Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận cao học vấn đề quản lý nhà nước về báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.65 KB, 21 trang )

Tiểu Luận Kết Thúc Môn
Đề Bài : Vấn đề quản lý nhà nước về
báo chí- nội dung, phương thức, vấn đề
đặt ra?


MỤC LỤC
I.

LỜI NÓI ĐẦU

II.

KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ

III. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN
LÍ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ.


Khái niệm quản lí nhà nước đối với báo chí :



Các nguyên tắc quản lí nhà nước đối với báo chí

IV. NHÀ NƯỚC QUẢN LÍ VỀ BÁO CHÍ
V.

NỘI DUNG QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỚI BÁO CHÍ

VI. VẤN ĐỀ ĐẶT RA


VII. KẾT LUẬN


LỜI NÓI ĐẦU
Báo chí tác động từng ngày, từng giờ đến đời sống xã hội. Vì
vậy, mọi chế độ chính trị đều có chủ trương và biện pháp quản lý báo chí
theo hướng có lợi nhất cho mình. Ở nước ta, mục tiêu cao nhất của báo chí
cách mạng là phục vụ cho sự phát triển của đất n ước và l ợi ích của nhân
dân. Bởi vậy, quản lý nhà nước về báo chí trong từng thời kỳ phát tri ển
của đất nước cũng phải có sự điều chỉnh, thay đổi cho phù h ợp v ới s ự thay
đổi hàng ngày của thực tế đời sống. nền báo chí cách mạng Việt Nam đã
không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan tr ọng. Báo chí
đã bám sát đời sống xã hội, cung cấp nh ững thông tin đa chi ều, sâu s ắc;
tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà n ước hiệu qu ả. Vai
trò của báo chí ngày càng nâng cao trong đời sống xã hội, đặc bi ệt là trong
quá trình đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Nhà n ước ta đã
thể hiện sự cố gắng trong quá trình quản lý hoạt động báo chí phù h ợp
với điều kiện, tình hình mới. Tuy nhiên, khi mà sự phát tri ển không đi cùng
với việc nâng cao năng lực quản lý phù hợp đã làm cho ho ạt đ ộng báo chí
bộc lộ nhiều bất cập, thiếu ổn định. Đó chính là xu hướng th ương mại hóa,
xa rời tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ; nhiều tờ báo chạy theo th ị
hiếu tầm thường, đăng bài ảnh dung tục, thiếu văn hóa, đi ngược lại thuần
phong mỹ tục; nhiều địa phương vì lý do này hoặc lý do khác đã gây c ản
trở hoạt động của phóng viên, cung cấp thông tin sai lệch v.v. Trong khi đó,
dưới góc độ Nhà nước thì các công cụ quản lý v ề báo chí mà ch ủ y ếu là
pháp luật chưa hoàn thiện, không phù hợp với th ực tiễn phát tri ển sinh
động trong lĩnh vực báo chí thời gian gần đây. Tất cả đã đặt ra nhu cầu cần
phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà n ước
cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn. Vậy Vấn đề quản lý nhà nước về
báo chí- nội dung, phương thức, vấn đề đặt ra là gì ?



KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ
Báo chí bao gồm những loại hình khác nhau như: Báo in (còn gọi là Báo
viết), Báo nói (Phát thanh), Báo hình (Truyền hình), Thông tấn, Báo ảnh và Báo
điện tử (Báo trên mạng Internet).
- Hiện nay, báo chí vẫn là phương tiện thông tin đại chúng nhanh nhất ,
hiệu quả nhất và có nhiều công chúng nhất... Báo chí đã tác động mạnh mẽ đến
mọi mặt của đời sống, trở thành một trong những động lực quan trọng cho sự
phát triển của xã hội .
- Báo chí có những cách thức riêng với mục đích nhằm tới nhiều tầng lớp
xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu không giống nhau. Công
chúng báo chí đa dạng và phức tạp. Không phải thông tin nào cũng được số
đông tiếp nhận dễ dàng.
- Thông tin báo chí đề cập đến mọi mặt của đời sống một cách xác thực,
cụ thể, tỷ mỷ. Nó đặc biệt chú ý đến những cái mới (tính thời sự) và việc phản
ánh những cái mới đó dưới một góc nhìn thể hiện lập trường của tác giả. Nói
cách khác, đặc trưng cơ bản của thông tin báo chí được thể hiện ở ba điểm cơ
bản nhất: Tính xác thực, tiêu biểu - Tính thời sự - Tính định hướng trực tiếp.
- Nói về những chức năng của báo chí, người ta thường nhấn mạnh một
số chức năng quan trọng như: thông tin, tuyên truyền, giáo dục, dự báo, giải
trí, giao tiếp ... Trong đó, thông tin là chức năng cơ bản có tầm quan trọng hàng
đầu.
- Trong thực tế, báo và tạp chí có sự phân biệt về chức năng: Báo có
nhiệm vụ thông tin thời sự và bình luận kịp thời về những sự việc, sự kiện, con
người, tình huống, hoàn cảnh tiêu biểu, điển hình mới xuất hiện, vừa nảy sinh
trong đời sống hàng ngày; tạp chí có nhiệm vụ cơ bản là nghiên cứu khoa học
và thông tin những vấn đề chuyên ngành...



KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI BÁO CHÍ.


Khái niệm quản lí nhà nước đối với báo chí :

Quản lý nhà nước là sự chỉ huy,điều hành để thực thi quyền lực nhà nước,
do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến hành để tổ
chức và điều chỉnh các quá trình xã hôi, và hành vi hoạt động của công dân.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin và truyền thông cũng như
bất kỳ dạng quản lý công vụ của bộ máy hành pháp, mang tính quy ền l ực,
tính tổ chức cao, được điều chỉnh bằng pháp luật, vừa mang tính ph ổ bi ến,
vừa mang tính đặc thù quản lý ngành. Nói đến quản lí nhà n ước đ ối v ới
báo chí là nói đến những hoạt động của bộ máy Nhà n ước nh ằm đảm bảo
cho hoạt động báo chí được ổn định và phù h ợp v ới xu th ế phát tri ển
chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong h ệ th ống chính
trị. Quản lí Nhà nước đối với báo chí là tổng th ể nh ững ho ạt đ ộng c ủa b ộ
máy Nhà nước trên cơ sở những quy định của pháp luật đảm bảo cho báo
chí thực hiện được nhiệ vụ thông tin của mình và chịu sự đi ều ch ỉnh
thống nhất của pháp luật.
Hay nói cách khác quản lí Nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng nh ư
bất kì một dạng quản lí xã hội nào khác , là dạng quản lí công v ụ qu ốc gia
của bộ máy Nhà nước- là công việc của bộ máy hành pháp . Nó là s ự tác
động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên c ơ s ở quy ền l ực
Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí do c ơ quan có
thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành
để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước , phát triển các mối
quan hệ xã hội , thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân.



Các nguyên tắc quản lí nhà nước đối với báo chí :

Các hoạt động báo chí xét trên hình diện chung có ảnh hưởng rất lớn
đến đời sống xã hội . Vì vậy , muốn đảm bảo đ ược các ho ạt đ ộng này đi


vào khuôn khổ đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật , chúng ta cần có
những nguyên tắc quản lí phù hợp.
+ Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do báo chí , tự do ngôn luận của
công dân.
Tôn trọng quyền tự do báo chí , tự do ngôn luận trên báo chí là m ột
nguyên tắc hiến định. Quyền tự do báo chí có nội dung rõ rang , c ụ th ể và
được công bố một cách hệ thống. Thông qua báo chí , công dân có quy ền
nhận tin , đưa tin , quyền bày tỏ quan điểm của mình về nh ững vấn đề đã
và đang xảy ra trong đời sống xã hội.
+ Nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động báo
chí một cách bình đẳng của tất cả công dân.
Bằng hoạt động của mình , báo chí đã góp phần đáng k ể vào vi ệc ổn
định chính trị , phát triển kinh tế và định hướng dư luận xã h ội m ột cách
tích cực. Nhiều nước trên thế giới đã khai thác triệt để hiệu quả ho ạt
động báo chí nhằm phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội thijh v ượng ,
công bằng , dân chủ văn minh.
+ Kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí ,
tự do ngôn luận làm trái pháp luật.
Từ khi ra đời cho đến ngày nay , báo chí luôn có nh ững ảnh h ưởng
nhất định đến tình hình an ninh chính trị của một quốc gia và cả qu ốc t ế
bởi tính quần chúng. Nhất là ngày nay , vấn đề tôn trọng quy ền t ự do báo
chí , tự do ngôn luận trên báo chí luôn đ ược đặt ra và xem nh ư quy ền c ơ
bản của con người mà các thể chế chính trị và hình th ức nhà n ước bu ộc
phải tôn trọng. Để đảm bảo nguyên tắc này , nhà nước kiên quyết loại trừ

những hành vi , hoạt động báo chí hại đến độc lập của dân t ộc và an ninh
trật tự xã hội , vi phạm thuần phong mĩ tục. Bên cạnh đó , Nhà n ước cũng
luôn đề ra nhiều phương hướng hoạt động báo chí đi đúng quuy đ ịnh c ủa
pháp luật , đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và xã hội.


