Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THI CÔNG XÂY DỰNG TẠI BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN CÔNG TRÌNH THỊ XÃ QUẢNG YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.67 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

NGUYỄN TIẾN VŨ

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG THI CÔNG XÂY DỰNG TẠI BAN QUẢN LÝ
DỰ ÁN CÔNG TRÌNH THỊ XÃ QUẢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

NGUYỄN TIẾN VŨ

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG THI CÔNG XÂY DỰNG TẠI BAN QUẢN LÝ
DỰ ÁN CÔNG TRÌNH THỊ XÃ QUẢNG YÊN

Chuyên ngành: Quản lý xây dựng
Mã số: 60-58-03-02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS.TS. Lê Đình Chung


2. TS. Trần Văn Toản

HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tác giả dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Lê Đình Chung và T.S. Trần Văn Toản. Các kết quả nghiên cứu và các kết luận trong luận
văn là hoàn toàn đúng với thực tế và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào trước đây. Việc
tham khảo nguồn tài liệu (nếu có) đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng
quy định.
Trong thời gian tìm hiểuquá khứ đến thới gian hiện tạinay, tác giả cam kết chưa có đề tài nào nghiên
cứu đề xuất giải pháp nâng cao năng lực quản lý chất lượng thi công xây dựng tại cho Ban quản lý dự
án công trình thị xã Quảng Yên..
Tác giả luận văn

Nguyễn Tiến Vũ

3


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu, nhiệt tình của
các thầy cô trường Đại học Thủy lợi, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu nhà trường, Khoa công trình và phòng đào tạo Đại học và sau Đại học của trường đại
học Thủy lợi đã giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành Luận văn. Tác giả xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo PGS.TS. Lê Đình Chung và thầy giáo TS. Trần Văn Toản,
những người đã tận tình hướng dẫn luận văn tốt nghiệp cho tác giả;.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới Phòng Kinh tế và Ban quản lý dự án công trình thị xã Quảng Yên,
lãnh đạo cơ quan và đồng nghiệp đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tác giả trong việc thu

thập thông tin, tài liệu, đóng góp ý kiến trong quá trình thực hiện luận văn;.
Đặc biệt, tác giả cũng dành sự Xin cảm ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã thường
xuyên chia sẻ khó khăn và động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để có thể hoàn
thành luận văn này.
Xin chân trọng cảm ơn!.

4


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
(Xếp theo thứ tự A,B,C của chữ cái đầu viết tắt)
BQLDA Ban quản lý dự án
CLTCXD Chất lượng thi công xây dựng
ĐHTL Đại học Thủy lợi
IEEE Institute of Electrical and Electronics Engineers
LVThS Luận văn Thạc sĩ

7



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước, công tác đầu tư xây dựng cơ bản ngày
càng được chú trọng. Khi nói đến dự án đầu tư xây dựng, ngoài đặt vấn đề về quản lý, sử dụng nguồn
vốn thì công tác quản lý chất lượng thi công xây dựng được đặt lên hàng đầu.
Chất lượng thi công xây dựng công trình không những có liên quan trực tiếp đến an toàn sinh mạng,
an toàn cộng đồng, hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình mà còn là yếu tố quan trọng đảm
bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Để đảm bảo quá trình thi công đúng tiến độ, đảm bảo
chất lượng công trình thì cán bộ thi công không những phải có tinh thần và trách nhiệm cao mà đòi hỏi
cán bộ quản lý, giám sát phải quản lý tốt, hướng dẫn quy trình, quy phạm kỹ thuật, giải quyết các mắc
mưu thông thường về kỹ thuật xảy ra trong quá trình thi công.
Hiện nay, trên điạ bàn thị xã Quảng Yên, hằng năm có nhiều dự án đầu tư xây dựng được triển khai, số
lượng các công trình ở mọi quy mô ngày một tăng. Tỷ lệ giải ngân vốn, đảm bảo tiến độ và chất lượng
công trình hoàn thành đạt trên 90%.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, còn nhiều hạn chế trong tất cả các khâu quản lý, đặc biệt là
quản lý chất lượng trong thời gian thi công. Vì thế, để công tác quản lý chất lượng không còn khiếm
khuyết, dẫn đến tình trạng lãng phí, chất lượng chưa đáp ứng được so với yêu cầu. Em xin chọn đề tài
“Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực quản lý chất lượng thi công xây dưng tại Ban quản lý dự án
công trình thị xã Quảng Yên”.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu thực trạng quản lý chất lượng của Ban quản lý dự án công trình thị xã Quảng Yên để tìm ra
các tồn tại và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực quản lý chất lượng thi công
xây dưng tại Ban quản lý dự án công trình thị xã Quảng Yên.

3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
- Tiếp cận lý thuyết, tìm hiểu các tài liệu đã được nghiên cứu;
- Tiếp cận các thể chế, pháp quy trong xây dựng;

- Tiếp cận các thông tin dự án;
- Phương pháp điều tra thu thập thông tin;
- Phương pháp thống kê số liệu;
- Phương pháp phân tích tổng hợp;
- Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia.

8


4. Kết quả dự kiến đạt được
- Đánh giá được thực trạng về công tác quản lý chất lượng thi công xây dựng công trình tại Ban quản
lý dự án công trình thị xã Quảng Yên.
- Từ đó Đđề xuất được các giải pháp nâng cao năng lực quản lý chất lượng thi công xây dựng tại Ban
quản lý dự án công trình thị xã Quảng Yên.

9


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG THI CÔNG XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
1.1 Chất lượng xây dựng công trình
Chất lượng xây dựng công trình không những có liên quan trực tiếp đến sinh mạng, an toàn cộng
đồng, hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình mà còn là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia

1.1.1

Chất lượng xây dựng công trình


1.1.1.1 Khái niệm về chất lượng công trình xây dựng
Chất lượng công trình xây dựng là những yêu cầu về an toàn, bền vững, kỹ thuật và mỹ thuật của công
trình nhưng phải phù hợp với tiêu chuẩn và quy chuẩn xây dựng, các quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan và hợp đồng kinh tế. [1]
Chất lượng xây dựng công trình không chỉ đảm bảo sự an toàn về mặt kỹ thuật mà còn phải thỏa mãn
các yêu cẩu về an toàn sử dụng có chứa đựng yếu tố xã hội và kinh tế, không kinh tế thì cũng không
thỏa mãn yêu cầu về chất lượng công trình. Có được chất lượng xây dựng công trình như mong muốn,
có nhiều yếu tố ảnh hưởng trong đó có yếu tố cơ bản nhất là năng lực quản lý (của chính quyền, của
chủ đầu tư) và năng lực của các nhà thầu tham gia các quá trình hình thành sản phẩm xây dựng.
Thông thường, xét từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng, chất lượng công trình được đánh giá bởi
các đặc tính cơ bản như: công năng, độ tiện dụng, tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, độ bền vững, tin
cậy, tính thẩm mỹ, an toàn trong khai thác sử dụng, tính kinh tế, và đặc biệt đảm bảo về thời gian (thời
gian phục vụ của công trình). Rộng hơn, chất lượng công trình xây dựng còn có thể và cần được hiểu
không chỉ từ góc độ bản thân sản phẩm mà còn cả trong quá trình hình thành sản phẩm xây dựng đó
với các vấn đề liên quan khác. Một số vấn đề cơ bản đó là:
Chất lượng công trình xây dựng cần được quan tâm ngay từ khi hình thành ý tưởng về xây dựng, từ
khâu quy hoạch, lập dự án, đến khảo sát thiết kế, thi công....cho đến giai đoạn bàn giao sử dụng và dỡ
bỏ công trình sau khi đã hết thời gian phục vụ. Chất lượng công trình xây dựng thể hiện ở chất lượng
quy hoạch xây dựng, chất lượng dự án đầu tư xây dựng công trình, chất lượng khảo sát, chất lượng các
bản vẽ thiết kế....
Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ chất lượng của nguyên vật liệu, cấu kiện, chất
lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các bộ phận, hạng mục công trình.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm, kiểm định nguyên vật liệu, cấu
kiện, máy móc, thiết bị mà còn ở quá trình hình thành và thực hiện các bước công nghệ thi công, chất
lượng các công việc của đội ngũ công nhân, kỹ sư lao động trong quá trình thực hiện các hoạt động
xây dựng.
Vấn đề an toàn không chỉ là trong khâu khai thác sử dụng đối với người thụ hưởng công trình mà còn
cả trong giai đoạn thi công xây dựng đối với đội ngũ công nhân kỹ sư xây dựng.
Tính đến thời gian không chỉ thể hiện ở thời hạn công trình đã xây dựng có thể phục vụ mà còn ở thời


