hành án dân sự ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.36 KB, 118 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT
NAM

1.1. Cơ sở lý luận về kê biên tài sản thi hành án dân sự
1.2. Các yếu tố và tiêu chí hoàn thiện pháp luật về biện pháp kê biên
tài sản thi hành án dân sự
1.3. Pháp luật về kê biên tài sản của một số nước trên thế giới có giá
trị tham khảo tại Việt Nam

8
8
30
33

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN THI HÀNH ÁN DÂN

44

SỰ Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng và quá trình hoàn thiện quy
hành án dân sự về kê biên tài sản trước
hành án dân sự năm 2008


2.2. Quá trình hoàn thiện quy định của pháp
trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008
2.3. Thực trạng thi hành pháp luật về kê biên
sự hiện hành

định của pháp luật thi
khi ban hành Luật Thi
44
luật về kê biên tài sản
52
tài sản thi hành án dân
70

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật kê biên tài sản thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91
91
94
111
113



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Nxb

:

Nhà xuất bản

THADS

:

Thi hành án dân sự

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của
Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành
trên thực tế. Thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là THADS) bảo đảm cho bản
án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của nhà nước, góp phần giữ vững ổn định

chính trị-xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì
vậy, Hiến pháp năm 1992 đã chỉ rõ: “Các bản án và quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành” [22].
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính
sách về THADS, đó là: Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (Điều 136), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng Nhà nước trước
đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các văn bản pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực này


2
như Pháp lệnh THADS năm 1989, Pháp lệnh THADS năm 1993, Pháp lệnh
THADS năm 2004 và đặc biệt là việc Quốc hội ban hành Luật THADS.
Bên cạnh việc kế thừa, phát triển và pháp điển hóa các quy định về thi
hành án dân sự còn phù hợp, trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình
hình thực tiễn công tác thi hành án dân sự và tiếp thu có chọn lọc quy định
của pháp luật về THADS của một số nước trên thế giới, Luật THADS đã quy
định thêm nhiều nội dung mới, khắc phục được một số hạn chế, tồn tại của
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. So với các văn bản pháp luật THADS

được ban hành trước, Luật THADS quy định đầy đủ, chi tiết và khoa học hơn
các vấn đề về THADS, vì vậy đã điều chỉnh hiệu quả hơn các quan hệ phát sinh
trong THADS và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Tuy nhiên, sau hơn ba năm triển khai thực hiện, Luật THADS cũng đã
bộc lộ những bất cập, đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, làm rõ thêm,
nhất là trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nói chung và biện
pháp cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng còn bộc lộ nhiều vướng mắc, do nhiều
nguyên nhân khác nhau gây cản trở cho việc tiến hành hoạt động thi hành án dân
sự như: cơ chế quản lý, hoạt động còn chồng chéo, sự phối hợp của các cơ quan
tổ chức trong việc cưỡng chế chưa tốt, các quy định của pháp luật về biện pháp
kê biên còn chưa rõ ràng, thiếu sót; quyền, lợi ích hợp pháp của một bộ phận
quần chúng nhân dân không được đảm bảo gây bức xúc trong xã hội…
Bởi vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn các phương
thức, tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là cần thiết, chỉ ra
những khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục là việc làm có
ý nghĩa thiết thực. Đồng thời, góp phần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
biên trong thực tiễn thi hành án dân sự, đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể có liên quan tạo tiền đề cho sự ổn định an ninh trật tự, phát
triển của kinh tế - xã hội.


3
Với mong muốn góp phần phục vụ cho công tác nghiên cứu tìm hiểu
pháp luật, giúp ích cho công tác thi hành án dân sự trong tình hình mới, nên
tác giả lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản thi hành án
dân sự ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đây là một nội dung đã được quy định tại các văn bản pháp luật trước
khi Luật Thi hành án dân sự được ban hành. Đến nay, Luật THADS đã tiếp

thu có chọn lọc những quy định về kê biên tài sản và quy định bổ sung một
cách đầy đủ, toàn diện, phù hợp, khoa học hơn về vấn đề này.
Trong thời gian qua, có một số đề án, đề tài khoa học nghiên cứu về
vấn đề liên quan đến hoạt động kê biên tài sản thi hành án, cụ thể là:
- “Luật thi hành án dân sự Việt Nam những vấn đề lí luận và thực tiễn”
do TS. Nguyễn Công Bình (chủ biên), do Nhà xuất bản Công an nhân dân
xuất bản năm 2007.
- “Những điểm mới của LTHADS 2008”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010.
- "Các biện pháp cưỡng chế THADS" của tác giả Nguyễn Công Long
(Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội);
- "Đổi mới thủ tục THADS Việt Nam" trong đó có các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự của tác giả Lê Anh Tuấn (Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004);
- “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành luật thi hành án dân sự”,
Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 05/2010, tr. 13 - 16.
- “Bản chất pháp lí của biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo
Luật thi hành án dân sự”, Trần Anh Tuấn, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số
16/2009, tr. 50 - 55.
- “Vài suy nghĩ về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án” Hồ Quân Chính - Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về thi hành án
dân sự t7/2011.