Nhà nước quản lý về báo chí
Trong công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước những năm vừa qua, báo chí đã đóng vai trò quan tr ọng trong
việc củng cố niềm tin của tầng lớp nhân dân vào đường lối đúng đ ắn của
Đảng và Nhà nước. Rõ ràng là trong những thành công của đất n ước có
thành công của báo chí và sự nghiệp đổi mới của đất n ước muốn thành
công thì không thể thiếu sự tham gia đắc lực của báo chí.Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, nền báo chí của chúng ta hi ện
nay cũng đang thể hiện nhiều hạn chế, nhược điểm, thiếu sót… Đi ều đó
cho thấy sự cần thiết của việc hoạch định những chiến l ược, chính sách
để phát triển hệ thống báo chí. Đến nay, hệ thống các văn bản pháp lu ật,
chính sách, chế độ đối với báo chí ở nước ta đã tương đ ối hoàn ch ỉnh. Tuy
nhiên, công tác quản lý báo chí theo quy định của Luật báo chí và các văn
bản hướng dẫn thi hành luật vẫn còn nhiều bất cập. Hiện v ẫn đang đặt ra
yêu cầu cần có một tổ chức có đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để
thực hiện vai trò quản lý. Nhiều lĩnh vực như phát thanh, truy ền hình,
mạng Internet, báo chí Việt Nam ở nước ngoài, báo chí n ước ngoài ở Vi ệt
Nam… vẫn chưa được quản lý tốt.Sự quản lý của Nhà n ước còn th ể hiện
trong công tác quy hoạch hệ thống báo chí. Việc quy hoạch h ợp lý h ệ
thống báo chí trong cả nước nhằm tạo ra sự thống nhất, tính hợp lý để
báo chí có thể phát huy tốt nhất hiệu quả thông tin, tuyên truy ền ph ục v ụ
nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Cùng với việc động viên, phát huy những yếu tố tích cực trong ho ạt
động báo chí, cần phải xử lý nghiêm những cơ quan báo chí, nhà báo vi

phạm những quy định trong hoạt động báo chí. Đối v ới nh ững nhà báo
phạm luật, cần phải lên án mạnh mẽ và luật pháp c ần ph ải nghiêm kh ắc
trừng trị (như trường hợp các nhà báo trong vụ án “Trương Văn Cam và
đồng bọn”). Chỉ có như thế mới từng bước làm cho hệ thống báo chí c ủa


chúng ta trở nên trong sạch, lấy lại niềm tin của nhân dân. Mà muốn nh ư
vậy Nhà nước không thể bỏ qua việc giám sát, kiểm tra, xử lý. Các c ơ quan
quản lý báo chí thường xuyên kiểm tra giám sát các c ơ quan báo chí th ực
hiện Luật báo chí, làm tham mưu cho cấp uỷ Đảng chính quy ền về nh ững
vấn đề mới nảy sinh để có biện pháp xử lý kịp th ời.
Việc giám sát, kiểm tra, xử lý đòi hỏi sự góp s ức của nhiều cấp,
nhiều ngành, trong đó có vai trò quan trọng của các c ơ quan lu ật pháp và
của chính các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí cùng v ới các c ơ
quan làm nhiệm vụ quản lý báo chí từ Trung ương đến địa ph ương.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc
biệt đến công tác đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình đ ộ c ủa ng ười
phóng viên báo chí. Tuy nhiên, để phát triển m ột nền báo chí ph ục v ụ công
cuộc đổi mới trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đ ại hoá theo đ ịnh
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới, vẫn đang r ất cần nh ững gi ải
pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng của công tác đào tạo, đào t ạo l ại
đối với đội ngũ cán bộ báo chí ở nước ta.
Trong hoàn cảnh tiếp tục sự nghiệp đổi mới trong cơ chế thị trường,
pháp luật đã trở nên phương tiện hàng đầu trong việc qu ản lý xã h ội nói
chung, quản lý báo chí nói riêng. Để xây dựng Nhà nước pháp quy ền th ực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật trên cơ sở Hiến pháp thì vi ệc đầu tiên
là phải khẩn trương hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật sao cho nó
thực sự là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, đáp ứng yêu c ầu h ợp tác
quốc tế, phù hợp với tiến trình phát triển xã hội.Báo chí là m ột lĩnh v ực
riêng, đồng thời phải hoạt động theo luật pháp nói chung. B ởi lẽ đó, ho ạt

động báo chí cũng như hoạt động của công tác quản lý Nhà n ước đ ối v ới
báo chí trước hết phải được đặt trên cơ sở một hệ thống pháp luật. Các
hoạt động luật pháp, hành pháp, tư pháp của Nhà n ước về báo chí ph ải
luôn luôn được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới đất n ước. Luật


Báo chí (do Quốc hội nước Cộng hoà xã h ội chủ nghĩa Vi ệt Nam khoá VIII
ban hành năm 1989) đã xác lập hành lang pháp luật về báo chí, đ ặt c ơ s ở
pháp lý cho hoạt động báo chí nước ta phát triển đúng đ ịnh h ướng…
Quá trình quản lý Nhà nước bằng pháp luật tr ở thành y ếu tố quan
trọng quyết định sự thành bại của công cuộc đổi mới – trong đó có ho ạt
động báo chí. Thời gian qua, Chính phủ ta đã ban hành m ột lo ạt văn b ản
mới, khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc phát tri ển
nền tảng cho một xã hội thông tin dựa trên nền kinh tế tri th ức và phục v ụ
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Sự phát triển nhanh
chóng của báo chí và những đòi hỏi của nhân dân đang đ ặt ra nh ững đòi
hỏi ngày càng tăng đối với những người làm công tác quản lý Nhà n ước v ề
báo chí. Nền báo chí cách mạng nước ta không thể để khuynh h ướng
thương mại hóa chi phối hoạt động báo chí. Để tiếp tục xứng đáng với sự
tin cậy của Đảng và nhân dân, báo chí Việt Nam cần kiên quy ết kh ắc ph ục
những hiện tượng trên. Tăng cường quản lý báo chí cũng chính là tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua hoạt động quản
lý của bộ máy Nhà nước các cấp các ngành, các địa ph ương. Đây là m ột b ảo
đảm chắc chắn cho báo chí có thể phát triển ngày càng lớn m ạnh, đ ồng
thời cũng để Đảng kịp thời phát hiện, khắc phục những thiếu sót, ngăn
chặn những âm mưu nham hiểm của kẻ thù nhằm lợi dụng báo chí đ ể phá
hoại công cuộc đổi mới phát triển đất nước của nhân dân ta.
Nói tóm lại, quản lý tốt chính là tạo một khuôn khổ pháp lý c ơ bản,
tạo môi trường tự do sáng tạo, bình đẳng cho báo chí phát triển, đ ồng th ời
là hoạt động bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt đ ộng báo