10


hạn phải xây dựng và hoàn thành, đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình chủ đầu tư phải chi trả mà còn thể hiện
ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho các nhà đầu tư thực hiện các hoạt động và dịch vụ xây dựng như lập
dự án, khảo sát thiết kế, thi công xây dựng.....
Vấn đề môi trường cần chú ý ở đây không chỉ từ góc độ tác động của dự án tới các yếu tố môi trường
mà cả tác động theo chiều ngược lại, tức là tác động của các yếu tố môi trường tới quá trình hình thành
dự án.

1.1.1.2 Đặc điểm của sản phẩm xây dựng ảnh hưởng đến vấn đề chất lượng
Sản phẩm xây dụng với tư cách là các công trình xây dựng hoàn chỉnh thường có các đặc điểm chủ
yếu sau ảnh hưởng đến chất lượng và công trình xây dựng:
Tính cá biệt, đơn chiếc: Sản phẩm xây dựng mang tính đơn chiếc vì phụ thuộc vào đơn đặt hàng của
người mua (chủ đầu tư), vào điều kiện địa lý, địa chất công trình nơi xây dụng, sản phẩm xây dựng
mang nhiều tính cá biệt, đa dạng về công dụng, cấu tạo và phương pháp sản xuất, chế tạo. Vì lý do đó,
hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy trình quy phạm, công nghệ thi công rất phức tạp và
đa dạng.
Được xây dựng và sử dụng tại chỗ: Sản phẩm xây dựng là các công trình được xây dựng và sử dụng
tại chỗ. Vốn đầu tư xây dụng lớn, thời gian xây dựng cũng như thời gian sử dụng lâu dài. Vì tính chất
này nên khi tiến hành xây dụng phải chú ý ngay từ khâu quy hoạch, lập dự án, chọn địa điểm xây
dựng, khảo sát thiết kế và tổ chức thi công xây lắp công trình sao cho hợp lý, tránh phá đi làm lại hoặc
sửa chữa không đảm bảo về thời hạn hoàn thành công trình, gây thiệt hại vốn đầu tư của chủ đầu tư,
vốn sản xuất của các nhà thầu và giảm tuổi thọ công trình.
Kích thước và trọng lượng lớn, cấu tạo phức tạp: Sản phẩm xây dựng thường có kích thước lớn, trọng
lượng lớn. Số lượng chủng loại vật tư, thiết bị xe máy thi công và hao phí lao động cho mỗi công trình
cũng rất khác nhau, luôn thay đổi theo tiến độ thi công. Công tác giám sát chất lượng của nguyên vật
liệu, cấu kiện, MMTB thi công gặp nhiều khó khăn. Giá thành sản phẩm xây dựng rất phức tạp,
thường xuyên thay đổi theo từng khu vực, từng thời kỳ gây khó khăn cho công tác khống chế giá

thành công trình xây dựng.
Liên quan đến nhiều ngành, đến môi trường tự nhiên và cộng đồng dãn cư:
Sản phẩm xây dựng liên quan đến nhiều ngành cả về phương diện cung cấp các yếu tố đầu vào, thiết
kế và chế tạo sản phẩm và cả về phương diện sử dụng công trình.
Sản phẩm xây dụng ảnh hưởng nhiều đến cảnh quan và môi trường tự nhiên và do đó hên quan nhiều
đến lợi ích cộng đồng nhất là đối với dân cư địa phương nơi đặt công trình do đó vấn đề vệ sinh và bảo
vệ môi trường được đặc biệt qũan tâm trong xây dựng công trình.
Thể hiện trình độ phát triển kinh tế - văn hoá – - xã hội lừng thời kỳ: Sản phẩm xây dựng mang tính
tổng hợp vé kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng. Sản phẩm xây dựng chịu nhiều ảnh
hưởng của nhân tố thượng tầng kiến trúc, mang bản sắc văn hoá dân tộc, thói quen tập quán sinh hoạt
của dân cư.

1.1.1.3 Đặc điểm của sản xuất xây dựng ảnh hưởng đến vấn đê chất lượng
Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng lớn đến phương thức tổ chức và quản lý sản

11


xuất xây dựng, làm cho việc thi công xây dựng công trình có nhiều điểm khác biệt so với việc sản xuất
sản phẩm của các ngành công nghiệp khác, sản xuất xây dựng có các đặc điểm sau ảnh hường đến chất
lượng và công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng:
- Sản xuất xây dựng có tính di động cao: Sản xuất xây dựng thiếu tính ổn định, có tính di động cao
theo lãnh thổ. Đặc điểm này gây ra các bất lợi sau:
+ Thiết kế có thể thay đổi theo yêu cầu của chủ đầu tư về công năng hoặc trình độ kỹ thuật, về vật liệu.
Ngoài ra thiết kế có thể phải thay đổi cho phù hợp với thực tế phát sinh ở công trường.
+ Các phương án công nghệ và tổ chức xây dựng phải luôn luôn biến đổi phù hợp với thời gian và địa
điểm xây dựng, gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, cải thiện điều kiện làm việc và nảy sinh nhiều
chi phí cho vấn đề di chuyển lực lượng sản xuất, cho xây dựng công trình tạm phục vụ thi công.
+ Địa điểm xây dựng công trình luôn thay đổi nên phương pháp tổ chức sản xuất và biện pháp kỹ thuật
cũng phải thay đổi cho phù hợp.

- Thời gian xây dựng công trình dài, chỉ phí sản xuất sản phẩm lớn:
+ Vốn đầu tư xây dựng của chủ đầu tư và vốn sản xuất của các doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ
đọng lâu trong công trình.
+ Doanh nghiệp xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như rủi ro về điều kiện tự
nhiên, khí hậu, thời tiết; các rủi ro thanh toán, biến động giá cả; các rủi ro về an ninh, an toàn, …
Tổ chức sản xuất phức tạp: Quá trình sản xuất xây dựng mang tính tổng hợp, cơ cấu sản xuất phức tạp,
các công việc xen kẽ và có ảnh hưởng lẫn nhau, có thể có nhiều đơn vị cùng tham gia thi công công
trình. Do đó, công tác tổ chức quản lý sản xuất trên công trường rất phức tạp, biến động, gặp nhiều
khó khăn, đặc biệt khi phải phối hợp hoạt động của các nhóm làm việc khác nhau trên cùng một diện
công tác.
Sản xuất xây dựng tiến hành ngoài trời: Sản xuất xây dựng thường được tiến hành ngoài trời nên chịu
ảnh hưởng nhiều của điều kiện thiên nhiên tới các hoạt động lao động. Các doanh nghiệp xây lắp khó
lường trước những khó khăn phát sinh do điều kiện thời tiết, khí hậu. Ngoài ra, sản xuất xây dựng là
lao động nặng nhọc, làm việc trên cao, dễ mất an toàn lao động và phát sinh bệnh nghề nghiệp.
Sản xuất theo đơn đặt hàng: Sản xuất xây dựng thường theo đơn đặt hàng và thường là các sản phẩm
xây dựng được sản xuất đơn chiếc. Đặc điểm này dẫn đến:
+ Sản xuất xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng thường có tính bị động và rủi ro do phụ thuộc
vào kết quả’đấu thầu.
+ Việc tiêu chuẩn hoá, định hình hoá các mẫu sản phẩm và công nghệ chế tạo sản phẩm xây dựng gặp
nhiểu khó khăn.
+ Giá cả của sản phẩm xây dựng thường không thống nhất và phải được xác định trước khi sản phẩm
ra đời (theo phương pháp dự toán) trong hợp đồng giao nhận thầu hoặc đấu thầu. Doanh nghiệp xây
dựng phải coi trọng công tác ký kết hợp đồng, tìm hiểu kỹ đặc điểm và yêu cầu kỹ thuật, đặc điểm
kinh tế – xã hội của địa phương để có các biện pháp kỹ thuật thích hợp, quản lý hợp lý nhằm đảm bảo
chất lượng, thời hạn và hiệu quả kinh tế.