4
- “Biện pháp bảo đảm thi hành án-Bước ngoặt của pháp luật về thi
hành án dân sự”, Thạc sỹ Lê Thị Kim Dung, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
Số chuyên đề Thi hành án dân sự và vấn đề xã hội hóa năm 2009.
- “Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”, Trần Phương Hồng,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề 2011.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Những điểm mới của Luật Thi

hành án dân sự 2008, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010.
- Bùi Thị Thanh Hiếu: “Tài sản là quyền sử dụng đất bị kê biên khó bán
theo thủ tục bán đấu giá”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11, năm 2007.
- Minh Đức: “Những vướng mắc trong việc áp dụng hình thức đấu giá
bằng bỏ phiếu”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11, năm 2007.
- Đỗ Khắc Trung: “Bán đấu giá tài sản thực trạng và hướng hòan
thiện”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11, năm 2007.
Cũng liên quan đến vấn đề này, thời gian qua, Bộ Tư pháp cũng đã biên
tập và xuất bản một số cuốn sách, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về Thi hành
án dân sự, trong đó có vấn đề về kê biên tài sản để thi hành án dân sự; một số
công chức đang công tác tại Bộ Tư pháp, trong đó có tác giả của luận văn
cũng đã bước đầu nghiên cứu và tham gia biên soạn cuốn sách trong đó có
vấn đề về kê biên tài sản thi hành án dân sự, cụ thể là cuốn: “ xử lý tình huống
trong thi hành án dân sự” nhà xuất bản Tư pháp, năm 2010.
Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên
cứu này cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu mục đích, cơ sở áp dụng và giới
thiệu về nội dung, các tình huống cần giải quyết về các quy định về kê biên tài
sản thi hành án dân sự mà chưa nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện,
tổng thể về các nội dung liên quan đến vấn đề này. Tuy vậy, đây vẫn là những
tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện
việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.


5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu làm rõ những vấn đề
lý luận về sự cần thiết áp dụng biện pháp cưỡng chế là kê biên tài sản
THADS, nội dung của chế định kê biên tài sản THADS. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, nhận diện được những hạn chế, bất cập của chế định này và các

tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chúng, từ đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường hiệu quả biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, góp
phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong công tác THADS hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra và giải
quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích cơ sở lý luận về kê biên tài sản THADS như khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa, cơ sở của kê biên tài sản THADS.
- Phân tích, đánh giá những quy định về kê biên tài sản THADS trong
pháp luật THADS Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng thi hành quy định về kê biên tài sản THADS
trong thực tiễn hiện nay.
- Đề xuất những quan điểm và những giải pháp nhằm hoàn thiện quy
định về kê biên tài sản THADS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoàn thiện quy định về kê biên tài sản THADS trong pháp luật Thi hành án
dân sự Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái
niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của kê biên tài sản THADS; cơ sở của


6
việc pháp luật quy định kê biên tài sản THADS; nội dung các quy định của
Luật THADS về kê biên tài sản THADS và thực tiễn thực hiện từ khi có Luật
THADS được ban hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Mác - Lê nin mà trực tiếp là phương pháp của triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành lý luận về lịch sử Nhà nước và pháp luật và một số
phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp tổng hợp, phương pháp thống kê...
- Chương 1, luận văn chú trọng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
để hệ thống hóa, phân tích các vấn đề lý luận về kê biên tài sản trong THADS.
- Chương 2, luận văn chú trọng sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê, kết hợp phương pháp phân tích, tổng
hợp để làm rõ quá trình hình thành, phát triển và đánh giá thực trạng quy định
và thực trạng thi hành quy định về kê biên tài sản THADS hiện nay.
- Chương 3, luận văn chú trọng sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp để đề ra những quan điểm và đề xuất những biện pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về kê biên tài sản THADS.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, có tính hệ thống và phân
tích sâu, tương đối toàn diện về kê biên tài sản THADS, thể hiện ở các nội
dung cơ bản sau đây:


7
- Phân tích, đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện quy
định về kê biên tài sản THADS;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của Luật THADS về
kê biên tài sản THADS và thực tiễn thi hành;

- Đề xuất được những quan điểm, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và
thực hiện những quy định của pháp luật về kê biên tài sản THADS.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về biện pháp kê biên tài sản THADS, hoàn thiện pháp luật về kê biên tài
sản THADS, nhằm đóng góp vào việc sửa đổi, bổ sung Luật THADS năm
2008 do Bộ tư pháp chủ trì soạn thảo và góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật mà Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020”.
Luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên
cứu, giảng dạy môn Luật Thi hành án dân sự; luận văn còn có thể được sử
dụng cho những người làm công tác thực tiễn tham khảo nhằm nhận thức và
áp dụng đúng quy định về kê biên tài sản THADS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm có 03 chương, 08 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, nguyên tắc của kê biên tài
sản thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm về kê biên tài sản thi hành án dân sự
Để làm rõ khái niệm kê biên tài sản THADS, cần phải làm rõ các khái
niệm thi hành án dân sự; biện pháp; thi hành; bảo đảm; cưỡng chế thi hành án