chí, chống xu hướng thương mại hoá báo chí, bảo tồn, phát tri ển n ền văn
hoá dân tộc, ngăn chặn các hoạt động báo chí bất chấp h ậu qu ả v ề chính
trị, tư tưởng và văn hoá. Lợi nhuận của hoạt động báo chí không th ể tách
rời các mục tiêu hàng đầu về chính trị, tư tưởng và văn hoá.


Nội dung quản lí nhà nước với báo chí.
1.

Xây dựng và thực hiện chiến lược , quy hoạch , kế hoạch phát

triển sự nghiệp báo chí
Chiến lược phát triển thông tin là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, sự thành bại c ủa
mỗi quốc gia tùy thuộc rất lớn vào khả năng làm chủ , n ắm giữ lợi thế
thông tin.
Sau khi lập quy hoạch , kế hoạch phát triển báo chí phù h ợp v ới ch ủ
trương của Đảng , Nhà nước , cũng như tình hình th ực ti ễn báo chí qu ốc
gia , Bộ văn hóa-Thông tin sẽ trình Thủ tướng Chính phủ . Th ủ t ướng Chính
phủ là người kí quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin qu ốc
gia. Đến nay , nước ta đã có nhiều Chiến lược thông tin quốc gia đ ược phê
duyệt.
2.

Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp

luật về báo chí , xây dựng chế độ chính sách về báo chí
Bộ Văn hóa-Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính ph ủ th ực hiện
quản lí Nhà nước về báo chí, có nhiệm vụ soạn th ảo d ự án lu ật , văn b ản
dưới luật , chính sách , chế độ về báo chí. Luật báo chí sau khi đ ược Qu ốc

hội thông qua , Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành Nghị định quy định chi
tiết thi hành luật. Các cơ quan quản lí nhà n ước về báo chí có nhiệm v ụ thi
hành Luật Báo chí , kiểm tra việc thực hiện pháp luật , chính sách , ch ế đ ộ
về báo chí đối với cơ quan báo chí ở địa phương, Th ực hiện quản lí nhà
nước đối với hoạt động báo chí Trung ương và báo chí địa ph ương , các
hoạt động tại địa phương mình theo ủy quyền của Bộ Văn hóa-Thông tin.
Ngoài luật báo chí , các cơ quan quản lí Nhà n ước về báo chí có quy ền h ạn
và trách nhiệm ban hành , hướng dẫn , tổ chức th ực hiện các văn bản d ưới
pháp luật do mình đề ra.
3.

Tổ chức thông tin cho báo chí , quản lí thông tin của báo chí.


Để nguồn thông tin đưa đén cho công chúng là chuẩn m ực và đúng
“luồng” cần có sự định hướng vĩ mô của Nhà nước . Muốn v ậy , vi ệc t ổ
chức thông tin cho báo chí , quản lí thông tin c ủa báo chí ph ải đ ược th ực
hiện một cách nghiêm túc , tuân theo các quy định của Luật Báo chí. T ổ
chức thông tin cho báo chí được hiểu là sự định hướng cho báo chí nên vi ết
cái gì và không nên viết cái gì. Quản lí thông tin cho báo chí là ki ểm tra ,
giám sát thông tin trên các loại hình báo chí. Việc tổ chức thông tin cho báo
chí và quản lí thông tin của báo chí không th ể và không đ ược hi ểu là s ự
kiểm duyệt báo chí.
4.

Đào tạo , bồi dưỡng , nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ báo

chí.
Với mọi nghề nghiệp trong xã hội , con người luôn là nhân t ố quan
trọng nhất . Báo chí là một nghề đặc thù . Ng ười làm báo ph ải có nh ững

phẩm chất tương đối cao về nhận thức chính trị , năng lực chuyên môn ,
đạo đức nghề nghiệp. Nhiệm vụ đào tạo , bồi dưỡng nâng cao trình độ cho
đội ngũ cán bộ báo chí được giao cho Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương ,
Bộ Văn hóa- Thông tin phối hợp với ban Khoa giáo Trung ương… có nhi ệm
vụ nâng cao chất lượng đào tạo , bồi dưỡng cán bộ , lãnh đạo , qu ản lí báo
chí ; đào tạo phóng viên , biên tập viên cho các c ơ quan báo chí. Th ường
xuyên bồi dưỡng , nâng cao phẩm chất chính trị , trình độ nghiệp v ụ , năng
lực chuyên môn , đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo. Vi ệc bổ
nhiệm , miễn nhiệm lãnh đạo cơ quan báo chí , việc tuy ển d ụng cán b ộ ,
phóng viên , nhân viên trong các cơ quan báo chí th ực hiện theo quy đ ịnh
của pháp luật và một số quy định cụ thể của đảng.
5.