12


1.1.2 Các tiêu chí đánh giá chất lượng xây dựng công trình [2]


Một là, đánh giá dưới góc độ của Luật Xây dựng “ Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo
thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết
định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên
mặt nước, được xây dựng theo thiết kế ”. Với góc độ này thì chất lượng công trình phụ thuộc vào năng
lực của những nguời tham gia xây dựng công trình (lập dự án đầu tư xây dựng, thiết kế , khảo sát, thi
công xây dựng, quản lý dự án đầu tư xây dựng và giám sát thi công xây dựng công trình); phụ thuộc
vào chất lượng vật liệu, vật tư và thiết bị lắp đặt vào công trình; phụ thuộc vào chất lượng thi công xây
dựng; phụ thuộc vào chất lượng khảo sát xây dựng và thiết kế xây dựng công trình; và phụ thuộc vào
công tác quản lý chất lượng các khâu trong quá trình lập và thực hiện dự án đầu tư xây dựng công
trình.

Hai là, đánh giá về mức độ an toàn, bền vững của công trình. Theo Luật Xây dựng, thì sự cố công
trình là những hư hỏng vượt quá giới hạn an toàn cho phép làm cho công trình có nguy cơ sập đổ, đã
sập đổ một phần hoặc toàn bộ công trình hoặc công trình không sử dụng được theo thiết kế. Theo đó,
có 4 loại sự cố bao gồm sự cố sập đổ, sự cố về biến dạng, sự cố sai lệch vị trí và sự cố về công năng;
về cấp độ có cấp I, II, III và cấp IV tùy thuộc vào mức độ hư hỏng công trình và thiệt hại về người.
Chính vì vậy mà mức độ an toàn, bền vững của công trình là điều cần phải được xem xét chặt chẽ và
nghiêm túc.

Ba là, đánh giá sự đáp ứng của công trình với các quy định về quy chuẩn xây dựng và các tiêu chuẩn
kỹ thuật xây dựng được phép áp dụng cho riêng dự án đã nêu trong hợp đồng xây dựng. Theo Luật
Tiêu chuẩn và Quy chuẩn thì “Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp
dụng”, do đó tại điểm e khoản 2 Điều 8 Nghị định 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về
quản lý dự án đầu tư xây dựng đã quy định trong phần thuyết minh thiết kế cơ sở phải nêu ”Danh mục
các quy chuẩn, tiêu chuẩn chủ yếu được áp dụng”. Theo quy định khoản 8 Điều 2 Nghị định số
48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng thì chủ đầu tư
hoặc tư vấn của chủ đầu tư dựa vào danh mục các quy chuẩn, tiêu chuẩn được Người quyết định đầu
tư cho phép áp dụng để biên soạn tiêu chuẩn áp dụng cho dự án đầu tư xây dựng công trình cụ thể bao
gồm các quy định về kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật, trình tự thực hiện các công việc, các chỉ

tiêu, các chỉ số kỹ thuật và các chỉ số về điều kiện tự nhiên.

Bốn là, đánh giá về mỹ thuật của công trình xây dựng. Ngoài yêu cầu về độ an toàn và bền vững thì
yêu cầu mỹ thuật đối với công trình xây dựng không thể xem nhẹ. Công trình xây dựng trường tồn với
thời gian, nếu chất lượng mỹ thuật không đảm bảo thì chủ đầu tư không được thụ hưởng công trình
đẹp và không đóng góp cảnh quan đẹp cho xã hội. Công trình xây dựng phải thể hiện được tính sáng
tạo độc đáo, bố cục hiện đại nhuần nhuyễn với truyền thống, tránh sao chép, lặp lại, đơn điệu trong
nghệ thuật kiến trúc.
Tóm lại, chất lượng công trình xây dựng phải được đánh giá về độ an toàn, bền vững, kỹ thuật và mỹ
thuật phù hợp với Quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng, các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan và hợp đồng giao nhận thầu xây dựng.

13


1.2 Quản lý chất lượng xây dựng công trình
1.2.1 Khái niệm về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Quản lý chất lượng công trình xây dựng là tập hợp các hoạt động, từ đó đề ra các yêu cầu, quy định và
thực hiện các yêu cầu và quy định đó bằng biện pháp như kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng,
cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ thống pháp luật để đảm bảo chất lượng một công trình. Hoạt
động Quản lý chất lượng công trình xây dựng chủ yếu là công tác giám sát và tự giám sát của chủ đầu
tư với các bên liên quan. Nói cách khác Quản lý chất lượng công trình xây dựng là tập hợp các hoạt
động của cơ quan đơn vị chức năng quản lý thông qua kiểm tra, đảm bảo chất lượng, cải tiến chất
lượng trong các giai đoạn của dự án.

1.2.2 Vai trò của quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Công tác quản lý chất lượng các công trình xây dựng có vai trò to lớn đối với nhà thầu, chủ đầu tư và
các doanh nghiệp xây dựng nói chung, vai trò đó được thể hiện cụ thể là:
Đối với nhà thầu, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình xây dựng sẽ tiết kiệm nguyên vật
liệu, nhân công, máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động. Nâng cao chất lượng công trình xây dựng

là tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng tới tăng năng suất lao động, thực hiện tiến bộ khoa học công
nghệ đối với nhà thầu.
Đối với chủ đầu tư, đảm bảo và nâng cao chất lượng sẽ thỏa mãn được các yêu cầu của chủ đầu tư, tiết
kiệm được vốn và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Đảm bảo và nâng cao chất lượng tạo lòng
tin, sự ủng hộ của chủ đầu tư với nhà thầu, góp phần phát triển mối quan hệ hợp tác lâu dài.
Quản lý chất lượng công trình xây dựng là yếu tố quan trọng, quyết định sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp xây dựng.

1.2.3 Phương thức quản lý nhà nước về chất lượng công trình [3]
Về bản chất của hoạt động giám sát quản lý nhà nước là theo chiều rộng có tính vĩ mô, tính cưỡng chế
Quản
lý NN
của cơ quan công quyền. Phương
thức
quảnvềlýchất
nhà lượng
nước về chất lượng công trình xây dựng được mô
công
trình
xây
dựng
tả ở sơ đồ sau:

Văn bản
QPPL

Văn bản
QPKT

Hệ thống

tổ chức

Hướng dẫn
và kiểm tra

Thoả mãn nhu cầu của khách hàng
Quá trình tạo ra sản phẩm

Nhu cầu
của
khách
hàng
14

Quá trình hỗ trợ để tạo ra sản phẩm có chất lượng


Hình 1-11.2 Sơ đồ phương thức quản lý nhà nước về chất lượng công trình xây dựng

Trong sơ đồ trên, nội dung hoạt động QLNN lĩnh vực này gồm 4 phần chủ yếu:
+ Thiết lập và tham gia thiết lập hệ thống văn bản pháp lý và chính sách.
+ Tổ chức phổ biến, hướng dẫn cho các chủ thể thực hiện theo các văn bản pháp lý và chính
sách.
+ Tổ chức kiểm tra giám sát các chủ thể thực hiện công tác QLCLCTXD theo pháp luật.
+ Tổng hợp báo cáo tình hình chất lượng công trình xây dựng.