dân sự.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu khái niệm thi hành án dân sự là gì?
Khái niệm thi hành án dân sự theo từng thời kỳ lịch sử của đất nước thì
có quan niệm khác nhau. Có ba quan niệm về thi hành án dân sự, cụ thể:
Quan điểm cho rằng THADS là một giai đoạn của tố tụng tư pháp, vì
những nội dung trong bản án, quyết định của Tòa án nhằm đảm bảo khôi phục
lại trật tự pháp luật và tình trạng ban đầu chỉ đạt được khi bản án, quyết định
đó được thực hiện trên thực tế và thông qua hoạt động THADS tiếp sau hoạt
động xét xử.
Quan điểm cho rằng THADS là hoạt động hành chính vì khi đã có phán
quyết của Tòa án tức là sự thật đã được khẳng định và việc áp dụng pháp luật
đã hoàn thành, quá trình tố tụng tư pháp kết thúc. Như vậy, một phán quyết
thể hiện quyền lực nhà nước có tính chất bắt buộc tôn trọng, chấp hành và
phản ánh mối quan hệ phát sinh giữa các chủ thể liên quan đến THADS, tính
chất hành chính tổ chức được thực hiện theo những nguyên tắc khác với các
nguyên tắc tố tụng tư pháp.
Cả hai quan điểm trên đều đưa ra những luận điểm riêng của mình và ở
chừng mực nhất định đều có tính hợp lý. Tuy nhiên, mỗi quan điểm đều có


9
những vấn đề chưa thể lý giải một cách thuyết phục. Bởi vì, nếu cho rằng
THADS là hoạt động tư pháp thì Cơ quan THADS có phải là cơ quan tiến
hành tố tụng hay Chấp hành viên có phải là người tiến hành tố tụng hay
không? Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định Cơ quan
Thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng và Chấp hành viên là những
người tiến hành tố tụng. Đồng thời, nếu cho rằng Thi hành án dân sự là hoạt
động hành chính, có nghĩa là phương pháp thuyết phục, giáo dục có ý nghĩa
quan trọng, điều này không chấp nhận được vì khi thực hiện nhiệm vụ, Chấp
hành viên có quyền độc lập, phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm

trước pháp luật về việc quá trình tổ chức thi hành án. Khi tổ chức thi hành bản
án, quyết định của Tòa án, không thể áp dụng phương pháp mệnh lệnh, phục
tùng đối với Chấp hành viên như trong quan hệ hành chính đơn thuần. Không
có bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào được yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân
sự phải hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, trả đơn yêu cầu thi hành án hoặc thay đổi
biện pháp cưỡng chế thi hành án mà không có căn cứ pháp luật. Việc ra quyết
định, thông báo trong quá trình tổ chức thi hành án chỉ được thực hiện khi có
những căn cứ pháp lý được quy định trong Luật THADS và pháp luật khác liên
quan. Mặt khác, một phần không nhỏ việc Thi hành án dân sự chủ yếu được tiến
hành dựa trên cơ sở đơn yêu cầu của người được thi hành án (thi hành án theo
đơn yêu cầu), có nghĩa là thực hiện theo nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự (đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự). Ngoài ra, trong bất
cứ giai đoạn nào của quá trình thi hành án, các bên đương sự cũng có quyền tự
thỏa thuận với nhau về nội dung, địa điểm, phương thức thi hành, thậm chí có
thể thỏa thuận thi hành khác với nội dung quyết định của bản án, vì vậy phương
pháp mệnh lệnh, phục tùng không thể áp dụng được. Ngược lại, một quyết định
hành chính có hiệu lực thì không thể nói đến chuyện đối tượng bị áp dụng có thể
chọn lựa thực hiện quyết định đó hay không hoặc tuỳ tiện thay đổi nội dung của
nó. Do đó, hai quan điểm nêu trên là không chính xác.


10
Quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là dạng hoạt động hành chính tư pháp (vừa mang tính chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố
của hoạt động tư pháp). Tác giả đồng thuận với quan điểm này, bởi lẽ:
Thi hành án dân sự là một giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có
mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó. Giai đoạn
Thi hành án dân sự có thể bắt đầu ngay từ khi việc xét xử vụ án chưa kết thúc
như việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án (Điều 130
Luật THADS) hoặc những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được
thi hành ngay như bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao

động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm
việc mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị (khoản 2 Điều 2 Luật THADS).
Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, Chánh án Tòa án, Viện trưởng
Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự hoãn thi
hành án (điểm d, khoản 1, Điều 48 Luật THADS); tạm đình chỉ THADS để
xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hoặc Tòa án
thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải
thi hành án (khoản 1, 2 Điều 49 Luật THADS). Những quyết định này mang
tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ
liên quan đến việc thi hành án dân sự. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong
phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện
để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành án dân sự phản ánh
một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần là hoạt động tố tụng thuần tuý.
Bản chất của THADS là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành
phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau
nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của Thi
hành án dân sự là bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được thi