Tổ chức , quản lí hoạt động khoa học , công ngh ệ trong lĩnh

vực báo chí.
Trong lĩnh vực báo chí , tác phẩm báo chí là s ản ph ẩm đ ược công
chúng “ tiêu thụ”. Khi báo chí ngày càng phát tri ển , đ ặc bi ệt trong xã h ội


hiện đại , để tạo ra một sản phẩm báo chí không ph ải chỉ cần có nhà báo
và cái đầu của anh ta mà còn cần đến công nghệ… Với ph ương ti ện , công
nghệ như vậy , việc quản lí Nhà nước về khoa học công ngh ệ trong lĩnh
vực báo chí là cần thiết. Để thực hiện được nhiệm v ụ này đòi h ỏi c ần có
sự phôi hợp thống nhất và nhịp nhàng giữa các Bộ , Ban , Ngành liên quan.
Điều này là không dễ dàng. Quản lí Nhà nước về khoa học , công ngh ệ
trong lĩnh vực báo chí bao gồm đầu tư về thiết bị máy móc , h ệ th ống
truyền dẫn , công suất máy phát…Với từng loại hình báo chí mà quản lí
Nhà nước ở lĩnh vực này có những đặc thù khác nhau, và đ ương nhiên là
các cơ quan quản lí phải thống nhất định hướng chung nhằm mục đích cao

nhất là đem thông tin , đem báo chí đến với công chúng.
6.

Cấp , thu hồi giấy phép hoạt động báo chí , thẻ nhà báo.

Bộ Văn hóa- Thông tin cấp giấy phép hoạt động báo chí các c ơ quan
báo chí ở Trung ương. Sở Văn hóa-Thông tin các tỉnh , thành ph ố tr ực thu ộc
Trung ương cấp giấy phép hoạt động báo chí cho các cơ quan báo chí ở đ ịa
phương.
Cơ quan báo chí phải có giấy phép do cơn quan quản lí về báo chí
cấp mới được hoạt động. Trong trường hợp không có giấy phép thì ch ậm
nhất là 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ xin phép hoạt đ ộng báo chí ,
cơ quan quản lí nhà nước về báo chí phải trả lời bằng văn bản, nói rõ lí do.
Tổ chức bị từ chối cấp giấy phép có quyền khiếu nại với cơ quan có th ẩm
quyền hoặc khoier kiện tại tòa án.
Cơ quan báo chí vi phạm các quy định của Luật Báo chí nh ư vi phạm
quy định về giấy phép hoạt động báo chí , về nh ững đi ều không đ ược
thông tin trên báo chí…thì tùy theo tính chất, m ức độ vi ph ạm mà b ị c ảnh
cáo , phạt tiền , thu hồi , tịch thu ấn ph ẩm , băng đĩa ghi âm , ghi hình …
đình bản tạm thời hoặc thu hồi giấy phép theo quy định của pháp lu ật.
Nhà báo là người có quóc tịch tại Việt Nam , có đủ các tiêu chuẩn chính tr ị ,


đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định , đang ho ạt đ ộng ho ặc
cộng tác thướng xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp th ẻ
Nhà báo . Thẻ Nhà báo do Bộ Văn hóa-Thông tin cấp.
7.

Quản lí hợp tác quốc tế về báo chí.


Quản lí hợp tác quốc tế về báo chí báo gồm quản lí ho ạt đ ộng c ủa
báo chí Việt Nam có liên quan đến nước ngoài và hoạt động c ủa báo chí
nước ngoài tại Việt Nam.
Chính sách chung của Đảng và Nhà nước ta là mở rộng quan hệ quốc
tế trong hoạt động báo chí theo nguyên tắc tôn trọng độc lập , ch ủ quy ền
quốc gia , bình đẳng và các ben cùng có lợi. Hoạt động báo chí c ủa Vi ệt
Nam có liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt
Nam thực hiện theo các quy định của pháp luật và do Chính ph ủ quản lí.
8.

Kiểm tra báo chí lưu chiếu , quản lí kho lưu chiếu báo chí.

Báo chí xuất bản , lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam ph ải nộp l ưu
chiếu trước khi phát hành. Báo in ra hằng ngày ph ải nộp l ưu chi ếu tr ước
8h sang hằng ngày , báo in không ra hằng ngày nộp l ưu chi ếu tr ước khi
phát hành 6h đồng hồ. Báo nước ngoài được phép phát hành ph ải n ộp l ưu
chiếu trước khi phát hành 12h đồng hồ. Báo chí lưu chiếu nộp cho các C ục
Báo chí, Bộ Văn hóa-Thông tin… địa phương nơi báo chí xu ất b ản và th ư
viện quốc gia. Báo chí không xuất bản ở Hà Nội nộp lưu chiếu cho B ộ Văn
hóa-Thông tin qua Bưu điện cùng lúc nộp lưu chiếu cho S ở Văn hóa-Thông
tin địa phương , thời gian nộp tính theo dấu bưu điện. Ch ương trình phát
thanh , truyền hình đã phát song , báo điện tử đã phát hành trên mạng
phải giữ văn bản gốc ít nhất 6 tháng , lưu gi ữ đĩa , băng ghi âm , băng đĩa
hình đã phát ít nhất 30 ngày.
9.
chí.