1.3 Thực trạng công tác quản lý chất lượng xây dựng công trình trong thời gian
qua ở Việt Nam
1.3.1 Quản lý nhà nước về chất lượng công trình xây dựng
Chất lượng công trình xây dựng là vấn đề hết sức quan trọng, nó có tác động trực tiếp đến hiệu quả

kinh tế, đời sống của con người và sự phát triển bền vững. Đặc biệt ở nước ta vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân chiếm tỷ trọng rất lớn trong thu nhập quốc dân, cả nước là một
công trình xây dựng. Vì vậy để tăng cường quản lý dự án, chất lượng công trình xây dựng, các cơ quan
quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương đã có những biện pháp như:
- Ban hành các văn bản pháp quy như Luật, Nghị định, Thông tư, các tiêu chuẩn, quy phạm xây dựng
nhằm tạo ra môi trường pháp lý cho việc tổ chức thực hiện quản lý chất lượng công trình xây dựng.
- Đề ra các chủ trương chính sách khuyến khích đầu tư thiết bị hiện đại, sản xuất vật liệu mới, nghiên
cứu và ứng dụng thành tựu khoa học trong xây dựng, đào tạo cán bộ, công nhân nhằm nâng cao năng
lực đáp ứng yêu cầu quản lý đầu tư xây dựng nói chung và quản lý chất lượng công trình xây dựng nói
riêng.
- Tăng cường quản lý chất lượng thông qua các tổ chức chuyên lo về chất lượng tại các Hội đồng
nghiệm thu các cấp, các cục giám định chất lượng, phòng giám định.
- Có chính sách khuyến khích các đơn vị, tổ chức thực hiện theo tiêu chuẩn ISO 9001 - 2000, tuyên
dương các đơn vị đăng ký và đạt công trình huy chương vàng chất lượng cao của ngành, công trình
chất lượng tiêu biểu của liên ngành.
Phải thấy rằng với những văn bản pháp quy, các chủ trương chính sách, biện pháp quản lý đó về cơ
bản đã đủ điều kiện để tổ chức quản lý chất lượng công trình xây dựng. Chỉ cần các tổ chức từ cơ quan
cấp trên chủ đầu tư, chủ đầu tư, ban quản lý, các nhà thầu (khảo sát, tư vấn lập dự án đầu tư, xây lắp)
thực hiện đầy đủ các chức năng của mình một cách có trách nhiệm theo đúng trình tự quản lý, quy
phạm nghiệm thu công trình xây dựng.
Tuy nhiên trong quá trình áp dụng các văn bản pháp quy vào thực tế còn nhiều vấn đề phải sửa đổi bổ

15


sung nhằm tăng cường công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng như:
1.1a) Những quy định về việc đảm bảo chất lượng công trình xây dựng trong Luật Đấu thầu còn thiếu
cụ thể và chưa cân đối giữa yếu tố chất lượng và giá dự thầu. Đó là những quy định có liên quan đến
đánh giá năng lực nhà thầu, quy định về chất lượng công trình hồ sơ mời thầu. Đặc biệt là quy định
việc lựa chọn đơn vị trúng thầu chủ yếu lại căn cứ vào giá dự tầu thấp nhất mà chưa tính một cách đầy

đủ đến yếu tố đảm bảo chất lượng đến hiệu quả đầu tư cả vòng đời dự án.
1.2b) Những quy định chế tài xử lý, phân rõ trách nhiệm của các tổ chức cá nhân trong quản lý chất
lượng còn thiếu cụ thể. Chế tài chưa đủ mạnh để răn đe phòng ngừa:
- Đối với giai đoạn lập dự án, thiết kế, khảo sát đó là những quy định chế tài đối với chủ đầu tư khi vi
phạm trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng, đối với các nhà thầu khảo sát, thiết kế, thẩm định là những quy
định chế tài khi họ vi phạm các quy định về quản lý chất lượng.
- Đối với giai đoạn xây dựng đó là những điều quy định chế tài đối với các chủ thể về quản lý chất
lượng trong quá trình đấu thầu, xây dựng bảo hành, bảo trì.
Cần có chế tài cụ thể vi phạm điều nào, điểm nào thì xử lý thế nào? Phạt bao nhiêu tiền, bao nhiêu %
giá trị hợp đồng, đưa vào danh sách “đen”, cấm có thời hạn, vi phạm thế nào thì thu hồi giấy phép kinh
doanh, gây hậu quả mức nào thì truy cứu trách nhiệm hình sự…
1.3c) Các hoạt động về xây dựng có ảnh hưởng trực tiếp đến con người, môi trường, đến tài sản. Các
doanh nghiệp hoạt động xây dựng phải là các doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện. Vì vậy cần phải
ban hành các quy định về năng lực của tổ chức này với các quy định trong giấy phép kinh doanh phù
hợp với từng cấp công trình (ở Trung Quốc doanh nghiệp xây lắp chia là 4 cấp, tư vấn 3 cấp do Nhà
nước cấp chứng chỉ hoạt động xây dựng).
1.4d) Về công tác đào tạo còn mất cân đối giữa thầy và thợ, đặc biệt là đội ngũ đốc công, thợ cả. Công
tác đào tạo cán bộ quản lý dự án, chủ đầu tư chưa được coi trọng, nhiều chủ đầu tư, ban quản lý dự án
làm trái ngành trái nghề, không đủ trình độ năng lực lại không được đào tạo kiến thức quản lý dự án.
1.5e) Công tác thanh tra, kiểm tra xây dựng, quản lý chất lượng xây dựng còn chưa được coi trọng
đúng mức và hoạt động còn hạn chế, thiếu một mạng lưới kiểm định chất lượng xây dựng trong phạm
vi cả nước, đặc biệt là nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức này còn hạn chế.

1.3.2 Quản lý chất lượng công trình xây dựng của các chủ thể trực tiếp tham gia
xây dựng công trình
Chủ đầu tư, tổ chức tư vấn (giám sát, thiết kế, khảo sát, thẩm định), nhà thầu xây lắp là 3 chủ thể trực
tiếp quản lý chất lượng công trình xây dựng. Thực tế đã chứng minh rằng dự án, công trình nào mà 3
chủ thể này có đủ trình độ năng lực quản lý, thực hiện đầy đủ các quy định hiện này của nhà nước tổ
chức triển khai thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý chất lượng trong các hợp đồng kinh tế, đặc
biệt trong trường hợp các tổ chức này độc lập, chuyên nghiệp thì tại đó công tác quản lý chất lượng tốt

và hiệu quả.