11
hành trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết
định có tính điều hành.
Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể. Do đó, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự cũng
giống như những thủ tục tố tụng trước đó được quy định chặt chẽ vì đều liên
quan đến quyền con người, quyền công dân; khi tổ chức thi hành án, Chấp
hành viên cũng phải độc lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm hiệu lực của
bản án, quyết định của Tòa án. Nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

thì giá trị sự thật mà bản án, quyết định của Tòa án đã xác định sẽ không còn
nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự nguyện
khác của các đương sự trong quá trình thi hành án.
Là giai đoạn cuối cùng để đưa các phán quyết của Tòa án trong bản án,
quyết định được thực thi trên thực tế, nhưng đối với các giai đoạn tố tụng
trước khi có bản án, quyết định thì đều có mối liên hệ biện chứng với nhau.
Trong lĩnh vực hình sự, dân sự nếu các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành áp
dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời
như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản... thì Cơ quan thi hành án dân sự sẽ
không gặp khó khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng
vụ việc tồn đọng không thể thi hành được. Trong giai đoạn xét xử, nếu một bản
án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng,
cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh
chóng. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được tuyên không khách
quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi sẽ gây cản trở cho việc thi hành
án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước.
Tóm lại, phải xem xét thi hành án như là một hiện tượng phức tạp, có
tính đặc thù, không nên xem như một dạng hoạt động hoạt động hành chính
hoặc hoạt động tư pháp đơn thuần. Vì vậy, có thể quan niệm: Thi hành án dân
sự là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan nhà nước có thẩm


12
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo đảm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời, buộc những cá nhân, tổ chức phải thực
hiện các nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tòa án.
Về khái niệm kê biên tài sản thi hành án dân sự
Như chúng ta đã biết, theo quy định của pháp luật về THADS thì thủ
tục THADS được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các bước để đưa một bản

án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh ra thi hành theo quy định của pháp luật. Quy trình, thủ tục về THADS
được thực hiện từ khi cấp bản án, quyết định, tiếp nhận, thụ lý đơn yêu cầu thi
hành án, ra quyết định thi hành án và tiến hành các tác nghiệp cụ thể cho đến
khi chấm dứt việc thi hành án; quyền và nghĩa vụ của đương sự được thực
hiện trên thực tế. Trong quy trình THADS, tùy theo từng vụ việc cụ thể mà
Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan THADS có thể thực hiện các thủ tục cần
thiết khác nhau.
Pháp luật về THADS đã có những quy định nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của người được thi hành án trong các trường hợp người phải
thi hành án chống đối, cản trở việc thi hành án. Theo đó, trong trường hợp
người phải thi hành án không tự nguyện, có dấu hiệu trốn tránh việc thi hành
án thì người được thi hành án có quyền yêu cầu hoặc Chấp hành viên tự mình
áp dụng những biện pháp mang tính quyền lực Nhà nước là các biện pháp bảo
đảm, biện pháp cưỡng chế THADS để buộc người phải thi hành án thực hiện
nghĩa vụ thi hành án.
Luật THADS đã dành hẳn từ Mục V đến Mục X, chương IV, bao
gồm các điều từ Điều 70 đến Điều 141 để quy định về các biện pháp cưỡng
chế THADS; trong đó, từ Mục V, VI, VIII bao gồm các điều: từ Điều 84
đến Điều 106; từ Điều 110 đến Điều 113 để quy định về kê biên tài sản
THADS ở Việt Nam.


13
Theo Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà
Nẵng xuất bản thì “Biện pháp” được hiểu là cách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể, còn khái niệm “Bảo đảm” được hiểu là làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết hoặc là sự bảo đảm
thực hiện được hoặc giữ được và “Thi hành” là làm cho thành có hiệu lực
điều đã được chính thức quyết định [37, tr 95]. Về mặt pháp lý, khái niệm “thi

hành án” là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành
của Tòa án được thực hiện. Nếu như kết quả của hoạt động xét xử là đưa ra
các phán quyết (bản án, quyết định) trên cơ sở áp dụng các điều luật cụ thể để
xem xét các tình tiết đã xảy ra, thì kết quả của thi hành án là làm cho các phán
quyết đó được thực hiện trong thực tế.
Về khái niệm biện pháp cưỡng chế tài sản, thì có ý kiến cho rằng “Biện
pháp cưỡng chế THADS” là các cách thức đảm bảo cho việc THADS được
thực hiện một cách chắc chắn và đầy đủ nhằm đảm bảo tính hiệu lực của bản
án, quyết định được tổ chức thi hành, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo phân tích của Giáo trình Luật Thi hành án dân sự của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì “ cưỡng chế” là dùng quyền lực Nhà nước buộc cá nhân,
tổ chức phải thực hiện những việc trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế gắn liền
với hoạt động quản lý Nhà nước và là một trong những phương pháp chủ yếu
của hoạt động quản lý Nhà nước. Trong hoạt động tư pháp, để đảm bảo hiệu
lực của các bản án, quyết định do Tòa án tuyên thì Nhà nước phải quy định
các biện pháp cưỡng chế cụ thể và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp
cưỡng chế này. Việc thực hiện các quy định này là phương tiện để thực hiện
quyền lực Nhà nước đồng thời là phương tiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của các chủ thể liên quan trong thi hành án.
Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự
của các đương sự đã được xác định trong bản án, quyết định được đưa ra thi