Tổ chức , chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt động báo



Cơ quan báo chí , nhà báo , tổ chức và cống hiên vào ho ạt đ ộng báo
chí thì được khen thưởng theo các quy định khen th ưởng của nhà n ước.
Chính phủ hỗ trợ ngân sách để trao tặng giải thưởng báo chí h ằng năm
cho các tác phẩm báo chí xuất sắc. Việc khen thưởng đối v ới hoạt động
báo chí phải kịp thời, thường xuyên , góp phần khích lệ , đ ộng viên các tòa
soạn báo , các cán bộ , phóng viên , biên tập viên báo chí tích c ực ho ạt đ ộng
, cống hiên cho hoạt động báo chí và nhân dân.
10.

Hướng dẫn , thanh tra , kiểm tra việc th ực hiện Luật Báo chí.

Thanh tra chuyen ngành Văn Hóa-Thông tin thực hiện ch ức năng
thanh tra chuyên ngành về báo chí. Việc thanh tra báo chí đ ược th ực hi ện
đối với các cơ quan báo chí , các nhà báo cá nhân trên các mặt :
-Thanh tra việc chấp hành pháp luật về hoạt động báo chí ;
-Hướng dẫn giải quyết khiếu nại về hoạt động báo chí ;
-Kiến nghi các biện pháp bảo đảm việc thi hành pháp lu ật v ề ho ạt
động báo chí và hoàn thiện pháp luật , chính sách về báo chí .
Thanh tra chuyên ngành về báo chí có quyền kiến ngh ị các c ơ quan
có thẩm quyền về việc khen thưởng các cơ quan báo chí , nhà báo , t ổ ch ức
và công dân có thành tích trong hoạt động báo chí ; quy ết đ ịnh x ử ph ạt vi
phạm theo thẩm quyền , trong trường hợp vượt quá th ẩm quy ền thì đ ưa
lên cơ quan cấp trên xử lí. Thanh tra có quyền yêu cầu các đương sự , các
bên liên quan cung cấp tài liệu , chứng cứ và trả lời nh ững vẫn đề cần
thiết có liên quan trực tiếp đến việc thanh tra. Trong quá trình thanh tra
phát hiện dấu hiệu tội phạm chuyển hồ sơ sang cơ quan đi ều tra có th ẩm
quyền. Thanh tra , kiểm tra việc thực hiện chế dộ , chính sách, quy
hoặcch , kế hoặch phát triển báo chí và việc ch ấp hành pháp lu ật v ề báo
chí ; thi hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp lu ật ;
giải quyết khiếu nại , tố cáo , xử lí vi phạm trong hoạt đ ộng báo chí ph ải

được tiến hành thườn xuyên , liên tục nghiêm minh , công bằng.


PHƯƠNG THỨC QUẢN LÍ
Đảng và nhân dân ta luôn đánh giá cao vai trò quan trọng của báo chí
trong đời sống xã hội. Bác Hồ và Đảng ta đã tạo lập, xây dựng và tạo mọi điều
kiện để báo chí phát triển trở thành một hệ thống báo chí hoàn chỉnh. Hệ thống
báo chí Việt Nam là hệ thống báo chí cách mạng. Sự lãnh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước đối với báo chí là nguyên tắc hàng đầu. Sự lãnh đạo và quản lý
đó bảo đảm cho báo chí của chúng ta hoạt động một cách tự do, dân chủ, bảo
đảm cho báo chí phục vụ ngày càng đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước càng hoàn thiện, càng
tạo đều kiện thuận lợi cho báo chí phát triển. Vì thế việc khẳng định và không
ngừng đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối
với báo chí vừa là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa là đòi hỏi
của bản thân hệ thống báo chí.
Đảng lãnh đạo báo chí không có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay mà Đảng
định ra chủ trương quan điểm để định hướng hoạt động phát triển hệ thống báo
chí cách mạng. Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật Xuất bản cùng nhiều văn bản
pháp quy khác thể chế hóa các quan điểm của Đảng về báo chí, đặc biệt là thể
hiện rõ quan điểm về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của nước ta. Nhà báo
được tự do hành nghề, tự do sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật. Mọi công dân
đều có quyền phát biểu ý kiến trên công luận về mọi vấn đề, từ những ý kiến
xây dựng pháp luật, chính sách quản lý đất nước, đến những ý kiến nhận xét phệ
bình công việc của cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể, miễn là phù hợp với
lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Quản lý báo chí là chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Quản lý tạo dựng cho sự
phát triển của báo chí và sự phát triển của báo chí có phần quan trọng là kết quả
của sự quản lý. Yêu cầu của sự nghiệp phát triển báo chí cả về nội dung, hình
thức, số lượng đều hướng tới hiệu quả xã hội cao, đặt ra đòi hỏi đổi mới phương