1.1.1.4 Chủ đầu tư - Ban quản lý
Chủ đầu tư là người chủ động vốn bỏ ra để đặt hàng công trình xây dựng, họ là người chủ đưa ra các
yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo chất lượng cho các nhà thầu trong quá trình lập dự án, khảo sát, thiết kế,
đến giai đoạn thi công xây lắp vận hành bảo trì, vì vậy họ là chủ thể quan trọng nhất quyết định chất

16


lượng công trình xây dựng.
Đối với chủ đầu tư là vốn của tư nhân, của nước ngoài (nhà tư bản) đồng tiền bỏ ra từ túi tiền riêng của
họ nên việc quản lý dự án nói chung cũng như quản lý chất lượng nói riêng của cả quá trình được hết
sức quan tâm, từ quá trình thẩm định, duyệt hồ sơ thiết kế đến cả giai đoạn thi công xây lắp, bảo trì.
Trừ công trình nhỏ lẻ họ tự quản lý còn đa số các dự án họ đều thuê tổ chức tư vấn chuyên nghiệp thực
hiện quản lý chất lượng công trình thông qua các hình thức: Tổ chức tư vấn quản lý dự án, tổ chức tư
vấn giám sát độc lập để kiểm tra chất lượng công trình suốt vòng đời của dự án.
Trường hợp vốn đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước thì chủ đầu tư là ai? Các chủ đầu tư hiện nay không
phải là chủ đồng tiền vốn đầu tư, thực chất chủ đầu tư được Nhà nước uỷ nhiệm để quản lý vốn đầu tư
xây dựng, họ không phải chủ đầu tư “thực sự”, được thành lập thông qua quyết định hành chính.Thực
trạng hiện nay nhiều chủ đầu tư không có đủ năng lực, trình độ, thiếu hiểu biết về chuyên môn xây
dựng, nhiều trường hợp làm kiêm nhiệm, vì vậy công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng còn
rất hạn chế.
Vì vậy nhiều ý kiến đề nghị nghiên cứu việc tách chức năng chủ đầu tư là ông chủ đồng vốn nhà nước
đồng thời là người trực tiếp quản lý sử dụng công trình với tư vấn quản lý dự án (là đơn vị làm thuê)
thông qua hợp đồng kinh tế. Tổ chức tư vấn quản lý dự án, tư vấn giám sát là tổ chức chuyên nghiệp,
độc lập (trừ các dự án có quy mô nhỏ, đơn giản).

1.1.1.5 Tổ chức tư vấn lập dự án, khảo sát, thiết kế
Với tốc độ tăng nhanh của vốn đầu tư xây dựng hàng năm, hàng vạn dự án vốn của nhà nước và của

các thành phần kinh tế, của nhân dân được triển khai xây dựng, do vậy các đơn vị tư vấn lập dự án,
khảo sát, thiết kế tăng rất nhanh, lên đến hàng nghìn đơn vị. Bên cạnh một số các đơn vị tư vấn, khảo
sát thiết kế truyền thống lâu năm, có đủ năng lực trình độ, uy tín, còn nhiều tổ chức tư vấn khảo sát
thiết kế năng lực trình độ còn hạn chế, thiếu hệ thống quản lý chất lượng nội bộ. Mặt khác kinh phí
cho công việc này còn thấp, dẫn đến chất lượng của công tác lập dự án, khảo sát, thiết kế chưa cao,
còn nhiều sai sót.
- Đối với giai đoạn lập dự án:
Khảo sát chưa kỹ, lập dự án theo chủ quan của chủ đầu tư. Phương án kỹ thuật khảo sát địa chất không
phù hợp về vị trí, số lỗ khoan và chiều sâu khoan.
Công tác lập dự án và quy hoạch còn yếu, tư vấn chưa có tầm nhìn tổng thể, dài hạn nên các dự án
luôn bị rơi vào tình trạng phải điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện
Khâu thẩm định dư án chưa được coi trọng. Các ngành tham gia còn hình thức, trình độ năng lực của
cán bộ thẩm định còn hạn chế.
- Đối với lĩnh vực khảo sát, thiết kế:
Khảo sát phục vụ thiết kế còn sơ sài, thiếu độ tin cậy. Có những công trình kết quả khảo sát không
chính xác, dẫn đến việc tăng chi phí đầu tư cho công trình. Các đơn vị tư vấn chưa cập nhật quy chuẩn,
tiêu chuẩn liên quan đến khảo sát, sử dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn đã hết hiệu lực hoặc lạc hậu.
Có nhiều tồn tại như kết cấu không an toàn về chịu lực, kết cấu quá an toàn gây lãng phí, không an
toàn khi sử dụng, không tính toán kết cấu, tính toán không chính xác, áp dụng sai quy chuẩn, tiêu
chuẩn.

17


Chất lượng thiết kế kiến trúc cũng có nhiều vấn đề, nhiều công trình không được nghiên cứu về hình
thái kiến trúc, mặt bằng, công năng sử dụng và những chi tiết trang trí.
- Công tác thẩm định của các cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều sơ sài, mang nhiều tính hình thức.
Kết quả thẩm định chưa thực sự chặt chẽ vơi các đồ án thiết kế vừa và nhỏ.

1.1.1.6 Tổ chức tư vấn giám sát (của chủ đầu tư hoặc thuê tổ chức tư vấn giám sát

độc lập)
Là người thay mặt cho chủ đầu tư trực tiếp giám sát, nghiệm thu các công việc trong suốt quá trình
xây dựng thông qua việc kiểm tra công việc hàng ngày, ký các biên bản nghiệm thu từng phần, từng bộ
phận công trình.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới thường sử dụng tổ chức tư vấn giám sát chuyên nghiệp, độc
lập. Các cán bộ làm vịêc trong tổ chức tư vấn giám sát này thường là những cán bộ có năng lực, trình
độ, kinh nghiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp, lương khá cao. Do vậy việc thực hiện việc giám sát chất
lượng rất chặt chẽ, bài bản.
Đối với công trình trong nước là công trình trọng điểm, quan trọng có đơn vị tư vấn giám sát độc lập,
có đủ năng lực và uy tín thì ở đó việc quản lý chất lượng chắc chắn sẽ tốt hơn.
Tuy nhiên, do tốc độ phát triển xây dựng rất nhanh, lớn trong khi chưa có các công ty tư vấn giám sát
chuyên nghiệp, tình trạng chung là các công ty tư vấn thiết kế mới bổ sung thêm nhiệm vụ này, đã thế
lực lượng cán bộ tư vấn giám sát thiếu và yếu, trình độ năng lực, kinh nghiệm thi công còn rất hạn chế,
ít được bồi dưỡng cập nhật nâng cao trình độ về kỹ năng giám sát, về công nghệ mới, chế độ đãi nghộ
hạn chế, do phí quản lý giám sát còn thấp nên hạn chế đến công tác quản lý tổ chức tư vấn giám sát.

1.1.1.7 Nhà thầu thi công xây lắp
Đây là chủ thể quan trọng, quyết định đến việc quản lý và đảm bảo chất lượng thi công công trình xây
dựng.
Thời gian qua các nhà thầu trong nước đã phát triển rất nhanh cả về số lượng và chất lượng. Nhận rõ
tầm quan trọng của công tác quản lý chất lượng và thương hiệu, là uy tín của đơn vị mình, là vấn đề
sống còn trong cơ chế thị trường, nên nhiều Tổng Công ty, công ty đã xây dựng hệ thống quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, thời gian qua lại có không ít công trình thi công không đảm bảo chất lượng gây lún sụt, sập
đổ nhiều công trình thấm, dột, bong bộp, nứt vỡ, xuống cấp rất nhanh mà nguyên nhân của nó là:
- Còn khá nhiều nhà thầu không thực hiện nghiêm những quy định hiện hành của Nhà nước là phải có
hệ thống quản lý chất lượng theo yêu cầu, tính chất quy mô công trình xây dựng, trong đó quy định rõ
trách nhiệm của từng cá nhân đồng thời mọi công việc phải được nghiệm thu nội bộ trước khi mời
giám sát nghiệm thu ký biên bản. Trong thực tế nhiều đơn vị không thực hiện các quy định này; không
bố trí đủ cán bộ giám sát nội bộ, thậm chí còn khoán trắng cho các đội thi công và phó mặc cho giám

sát của chủ đầu tư.
- Một điều rất quan trọng đối với các nhà thầu là việc lập biện pháp tổ chức thi công công trình, đặc
bệit đối với các công trình lớn, trọng điểm, nhiều công việc có khối lượng lớn, phức tạp, ứng dụng
nhiều công nghệ mới, nếu làm tốt công việc này thì đã bảo đảm phần rất quan trọng để quản lý chất
lượng công trình. Rất tiếc rằng thời gian qua công việc này chưa được các nhà thầu quan tâm đúng