14
hành. Trong trường hợp, người phải thi hành án mặc dù có điều kiện thi hành
nhưng vẫn không tự nguyện thi hành trong thời hạn mà Cơ quan Thi hành án
đã ấn định, tìm cách trì hoãn, trốn tránh việc thi hành án. Trong những trường
hợp này, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, bảo
đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh thì việc cưỡng chế thi hành án

là hết sức cần thiết.
Từ sự phân tích trên, Giáo trình đã đi đến định nghĩa về khái niệm về
Biện pháp cưỡng chế THADS là: Biện pháp cưỡng chế THADS là biện pháp
thi hành án dân sự dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành
án thực hiện nghĩa vụ THADS của họ, do Chấp hành viên áp dụng trong
trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành án [30, tr.195].
Tác giả không đồng thuận với cách định nghĩa của quan điểm thứ nhất
vì cách định nghĩa chỉ nêu được mục đích của biện pháp cưỡng chế, đó là đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả của bản án, quyết định của Tòa án mà không nêu được
bản chất cụ thể của biện pháp này. Về định nghĩa của Giáo trình Đại học Luật
đã định nghĩa tương đối đầy đủ, nêu được biện pháp này là do Cơ quan
THADS sử dụng quyền lực Nhà nước và các điều kiện để áp dụng đó là người
phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành. Tuy
nhiên, cách định nghĩa này lại chưa nêu được sử dụng biện pháp cưỡng chế để
hướng tới mục đích gì? Để định nghĩa một cách đầy đủ thì cần nêu cụ thể:
Biện pháp cưỡng chế THADS là biện pháp mà Cơ quan Thi hành án dân sự
sử dụng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện
nghĩa vụ THADS của họ, do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Nhằm đảm bảo tính hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức
thi hành; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.


15
Về kê biên tài sản, xử lý tài sản của người phải thi hành án là một trong
sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án, Giáo trình Đại học Luật Hà Nội cũng
đưa ra khái niệm về kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án: Là biện
pháp cưỡng chế thi hành án do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp

người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định có điều
kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành [30, tr 211].
Tương tự như khái niệm về biện pháp cưỡng chế tài sản, cách định
nghĩa này chưa đầy đủ, theo tác giả, cần nêu biện pháp này là một trong các
biện pháp cưỡng chế mà Cơ quan Thi hành án dân sự sử dụng quyền lực Nhà
nước; nêu điều kiện để áp dụng biện pháp này, mục đích hướng đến của biện
pháp. Mặt khác, biện pháp kê biên tài sản không chỉ được Chấp hành viên áp
dụng thực hiện sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
mà trong trường hợp trước khi xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, phá sản doanh
nghiệp, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng biện pháp kê biên
tài sản, thì Cơ quan Thi hành án dân sự cũng phải thực hiện quyết định này.
Do đó, để định nghĩa được đầy đủ thì cần nêu: Kê biên tài sản THADS là một
biện pháp cưỡng chế thi hành án, do Cơ quan thi hành án sử dụng quyền lực
Nhà nước, áp dụng khi người phải thi hành án có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng
trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không
tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong
trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Nhằm đảm bảo
tính hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành; đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Biện pháp cưỡng chế là kê biên tài sản thi hành án đối với tài sản là vật
là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất và được áp dụng
phổ biến nhất trong các biện pháp cưỡng chế. Biện pháp này gồm ba giai


16
đoạn kế tiếp nhau, đó là giai đoạn kê biên tài sản, định giá tài sản và giai đoạn
bán tài sản đã kê biên. Theo đó, quyền tự định đoạt tài sản của người phải thi
hành án có nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định của Tòa án có nguy cơ bị