thức quản lý báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Không nên hiểu quản lý chỉ là sự bó hẹp, thắt lại, đồng nghĩa với quản lý hành
chính. Quản lý báo chí Chính là tạo mọi điều kiện thuận lợi để báo chí phát
triển, để các nhà báo phát huy tài năng, sức sáng tạo và giúp họ sửa chữa khuyết
điểm, lệch lạc, yếu kém. Quản lý còn thông qua sự thảo luận thật dân chủ,
hướng dẫn, rút kinh nghiệm và giúp đỡ người làm báo trong nhiệm vụ giữ vững
định hướng chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa, đạo đức, truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, nâng cao dân trí, củng cố niềm tin, hoàn thiện con người.
Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mục tiêu cốt lõi của
sự lãnh đạo và quản lý báo chí là định hướng và tạo mọi điều kiện để báo chí
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo và quản lý báo chí nhằm tạo điều kiện cho mỗi tờ
báo xác định rõ và làm đúng tôn chỉ, mục đích của mình, trang bị các phương
tiện kỹ thuật chuyên ngành, tiếp thu phương tiện hiện đại, bảo đảm thông tin
trên báo chí nhanh chóng, chính xác, đúng hướng. Lãnh đạo, quản lý báo chí
còn là nắm vững tình hình hoạt động của báo chí, tạo động lực cho hoạt động
báo chí, đẩy mạnh công tác thi đua, phát hiện và kịp thời khen thưởng những cơ
quan báo chí có những thành tích xuất sắc, đồng thời uốn nắn, xử lý kịp thời
những biểu hiện vi phạm trong hoạt động báo chí.
Sau 17 năm đổi mới, đặc biệt là sau 5 năm thực hiện Chỉ thị 22/CT-T.Ư của Bộ
Chính trị (khóa VIII), công tác chỉ đạo và quản lý báo chí đã được chú trọng
hơn, tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho hoạt động của hệ thống báo chí, các cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí, các địa phương, ban ngành, các cơ quan chủ
quản báo chí đã coi trọng công tác lãnh đạo và quản lý báo chí tăng cường giáo
dục tư tưởng cho cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nâng cao sức chiến đấu của



các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng trong các cơ quan báo chí, thường
xuyên định hướng thông tin giúp báo chí nhận thức đúng bản chất của những sự
việc nổi cộm, biểu dương kịp thời nhũng đóng góp tích cực của báo chí, đồng
thời đã chú ý nhắc nhở, xử lý các trường hợp sai phạm trong hoạt động của báo
chí.

VÂN ĐỀ ĐẶT RA
Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về báo chí Giai
đoạn hiện nay, tình hình thế giới đang có những diễn biến ph ức tạp, tiềm
ẩn những bất ổn khó lường. Nền kinh tế thế giới phục hồi chậm. Ở trong
nước, nền kinh tế tiếp tục có nhiều khó khăn, thách th ức. Tình hình thiên
tai, lũ lụt, dịch bệnh tiếp tục ảnh hưởng tới cuộc sống c ủa ng ười dân và
sản xuất, kinh doanh. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh th ực hiện
“diễn biến hòa bình” trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã h ội, đ ặc bi ệt là
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Những thuận lợi, khó khăn của tình hình trong
nước cùng xu thế toàn cầu hóa thông tin và sự bùng nổ c ủa truy ền thông
xã hội tác động trực tiếp đến hoạt động báo chí và công tác qu ản lý báo
chí. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà n ước, s ự ch ỉ đ ạo tr ực
tiếp của các cơ quan chủ quản, nỗ lực của các cơ quan báo chí và đ ội ngũ
nhà báo, báo chí nước ta đã thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh c ủa mình, góp
phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất n ước. Bên c ạnh nh ững ưu
điểm, thành tích, hoạt động báo chí cũng còn nhiều h ạn ch ế, khuy ết đi ểm,


từ đó đặt ra những vấn đề trong công tác quản lý nhà nước về báo chí, cụ
thể là:
Thứ nhất, quản lý báo chí trong điều kiện phát tri ển m ạnh mẽ c ủa
truyền thông xã hội đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận m ới. Trên bình
diện quốc tế, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã làm thay đ ổi cách
thức truyền tải và tiếp nhận thông tin trên toàn cầu. Toàn cầu hóa thông