18


mức dẫn đến các sai phạm, sự cố công trình.
- Nhiều đơn vị đã xây dựng và được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9001 – 2000 nhưng khi triển khai
vẫn còn hình thức, chủ yếu là ở văn phòng côn ty mà thiếu lực lượng cũng như tổ chức thực hiện tại
hiện trường xây dựng.
- Đội ngũ cán bộ, công nhân của các nhà thầu tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng còn chưa đáp
ứng, thiếu cán bộ giỏi có kinh nghiệm quản lý, đặc biệt thiếu các đốc công giỏi, thợ đầu đàn. Nhiều
đơn vị sử dụng công nhân không qua đào tạo, công nhân tự do, công nhân thời vụ, đã thế việc tổ chức
hướng dẫn huấn luyện công nhân tại chỗ rất sơ sài. Việc tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ
và công nhân rất nhiều hạn chế.
- Một số nhà thầu, do những nguyên nhân khác nhau, đã hạ giá thầu một cách thiếu căn cứ để có công
trình hoặc do phải “chi” nhiều khoản ngoài chế độ (tiêu cực) cho đối tác hoặc bản thân dính tiêu cực,
tư túi cá nhân… nên đã tìm cách “hạ chất lượng sản phẩm” để bù đắp.

1.1.1.8 Thực trạng công tác quản lý chất lượng công trình trong giai đoạn bảo trì
Công tác bảo trì công trình qua các công đoạn duy tu, sửa chữa nhỏ, sửa chữa vừa và lớn nhằm đảm
bảo chất ượng công trình trong giai đoạn sử dụng đến hết niên hạn hoặc kéo dài niên hạn sử dụng. Đó
là công việc có ý nghĩa rất lớn.
Hiện nay công tác này được thực hiện chủ yếu ở các công trình giao thông, đập lớn, một số công trình
công nghiệp, do đó đã kịp thời sửa chữa các khuyết tật. Công việc duy tu, sửa chữa định kỳ đã được
thực hiện bởi các lực lượng chuyên nghiệp nhằm bảo vệ gìn giữ công trình có được chất lượng sử
dụng tốt nhất đảm bảo sử công trình đúng niên hạn tuổi thọ theo thiết kế. Nhiều nhà khoa học đã tổng

kết: Đầu tư 1 đồng vốn cho bảo trì, kết quả bằng 5 đồng vốn cho đầu tư mới. Vì vậy việc bố trí kế
hoạch, vốn cho công tác bảo trì có ý nghĩa rất lớn.
Tuy nhiên công tác bảo trì còn chưa được coi trọng đúng mức, nhiều công trình không được bảo
dưỡng, sửa chữa kịp thời đúng thời hạn làm công trình xuống cấp nhanh chóng (thép làm cầu bị rỉ,
dầm bê tông nứt vỡ, lớp bảo vệ bị phá hỏng dẫn đến ăn mòn cốt thép, đê đập bị sụt lở, nhà cửa bị thấm
dột, hư hại thép chịu lực) thậm chí nhiều công trình không có kế hoạch, nguồn vốn để thực hiện duy tu
bảo trì, điển hình là các nhà chung cư, công trình phúc lợi xã hội công cộng (trường học, bệnh viện…)
dẫn đến công trình xuống cấp, tuổi thọ rất ngắn hỏng trước thời hạn, gây lãng phí tiền của rất lớn mà
chẳng ai chịu trách nhiệm.

Kết luận chương 1
Công trình xây dựng là một sản phẩm hàng hoá đặc biệt phục vụ cho sản xuất và các yêunhu cầu của
đời sống con người. Hàng năm vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, của doanh nghiệp, của người dân
dành cho xây dựng rất lớn, chiếm từ 25 - 30% GDP. Vì vậy, chất lượng công trình xây dựng là vấn đề
cần được hết sứcđặc biệt quan tâm để duy trì sự, nó có tác động trực tiếp đến sự phát triển bền vững,
hiệu quả kinh tế, và đời sống của con người.
Trong thời gian qua công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng - yếu tố quan trọng quyết định
đến chất lượng công trình xây dựng - đã có nhiều tiến bộ. Với sự tăng nhanh và trình độ được nâng
cao của đội ngũ cán bộ quản lý, sự lớn mạnh đội ngũ công nhâncán bộ các ngành xây dựng, với việc
sử dụng vật liệu mới có chất lượng cao, việc đầu tư thiết bị thi công hiện đại, sự hợp tác học tập kinh
nghiệm của các nước có nền công nghiệp xây dựng phát triển cùng với việc ban hành các chính sách,

19


các văn bản pháp quy tăng cường công tác quản lý chất lượng xây dựng, chúng ta đã xây dựng được
nhiều công trình xây dựng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng,… góp phần vào hiệu quả tăng
trưởng của nền kinh tế quốc dân; xây dựng hàng chục triệu m 2 nhà ở, hàng vạn trường học, công trình
văn hoá, thể thao,… thiết thực phục vụ và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên bên cạnh những công trình đạt chất lượng tốt, cũng còn không ít các công trình có chất

lượng kém, không đáp ứng yêu cầu sử dụng, công trình nứt, vỡ, lún sụt, thấm dột, bong bộp dộp, khi
đưa vào sử dụng thời gian ngắn đã hư hỏng gây tốn kém, phải sửa chữa, phá đi làm lại. Đã thế nhiều
công trình không tiến hành bảo trì đều đặn hoặc bảo trì không đúng định kỳ làm giảm tuổi thọ công
trình. Cá biệt ở một số công trình đã gâycó sự cố làm thiệt hại rất lớn đến tiền của và tính mạng con
người ,gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư. Vấn đề này chính là vấn đề chủ yếu cần được giải
quyếtnghiên cứu và giải quyết trong luận văn trong các chương 2 và chương 3 khi áp dụng vào chính
địa phương, cơ quan nơi tác giả công tác.

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬNKHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG THI CÔNG CÔNG TRÌNH
2.1 Các cơ sở lý thuyết của quản lý chất lượng thi công xây dựng công trình
2.1.1 Các căn cứ để quản lý chất lượng xây dựng công trình
Tại Việt NamHiện tại, nhà nướcViệt Nam đang quản lý chất lượng công trình xây dựng bằng Luật xây
dựng số 50/2014/QH13, Nghị định số 46/2015/NĐ-CP, Thông tư số 26/2016/TT-BXD. Trong đó, các
nội dung quản lý chất lượng trong quá trình xây dựng được quy định cụ thể như sau:

1.1.1.9 Luật Xây dựng [4]
Đây là văn bản luật có tính pháp lý cao nhất quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân và quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng.
Trong lĩnh vực quản lý chất lượng công trình xây dựng giai đoạn thi công, Luật xây dựng quy định rõ
về quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư trong việc thi công xây dựng công trình, cụ thể như sau:
- Chủ đầu tư có các quyền sau:
+ Tự thực hiện thi công xây dựng công trình khi có đủ năng lực hoạt động thi công xây dựng công
trình phù hợp hoặc lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng;
+ Đàm phán, ký kết hợp đồng thi công xây dựng; giám sát và yêu cầu nhà thầu thi công xây dựng thực
hiện đúng hợp đồng đã ký kết;
+ Đình chỉ thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng với nhà thầu thi công xây dựng theo quy định của pháp
luật và của hợp đồng xây dựng;
+ Dừng thi công xây dựng công trình, yêu cầu nhà thầu thi công xây dựng khắc phục hậu quả khi vi

phạm các quy định về chất lượng công trình, an toàn và bảo vệ môi trường;
+ Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan phối hợp để thực hiện các công việc trong quá trình thi công
xây dựng công trình;