tước bỏ. Các trình tự, thủ tục để thực hiện biện pháp nghiệp vụ này đòi hỏi hết
sức chặt chẽ, áp dụng đúng những quy định của pháp luật có liên quan như:
pháp luật doanh nghiệp, thương mại, dân sự, đất đai, nhà ở....nhằm hạn chế
các sai sót trong quá trình tác nghiệp.
1.1.1.2. Đặc điểm kê biên tài sản thi hành án dân sự
Xuất phát từ khái niệm về kê biên tài sản THADS đã luận giải ở trên,
đồng thời xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động kê biên tài sản
THADS trong thời gian qua, có thể nhận thấy kê biên tài sản THADS có
những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Đối tượng bị áp dụng biện pháp kê biên tài sản THADS là quyền sơ
hữu trí tuệ, tài sản là vật, tài sản là quyền sử dụng đất.
Phần lớn các nghĩa vụ được tổ chức thi hành trong lĩnh vực THADS
là nghĩa vụ về tài sản. Để các bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức
thi hành nghiêm chỉnh; quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được
đảm bảo; trên cơ sở kết quả xác minh hoặc thông tin do người được thi
hành án cung cấp, người phải thi hành án có điều kiện để thi hành án
nhưng không chịu thi hành hoặc có biểu hiện trốn tránh, tẩu tán, dịch
chuyển tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, thì Chấp hành viên áp
dụng biện pháp kê biên tài sản. Đối tượng kê biên là các tài sản là vật,
quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu trí tuệ có căn cứ xác định là của
người phải thi hành án. Tài sản có thể đang do người phải thi hành án hoặc
do người khác chiếm giữ.
- Biện pháp kê biên tài sản THADS là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất, được áp dụng theo một trình tự, thủ tục quy định chặt chẽ.
Hoạt động kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án rất phức


17
tạp, chỉ được áp dụng sau khi thời hạn tự nguyện thi hành án đã hết. Khi áp
dụng thì quyền sở hữu của chủ sở hữu bị hạn chế và có nguy cơ bị tước bỏ.

Do đối tượng kê biên rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời
sống xã hội như: Quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, tài sản đang cầm
cố, thế chấp, tài sản đang do người thứ ba giữ, tài sản là vốn góp, là vật bị
khóa, đóng gói… Do đó, khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản phải nghiên
cứu kỹ các quy định pháp luật về thi hành án dân sự và các quy định pháp luật
có liên quan như: pháp luật doanh nghiệp, thương mại, dân sự, đất đai, nhà ở,
về định giá tài sản, bán đấu giá tài sản....để đảm bảo việc kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án được đúng pháp luật.
- Khi áp dụng kê biên tài sản THADS, bắt buộc phải thực hiện việc xác
minh và thông báo trước cho đương sự.
Kê biên tài sản THADS là biện pháp nghiêm khắc mang tính bắt buộc
cưỡng chế khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự
nguyện thi hành án; hậu quả của kê biên tài sản là có thể làm thay đổi, dịch
chuyển quyền sở hữu của người phải thi hành án. Để hoàn thành việc kê biên
tài sản đúng quy định pháp luật thì trong quá trình thực hiện đòi hỏi phải tuân
thủ đúng các quy định pháp luật liên quan đến đối tượng tài sản kê biên (như
tài sản là quyền sử dụng đất, động sản, tài sản là vật, quyền sở hữu trí tuệ…).
Do đó, trước khi kê biên, Cơ quan THADS buộc phải xác minh cụ thể, chính
xác về tài sản đó để xác định chủ sở hữu, tính pháp lý, xác định tài sản chung,
riêng của người phải thi hành án, xác định tài sản định kê biên có thuộc đối
tượng cấm kê biên hay không?
Khi xác minh rõ được đối tượng tài sản định kê biên thuộc đối tượng
được pháp luật cho phép tiến hành kê biên, thì thủ tục bắt buộc trước khi áp
dụng đó là phải tiến hành thông báo trước cho người phải thi hành án, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để một lần nữa tạo điều kiện cho họ tự
nguyện chấp hành thi hành án, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu


18
tán, hủy hoại tài sản trốn tránh việc thi hành án.

- Kê biên tài sản THADS được Chấp hành viên tự mình ra quyết định
áp dụng và phải chịu trách nhiệm về việc áp dụng.
Liên quan đến kê biên tài sản nói chung thì có kê biên tài sản trong giải
quyết các vụ án hình sự; dân sự; vi phạm hành chính.
Trong vụ án hình sự thì khoản 1 Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định các chủ thể là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và
Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà
Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có thẩm quyền kê biên tài sản. Đối
tượng bị áp dụng giới hạn chỉ đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự
quy định có thể tịch thu tài sản hoặc phạt tiền cũng như đối với người phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Khi tiến
hành kê biên chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu,
phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Chủ thể có quyền quyết định áp dụng biện
pháp kê biên có quyền hủy quyết định kê biên tài sản nếu xét thấy việc kê
biên tài sản là không cần thiết. Sau kê biên tài sản thì việc duy trì việc kê biên
đến khi xét xử tại Tòa án. Chỉ có Hội đồng xét xử mới quyết định tại bản án,
quyết định có tiếp tục kê biên tài sản hay không tiếp tục kê biên tài sản để
đảm bảo thi hành án.
Đối với vụ án dân sự, kinh tế, phá sản doanh nghiệp (gọi chung là vụ án
dân sự), một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời đó là kê biên tài sản đang
tranh chấp (quy định tại Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự). Khi Thẩm phán
(giai đoạn trước khi xét xử) hay Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) quyết định kê
biên tài sản thì quyết định kê biên tài sản được gửi sang Cơ quan Thi hành án
dân sự cùng cấp để thực hiện.
Một điểm khác biệt của kê biên tài sản trong khi giải quyết vụ án hình