tin đang đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề trong công tác ch ỉ đ ạo, qu ản lý
thông tin. Thông tin ở khắp mọi nơi trên thế giới được truyền tải liên tục,
nhiều chiều và dễ dàng tới công chúng thông qua in tơnét, với những dạng
thức truyền thông mới, trong đó mạng xã hội đang chiếm ưu th ế. Do v ậy,
quản lý báo chí trong bối cảnh truyền thông xã hội phát triển đòi h ỏi ph ải
hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để tạo điều kiện cho các c ơ quan
báo chí nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc chi ph ối, đ ịnh
hướng dư luận xã hội; là việc làm chủ thông tin thông qua gia tăng cung
cấp thông tin chính thống cho báo chí, là làm rõ c ơ ch ế m ở r ộng ti ếp c ận
thông tin và phát huy dân chủ trong thông tin.
Thứ hai, đã có nhiều giải pháp được đưa ra để hạn chế tình trạng
thương mại hóa báo chí, nhưng cho đến nay xu hướng này vẫn chậm đ ược
khắc phục. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thương mại hóa báo chí
vừa là vấn đề thực tiễn đồng thời lại mang tính lý luận. M ột m ặt, báo chí
phải bảo đảm nhiệm vụ chính trị; mặt khác, phải cạnh tranh thông tin, lo
tăng số lượng phát hành để phát triển, duy trì s ự ổn định của c ơ quan báo
chí. Thực tiễn cho thấy, hoạt động báo chí vừa chịu sự tác động của hệ
thống các quy luật phát triển văn hóa tư tưởng, vừa chịu tác động của hệ
thống các quy luật kinh tế. Nếu chỉ chú trọng t ới lợi ích kinh tế sẽ d ẫn t ới
thương mại hóa hoạt động báo chí, làm báo chí xa rời nhiệm v ụ chính tr ị.
Do vậy, trong công tác quản lý nhà nước về báo chí cần chú tr ọng h ơn các
quy định, biện pháp ngăn ngừa tác hại từ mặt trái của kinh t ế th ị tr ường,


làm ảnh hưởng đến định hướng tư tưởng văn hóa. Tuy nhiên, nếu chỉ đề
cao vai trò báo chí ở phương diện tư tưởng văn hóa thì báo chí sẽ không
phát huy hết khả năng đóng góp của mình với xã hội.
Thứ ba, vấn đề thực hiện quy hoạch hệ thống báo chí toàn quốc.
Hiện nay, vẫn còn sự chênh lệch lớn 1/6/2015 T ạp chí C ộng S ản Nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu n ền

báo chí cách mạng Việt Nam trong … về sự hưởng thụ thông tin báo chí
giữa các khu vực, địa bàn, vùng, miền. Mặc dù h ầu hết các c ơ quan, ban,
ngành trong hệ thống chính trị đều có cơ quan báo chí, nh ưng ch ất l ượng
chưa tương xứng, còn trùng chéo về tôn chỉ, mục đích, n ội dung, đối t ượng
phục vụ. Ngoài ra, chưa có nghiên cứu, phân loại, xác định tính ch ất, nhi ệm
vụ của báo chí để có cơ chế, chính sách phù hợp.
Thứ tư, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các c ơ quan
báo chí và cơ quan quản lý để làm tốt hơn nữa ch ức năng quản lý nhà
nước về báo chí, kịp thời chấn chỉnh, xử lý những thiếu sót, khuy ết đi ểm,
tạo điều kiện để báo chí phát triển.
Thứ năm, vấn đề phát huy sức mạnh của báo chí trong đ ịnh h ướng
dư luận xã hội, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ các giai tầng trong xã h ội tích c ực
tiến hành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n ước. Yêu
cầu khách quan đó đòi hỏi hoạt động báo chí ph ải nâng cao h ơn n ữa ch ất
lượng chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng giáo dục của báo chí,
hướng báo chí vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục s ự nghiệp
đổi mới, từng bước xây dựng con người mới, lối sống m ới, làm cho nh ững
nguyên lý cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh th ần xã h ội. Gi ải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí trong tình hình m ới .


KẾT LUẬN
Đảng lãnh đạo , Nhà nước qunar lí là nguyên tắc số m ột chi ph ối
hoạt động báo chí nước ta . Đây là vấn đề không m ới trong lí lu ận cũng
như trong thực tiễn báo chí. Tuy vậy , trong nh ững đoạn đại khác nhau ,
nguyên tắc ấy lại đòi hỏi những cách nhìn đồng thuận và phát tri ển. Đ ảng
lãnh đạo báo chí ở Việt Nam là một tất yếu mang tính lịch s ử xã hội . M ột
nền báo chí cách mạng ra đời cùng sự ra đời của Đảng , tr ở thành ph ương
tiện truyền thông của Đảng, phụng sự Đảng , phụng s ự Tổ quốc và nhân

dân. Báo chí Việt Nam chịu sự quản lí về mặt Nhà n ước đối v ới hoạt đ ộng
của mình . Các cơ quan quản lí Nhà nước về báo chí đ ược tổ ch ức th ống
nhất từ Trung ương đến cơ sở. Việc quản lí Nhà nước đối với các ph ương
tiên truyền thông đại chúng không tập trung vào một khối , m ột tuy ến mà
chia sẻ theo hai tuyến chính là Bộ Văn hóa-Thông tin và cơ quan chủ quản.
Cơ chế quản lí đó cho phép chia sẻ và cộng đ ồng trách nhi ệm. Đó cũng là
cơ chế tương thích với tính chất quyết định của các ph ương ti ện truy ền


thông đại chúng nước ta. Quản lí Nhà nước đối với hoạt đ ộng báo chí đ ược
thuực hiện trên nhiều mặt , nhiều phương diện.



×