20


+ Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
- Chủ đầu tư có các nghĩa vụ sau:
+ Lựa chọn nhà thầu có đủ điều kiện năng lực hoạt động thi công xây dựng phù họp với loại, cấp công
trình và công việc thi công xây dựng;
+ Phối hợp, tham gia với Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện việc bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt
bằng xây dựng để bàn giao cho nhà thầu thi công xây dựng;
+ Tổ chức giám sát và quản lý chất lượng trong thi công xây dựng phù hợp với hình thức quản lý dự
án, hợp đồng xây dựng;
+ Kiểm tra biện pháp thi công, biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh môi trường;
+ Tổ chức nghiệm thu, thanh toán, quyết toán công trình;
+ Thuê tổ chức tư vấn có đủ năng lực hoạt động xây dựng để kiểm định chất lượng công trình khi cần
thiết;
+ Xem xét, quyết định các đề xuất liên quan đến thiết kế của nhà thầu trong quá trình thi công xây
dựng;
+ Lưu trữ hồ sơ xây dựng công trình;
+ Chịu trách nhiệm về chất lượng, nguồn gốc của vật tư, nguyên liệu, vật liệu, thiết bị, sản phẩm xây
dựng do mình cung cấp sử dụng vào công trình;
+ Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và hành vi vi phạm khác do mình gây ra;
+ Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Một số Điều khoản khác có liên quan trực tiếp đến chủ đầu tư được thể hiện trong Luật xây dựng như:
- Về an toàn trong thi công xây dựng công trình quy định tại Điều 115:
+ Trong quá trình thi công xây dựng, chủ đầu tư, nhà thầu thi công xây dựng có trách nhiệm bảo đảm
an toàn cho cồng trình, người lao động, thiết bị, phương tiện thi công làm việc trên công trường xây

dựng.
+ Chủ đầu tư phải bố trí người có đủ năng lực theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quy định về an
toàn của nhà thầu thi công xây dựng; tạm dừng hoặc đình chỉ thi công khi phát hiện có sự cố gây mất
an toàn công trình, dấu hiệu vi phạm quy định về an toàn; phối hợp với nhà thầu xử lý, khắc phục khi
xảy ra sự cố hoặc tai nạn lao động; thông báo kịp thời với cơ quan chức năng có thẩm quyền khi xảy
ra sự cố công trình, tai nạn lao động gây chết người.
+ Nhà thầu thi công xây dựng phải đề xuất, thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho người, máy,
thiết bị, tài sản, công trình đang xây dựng, công trình ngâm và các công trình liền kề; máy, thiết bị, vật
tư phục vụ thi công có yêu câu nghiêm ngặt về an toàn lao động phải được kiểm định về an toàn trước
khi đưa vào sử dụng.
- Bảo vệ môi trường trong thi công xây đựng công trình quy định tại Điều 116:
Trong quá trình thi công xây dựng công trình, nhà thầu thi công xây dựng có trách nhiệm:

21


+ Lập và thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong quá trình thi công xây dựng bao gồm môi
trường không khí, môi trường nước, chất thải rắn, tiếng ồn và yêu cầu khác theo quy định của pháp
luật về bảo vệ môi trường.
+ Bồi thường thiệt hại do vi phạm về bảo vệ môi trường do mình gây ra.
Và các Điều khoản có liên quan khác.

1.1.1.10Nghị định 46/2015/NĐ-CP của Chính phủ về QLCL công trình xây dựng và
bảo hành, bảo trì công trình [5]
Đây là văn bản dưới luật hết sức quan trọng để hướng dẫn thực hiện Luật trong, gắn liền với công tác
quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Nghị định này hướng dẫn Luật Xây dựng về quản lý chất lượng công trình xây dựng trong công tác
khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng; về bảo trì công trình xây dựng và giải quyết sự cố công trình xây
dựng. Được áp dụng với chủ đầu tư, chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng công trình, nhà thầu trong
nước, nhà thầu nước ngoài, các cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng và các tổ chức, cá nhân khác có

liên quan đến công tác quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng.
Trong Nghị định nêu rõ nguyên tắc chung trong công tác quản lý chất lượng công trình:
Công trình xây dựng phải được kiểm soát chất lượng theo quy định của Nghị định này và pháp luật có
liên quan từ chuẩn bị, thực hiện đầu tư xây dựng đến quản lý, sử dụng công trình nhằm đảm bảo an
toàn cho người, tài sản, thiết bị, công trình và các công trình lân cận.
Hạng mục công trình, công trình xây dựng hoàn thành chỉ được phép đưa vào khai thác, sử dụng sau
khi được nghiệm thu bảo đảm yêu cầu của thiết kế xây dựng, tiêu chuẩn áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật
cho công trình, các yêu cầu của hợp đồng xây dựng và quy định của pháp luật có liên quan.
Nhà thầu khi tham gia hoạt động xây dựng phải có đủ điều kiện năng lực theo quy định, phải có biện
pháp tự quản lý chất lượng các công việc xây dựng do mình thực hiện, Nhà thầu chính hoặc tổng thầu
có trách nhiệm quản lý chất lượng công việc do nhà thầu phụ thực hiện.
Chủ đầu tư có trách nhiệm tổ chức quản lý chất lượng công trình phù hợp với hình thức đầu tư, hình
thức quản lý dự án, hình thức giao thầu, quy mô và nguồn vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư
xây dựng công trình theo quy định của Nghị định này. Chủ đầu tư được quyền tự thực hiện các hoạt
động xây dựng nếu đủ điều kiện năng lực theo quy định của pháp luật.
Cơ quan chuyên môn về xây dựng hướng dẫn, kiểm tra công tác quản lý chất lượng của các tổ chức, cá
nhân tham gia xây dựng công trình; thẩm định thiết kế, kiểm tra công tác nghiệm thu công trình xây
dựng, tổ chức thực hiện giám định chất lượng công trình xây dựng; kiến nghị và xử lý các vi phạm về
chất lượng công trình xây dựng theo quy định của pháp luật.
Các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư xây dựng quy định tại Khoản 3, Khoản 4 và Khoản 5 Điều này
phải chịu trách nhiệm về chất lượng các công việc do mình thực hiện.
Về quản lý chất lượng thi công xây dựng công trình của chủ đầu tư, được thể hiện trong Chương IV
của Nghị dịnh với các Điều khoản như:
Điều 23. Trình tự quản lý chất lượng thi công xây dựng;

22


Điều 24. Quản lý chất lượng đối với vật liệu, sản phẩm, cấu kiện, thiết bị sử dụng cho công trình xây
dựng;

Điều 27. Nghiệm thu công việc xây dựng;
Điều 29. Thí nghiệm đối chứng, kiểm định chất lượng, thí nghiệm khả năng chịu lực của kết cấu công
trình trong quá trỉnh thi công xây dựng;
Điều 30. Nghiệm thu giai đoạn thi công xây dựng hoặc bộ phận công trình xây dựng;
Điều 31. Nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình, công trình xây dựng đưa vào sử dụng;
Điều 33. Lập và lưu trữ hồ sơ hoàn thành công trình xây dựng;
Điều 34. Bàn giao hạng mục công trình, công trình xây dựng;
Và các Điều khoản liên quan khác.