19

sự và vụ án dân sự đó là liên quan đến vai trò của Cơ quan Thi hành án dân
sự. Khi kê biên tài sản trong vụ án dân sự thì các chủ thể được quy định tại
khoản 1 Điều 80 Luật Tố tụng hình sự quyết định áp dụng biện pháp kê biên
và giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thực hiện quyết định
này. Việc tiếp tục kê biên hay không tiếp tục kê biên chỉ được quyết định
chính thức bởi Hội đồng xét xử và được chuyển sang Cơ quan Thi hành án
dân sự cùng cấp để thực hiện các bước tiếp theo sau khi kê biên tài sản (thẩm
định giá, bán đấu giá tài sản…); còn trong khi giải quyết các vụ án dân sự thì
tại giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời bằng hình thức kê biên tài sản thì quyết định này được
chuyển ngay cho Cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện theo quy định tại
khoản 2 Điều 2 Luật THADS.
Đối với kê biên trong vi phạm hành chính thì một trong các biện pháp
để cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là biện pháp kê
biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá (quy định tại
điểm b, khoản 2, Điều 86 Luật xử phạt vi phạm hành chính), các chủ thể ra
quyết định kê biên tài sản rồi đưa ra bán đấu giá không liên quan đến Cơ quan
Thi hành án dân sự.
Như vậy, các chủ thể ra quyết định kê biên tài sản trong khi giải quyết
các vụ án hình sự, dân sự không trực tiếp tổ chức thực hiện để đạt được mục
đích khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản. Pháp luật THADS thừa nhận việc
kê biên tài sản của chủ thể của các cơ quan tố tụng trong khi giải quyết vụ án
hình sự, của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Cơ quan Thi hành
án dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các quyết định của chủ thể này.
Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, đến giai đoạn
thi hành án thì Pháp luật về THADS quy định rõ chủ thể nào mới có thẩm
quyền ra quyết định kê biên tài sản, đó là Chấp hành viên (quy định tại khoản
5 Điều 20 Luật THADS). Trong quá trình tổ chức thi hành án, sau khi có kết



20
quả xác minh về tài sản của người phải thi hành án, nếu kết quả xác minh cho
thấy người phải thi hành án có điều kiện thi hành án, có tài sản (là vật; quyền
sử dụng đất; quyền sở hữu trí tuệ) để đảm bảo thi hành án nhưng không chịu
tự nguyện thi hành, thì Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế
bằng hình thức kê biên tài sản. Nếu Chấp hành viên không áp dụng biện pháp
kê biên tài sản để xảy ra hậu quả nghiêm trọng (người phải thi hành án tẩu tán
tài sản) thì tùy theo mức độ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trường hợp
Chấp hành viên ra quyết định kê biên không đúng, ít hơn hay vượt quá mức
phải thi hành án, nếu xảy ra hậu quả thì tùy theo mức độ cũng phải chịu trách
nhiệm bồi thường.
- Việc áp dụng kê biên tài sản THADS được thể hiện thông qua việc
ban hành quyết định của Chấp hành viên.
Để việc kê biên tài sản được chặt chẽ, đúng pháp luật, tránh trường hợp
áp dụng một cách tùy tiện thì pháp luật THADS quy định chỉ Chấp hành viên
mới có quyền được áp dụng kê biên tài sản THADS. Ngoài Chấp hành viên
thì các chủ thể khác trong Cơ quan THADS không có quyền ra quyết định áp
dụng các biện pháp này. Mặt khác, việc áp dụng kê biên tài sản THADS chỉ
có hiệu lực pháp lý khi được Chấp hành viên quyết định dưới hình thức văn
bản quyết định. Các hình thức văn bản khác thể hiện việc áp dụng kê biên tài
sản thi hành án (như công văn, thông báo hay biên bản) đều không có giá trị
pháp lý.
Đánh giá về chế định kê biên tài sản THADS cũng có nghĩa là đánh giá
về toàn bộ các yếu tố hình thành nên chế định hoặc có ảnh hưởng, liên quan.
Việc hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản THADS cũng dựa trên sự đánh
giá, nhận xét đúng đắn, đầy đủ, khách quan về chế định kê biên tài sản
THADS để có giải pháp phù hợp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
kê biên tài sản THADS.
1.1.1.3. Điều kiện áp dụng kê biên tài sản thi hành án dân sự