1.1.1.11 Thông tư số 26/2016/TT-BXD của Bộ Xây Dựng về QLCL và bảo trì công
trình xây dựng [6].
Thông tư số 26/2016/TT-BXD ngày 26/10/2016 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết một số nội dung
về Quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng.
Thông tư sẽ làm rõ các nội dung của Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 25/7/2015 của Chính phủ về
quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng, tạo điều kiện để các chủ thể tham gia đầu tư xây
dựng công trình, các cơ quan chuyên môn về xây dựng quản lý chất lượng công trình theo quy định
của pháp luật nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng các công trình xây dựng.
Nội dung của Thông tư số 26/2016/TT-BXD nêu rõ trách nhiệm giữa các chủ thể có liên quan về quản
lý chất lượng công trình xây dựng, đầu tư theo hình thức đối tác công tư… Đặc biệt là mối quan hệ
giữa chủ đầu tư và các nhà thầu.
Quy định về kiểm tra công tác nghiệm thu trong quá trình thi công xây dựng và khi hoàn thành
hạng mục công trình, công trình xây dựng đưa vào sử dụng, chi phí thực hiện kiểm tra của cơ
quan chuyên môn về xây dựng. Quy định chế độ giám sát thi công xây dựng công trình và nội
dung thực hiện giám sát thi công xây dựng.
Bên cạnh đó, Thông tư số 26/2016/TT-BXD còn quy định về bảo trì công trình; công trình, bộ
phận công trình bắt buộc phải quan trắc trong quá trình khai thác, sử dụng; quy định đánh giá
an toàn chịu lực và an toàn vận hành công trình trong quá trình khai thác, sử dụng.
Ngoài ra, Thông tư cũng quy định chi tiết về trình tự thực hiện và chi phí của công tác kiểm định
xây dựng, giám định xây dựng; về nhật ký thi công, biên bản nghiệm thu, lập và lưu trữ hồ sơ
hoàn thành công trình…


1.1.1.12Các văn bản pháp luật hiện hành khác
- Luật đấu thầu số số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013;.
- Luật đất đai số 45/2013/QH11 ngày 29/11/2013;.
- Luật đầu tư số: 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014;

23


- Nghị định số 59/2015/NĐ-CP, ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình;.
- Nghị định 32/2015/NĐ-CP, ngày 25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng
công trình;.
- Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/04/2015 của Chính phủ: Qui định chi tiết về hợp đồng
xây dựng;.
- Nghị định số 44/2015/NĐ-CP ngày 22/04/2015 của Chính phủ: Qui định chi tiết một số nội dung
về quy hoạch xây dựng;.
- Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/06/2014 của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành mốt
số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu;.
- Quyết định số 957/QĐ-BXD ngày 29/9/2009 của Bộ Xây dựng về việc công bố định mức chi phí
quản lý dự án và tư vấn đầu tư XDCT;.
- Thông tư số 06/2016/TT-BXD ngày 10/3/2016 của Bộ Xây dựng về xác định và quản lý chi phí
đầu tư xây dựng;.
- Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/05/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Quy định chi
tiết lập Hồ sơ mời thầu xây lắp.

2.1.2 Mô hình lý thuyết để Quản lý chất lượng thi công xây dựng công trình [7]
Mô hình quản lý: giám sát - quản lý chất lượng độc lập trong thi công xây dựng:
Chế độ giám sát - quản lý xây dựng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá và phân công xã hội hoá cao
độ. Chế độ này đã được thực hiện ở trên thế giới hàng trăm năm và được nhiều nước, đặc biệt là các

nước tư bản chủ nghĩa phát triển tôn sùng. Mô hình quản lý này thực sự là một sản phẩm khoa học và
nó hữu ích cho mọi quốc gia.
Các đơn vị đảm nhận nhiệm vụ là các tổ chức tư vấn tập hợp các chuyên gia có trình độ cao về chuyên
môn được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý. Họ đứng ở vị thế tương đối độc lập và căn cứ làm
việc là pháp luật và tiêu chuẩn kỹ thuật, những quy định liên quan của nhà nước về đầu tư và xây
dựng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ đầu tư và nhà thầu xây lắp.
- Chủ đầu tư là chủ thể duy nhất, có trách nhiệm quản lý chất lượng công trình. Phải có tổ chức tư vấn
chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá (của mình hoặc phải thuê) để giám sát quản lý tiến độ, khối
lượng và chất lượng xây lắp. Tư vấn giám sát là đại diện có quyền lực của chủ đầu tư để quyết định
các vấn đề kỹ thuật. Là người có trách nhiệm yêu cầu nhà thầu thực hiện đúng thiết kế, đồng thời có
nghĩa vụ phát hiện giúp chủ đầu tư những thiếu sót (nếu có) của thiết kế. Sự xuất hiện của tư vấn giám
sát quản lý như là một chế độ bắt buộc trong lĩnh vực QLCLCTXD ỏ nước ta.

24


Hình 2-32.4 Quan hệ giữa kỹ sư giám sát với các bên trong quá trình thi công xây
dựng công trình
A . Chủ công trình ;

B . Thi công ;

C.Thiết kế ;

D. Giám sát

1. Quan hệ hợp đồng ; 2. Quan hệ quản lý hợp đồng ; 3. Quan hệ quản lý một phần hợp đồng; 4.
Quan hệ thông báo tin tức .
- Chủ đầu tư là chủ thể duy nhất, có trách nhiệm quản lý chất lượng công trình. Phải có tổ chức tư vấn
chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá (của mình hoặc phải thuê) để giám sát quản lý tiến độ, khối

lượng và chất lượng xây lắp. Tư vấn giám sát là đại diện có quyền lực của chủ đầu tư để quyết định
các vấn đề kỹ thuật. Là người có trách nhiệm yêu cầu nhà thầu thực hiện đúng thiết kế, đồng thời có
nghĩa vụ phát hiện giúp chủ đầu tư những thiếu sót (nếu có) của thiết kế. Sự xuất hiện của tư vấn giám
sát quản lý như là một chế độ bắt buộc trong lĩnh vực QLCLCTXD ỏ nước ta.
- Về phía nhà thầu phải tự xây dựng kế hoạch chất lượng trong đó có tổ chức tư vấn của nhà thầu để
tự giám sát chất lượng thi công. Họ phải kiểm tra chất lượng vật liệu, chất lượng sản phẩm. Chỉ khi
nào nhà thầu khẳng định chất lượng thi công đảm bảo theo thiết kế và tiêu chuẩn kỹ thuật thì mới yêu
cầu được nghiệm thu. Như vậy nhà thầu là người chịu trách nhiệm chính và trước tiên về chất lượng
công việc mình hoàn thành. Yêu cầu của quy định mới về QLCLCTXD đòi hỏi nhà thầu phải tổ chức
lại để quản lý tốt hơn về chất lượng tránh mọi rủi ro xảy ra để không bị chi phí đền bù, không gây
những thiệt hại sinh mạng và giữ được uy tín cho đơn vị.
- Đối với đơn vị thiết kế thể hiện sự tôn trọng tác quyền nhưng cũng đòi hỏi trách nhiệm của các nhà
thiết kế về chất lượng sản phẩm trên giấy của mình đang được hình thành bằng vật chất trong thực
tiễn. Tư vấn thiết kế có nghĩa vụ giải thích cho nhà thầu các chi tiết không được mô tả hết. Phải có
trách nhiệm xác nhận sự đúng đắn giữa thiết kế và trong thực tiễn. Tất nhiên yêu cầu về sự giám sát
tác giả là không thường xuyên nhưng được quy định phải có khi chủ đầu tư tổ chức nghiệm thu giai
đoạn, nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng.
* Tổ chức giám sát và nghiệm thu công tác thi công xây lắp
Công tác QLCL giai đoạn xây lắp thể hiện thông qua công tác nghiệm thu mà ở đây có 3 bước chủ
yếu:

25


×