21
Khi kê biên tài sản THADS phải tuân theo các điều kiện sau đây:
- Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền theo
bản án, quyết định được đưa ra thi hành hoặc phải nộp phí thi hành án.
Nghĩa vụ thanh toán tiền của người phải thi hành án được ấn định trong
bản án, quyết định của Tòa án hoặc của cơ quan có thẩm quyền như tổ chức
trọng tài thương mại Việt Nam hoặc của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh,
được biểu hiện ở các dạng như: người phải thi hành án phải trả tiền bồi
thường, bồi thường do làm mất, làm hỏng, bồi hoàn chi phí đào tạo, bồi
thường tính mạng sức khỏe... hoặc là việc trả tiền nợ, tiền thanh toán theo hợp
đồng, tiền công lao động, tiền chênh lệch giá trị tài sản khi phân chia tài sản...
và cũng có thể là nghĩa vụ nộp phí thi hành án khi người được thi hành án đã
nhận tài sản nhưng không tự nguyện nộp phí thi hành án (quy định tại Điều
60, khoản 4 Điều 3 Thông tư số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010
của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp).
- Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.
Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án là những người mà
Chấp hành viên đã xác minh khẳng định được người đó có tài sản (trừ tài sản
là tiền thì không áp dụng biện pháp cưỡng chế này). Tài sản của người phải
thi hành án có thể là tài sản động sản hoặc bất động sản và kể cả quyền sở hữu
trí tuệ, quyền sử dụng đất, vốn góp...theo quy định tại Mục 6 Luật thi hành án
dân sự năm 2008.
- Hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành hoặc chưa hết thời gian tự nguyện nhưng để ngăn chặn
việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án (quy định
tại Khoản 2 Điều 45 Luật thi hành án dân sự năm 2008).
Thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành viên ấn định là 15 ngày,
kể từ ngày nhận được hoặc thông báo hợp lệ quyết định thi hành án theo quy
định tại Điều 39,40,41,42 và 45 Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong



22
thời gian tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án, nếu chấp hành
viên cần phải ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ
thi hành án thì Chấp hành viên có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án được quy định tại Điều 66 luật thi hành án dân sự hoặc biện
pháp cưỡng chế thi hành án đã quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự.
1.1.1.4. Nguyên tắc áp dụng kê biên tài sản thi hành án dân sự
Khi kê biên tài sản THADS chủ thể áp dụng biện pháp này phải tuân
theo những nguyên tắc nhất định, đó là:
Thứ nhất, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau khi đã
hết thời gian tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp cần áp dụng các biện pháp
bảo đảm hoặc biện pháp cưỡng chế theo quy định Khoản 2 Điều 45 Luật thi
hành án dân sự.
Để tổ chức thi hành một bản án, quyết định trước tiên phải để cho
người được thi hành án có một thời gian suy nghĩ, thu xếp các điều kiện để tự
mình thi hành các nghĩa vụ mà Bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên ( pháp
luật THADS hiện hành ấn định thời gian tự nguyện thi hành án cho người
phải thi hành án thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc thông báo
hợp lệ quyết định thi hành án). Đây là thủ tục bắt buộc và là thủ tục đầu tiên
mà Chấp hành viên phải thực hiện khi tổ chức thi hành một quyết định thi
hành án. Chỉ khi hết thời gian tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án
không tự nguyện thi hành án, thì Chấp hành viên mới phải dùng đến quyền
lực của Nhà nước tức là áp dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc người có
nghĩa vụ thi hành phải thi hành theo đúng bản án, quyết định và quyết định
của Cơ quan thi hành án. Nếu không cho người phải thi hành án một thời gian
tự nguyện thi hành mà đã áp dụng biện pháp kê biên tài sản để thi hành án là
trái pháp luật.
Tuy nhiên, để đảm bảo công tác thi hành án dân sự đạt hiệu quả, với

mục đích nhằm ngăn chặn các hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh


23
nghĩa vụ thi hành án của đương sự thì trong thời gian tự nguyện thi hành án
Chấp hành viên vẫn được áp dụng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp
cưỡng chế thi hành án được quy định tại Chương IV Luật thi hành án dân sự
theo quy định tại Khoản 2 Điều 45 Luật thi hành án dân sự.
Thứ hai, chỉ kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án khi có căn
cứ khẳng định tài sản đó thuộc sở hữu của người phải thi hành án đang quản
lý sử dụng hoặc đang do người thứ ba giữ.
Khác với việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại
Điều 66 Luật thi hành án dân sự, việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án chỉ được tiến hành khi và chỉ khi đã xác định được tài sản đó là tài
sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án đang do họ quản lý, sử dụng
hoặc đang do người thứ ba quản lý, sử dụng. Tài sản của người phải thi hành
án có thể là tài sản riêng và cũng có thể là tài sản chung của người phải thi
hành án với người khác (như tài sản chung của vợ chồng khi người vợ hoặc
người chồng là người phải thi hành án hoặc tài sản là vốn góp của người phải
thi hành án với người khác...) và cũng có thể là tài sản của người phải thi hành
án nhưng đang cho người khác vay, mượn, thuê, gửi giữ, sửa chữa...
Thứ ba, chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án tương ứng với
nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết.
Nguyên tắc này đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người
phải thi hành án; người phải thi hành án chỉ phải chịu nghĩa vụ thi hành theo
bản án và quyết định của Tòa án đã tuyên cùng với các chi phí cho việc kê
biên tài sản để thi hành án mà pháp luật quy định. Nguyên tắc này cũng tránh
việc lạm quyền của Cơ quan thi hành án dân sự trong việc kê biên tài sản
THADS gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án.
Tại Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009, quy định:

Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất,
mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án;


×