Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận triết học tây âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.68 KB, 17 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học phương Tây trung đại là một triết học mang đầy tính thần học,
kinh viện. Trong thời gian kéo dài khoảng một ngàn năm từ thế kỷ thứ IVXIV là giai đoạn cực kỳ đen tối của xã hội phương tây mà sách sử gọi là ”đêm
trường trung cổ” là một thời kỳ thống trị của Nhà thờ Thiên chúa giáo.
Sang thế kỷ thứ XV-XVI, ở Tây Âu phong trào Văn hóa Phục Hưng chủ
trương khôi phục và phát triển những giá trị văn hóa thời cổ đại đã bị lãng
quên. Với phong trào này cùng với sự biến đổi điều kiện kinh tế - xã hội góp
phần đẩy mạnh sự phát triển của khoa học tự nhiên. Toán học, cơ học, địa lý,
thiên văn học... đã đạt được những thành tựu đáng kể và đã bắt đầu tách khỏi
triết học tự nhiên. Triết học đã thay đổi đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
mình, xuất hiện nhiều tư tưởng triết học mới.
Có những tư tưởng đặt nền móng hết sức quan trọng cho triết học và
khoa học sau này. Trong nhiều triết gia thời này thì có triết gia người Anh
Francis Bacon là người đặt nền móng cho trường phái duy vật kinh nghiệm và
khoa học thực nghiệm. Triết học duy vật của Bacơn đã có tác dụng tích cực
đối với sự phát triển của khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của
nhà thờ và giáo hội. Lịch sử triết học và khoa học phương Tây chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của Francis Bacon.
Trong bài tiểu luận này tôi sẽ trình bày và phân tích về những tư tưởng
triết học cơ bản của triết gia Francis Bacon, những ảnh hưởng của nó đến
khoa học thực nghiệm sau này.

1


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY - TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC CỦA FRANCIS BACON
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời
Phục hưng và cận đại.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội


Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã
hội phong kiến sang xã hội tư bản thế kỷ XV - XVI. Tính chất quá độ đó biểu
hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư
tưởng thời kì này.
Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền
sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã.
Nhiều công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh,
Pháp và các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của
khoa học, kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với
việc sáng chế ra máy kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công
nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng
loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người có thể sản xuất có kế hoạch, tiết
kiệm thời gian và tăng năng suất lao động. Những phát kiến về đường biển,
tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu Mỹ... càng tạo điều kiện phát
triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị trường
trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng
cường, nhờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha…đi
xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu
thụ hàng hoá.
Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp,
trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt.

2


Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt
nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công
trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình
thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất

mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy tàn.
Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa học
kĩ thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các
nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ.
Mở đầu là nhà triết học người phía Nam nước Đức, Nicôlai Kuzan
(1401-1464). Tiếp đó là các nhà khoa học - triết học như Nicôlai Côpecnich
(1475-1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452-1519) - nhà danh hoạ,
nhà toán học, cơ học, kĩ sư người Italia; Gioocđanô Brunô (1548 -1600)
người Italia; Galilêô Galilê (1564-1642) người Italia.
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến
nhận thức duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật tâm của Nicôlai
Côpecnich (1475-1543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai Côpecnich
đã đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do
Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi
quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai
Côpecnich đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học.
Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách
mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra. Trong thời đại Phục hưng,
các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy vật, vận dụng nó để chống
lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung cổ.
Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường
được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức
thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự chuyên
chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã không
ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy
3


vật - tiền đề những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong
các thế kỷ tiếp theo.

Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của
khoa học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với
những đặc điểm mới. Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVIIXVIII) ở các nước Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi
về chính trị trước giai cấp phong kiến.
Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách mạng tư sản
Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư
sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó
tạo đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển m à trước
hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển.
Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực
nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận
thức trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển,
nếu có nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là
nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính
máy móc siêu hình. Chính những điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự
nhiên thời cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học thời kì này:
1.1.2. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại.
Thứ nhất, trên bình diện thế giới quan, triết học Phục hưng - cận đại thể
hiện rõ thế giới quan duy vật máy móc, bên cạnh quan điểm tự nhiên thần
luận của giai cấp tư sản.
Thứ hai, trên bình diện nhận thức - phương pháp luận, triết học Phục
hưng - cận đại chủ yếu đi tìm phương pháp nhận thức mới để khắc phục triệt
để phương pháp kinh viện giáo điều, nhằm xây dựng một triết học và một
khoa học mới có liên hệ mật thiết với nhau hướng tới tri thức.
4


Thứ ba, trên bình diện nhân sinh quan – ý thức hệ, nền triết học thới

phục hưng – cận đại thể hiện rõ tinh phần khai sáng và chủ nghĩa nhân đạo tư
sản. Nó là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản để tập hợp, giác ngộ, hướng dẫn
quần chúng thực hiện những hành động cách mạng nhằm cải tạo x ã hội cũ và
xây dựng xã hội mới – chủ nghĩa tư bản.
Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia,
điển hình như B.Xpinôda, Francis Bacon. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri,
Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.G.Rutxô. II. Francis Bacon - Chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm Nếu triết học Tây Âu trung đại bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm coi
trọng lòng tin tôn giáo, đề cao vai trò của Thượng đế, coi thường lý trí khoa
học, hạ thấp vai trò của con người và tự nhiên…, là công cụ tinh thần của Nhà
thờ và nhà nước phong kiến thống trị con người; thì triết học Tây Âu thời
Phục Hưng đã bắt đầu coi trọng lý trí, để cao con người và giới tự nhiên; về
cơ bản, nó là ngọn cờ lý luận của các lực lượng xã hội tiến bộ trong cuộc đấu
tranh chống lại ý thức hệ phong kiến lỗi thời, nhằm thiết lập ý thức hệ mới – ý
thức hệ tư sản. Trong số các triết học gia tiêu biểu trong thời kỳ thì triết gia
người Anh Francis Bacon được coi là người đặt nền móng cho chủ nghĩa duy
vật kinh nghiệm.
1.1.3 Tư tưởng triết học cơ bản của Francis Bacon Francis Bacon
1.1.3.1. Sơ lược về tiểu sử của Francis Bacon Francis Bacon
Ông sinh năm 1561 và mất năm 1626 trong một gia đình quý tộc cấp
cao, tại thành phố Luân Đôn. Francis Bacon sinh trong một gia đình quý tộc
Anh. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Kembritgiơ, ông công tác nhiều năm
trong ngành ngoại giao cho vương triều Xtiua.
Mặc dù sống ở nước Anh trước thời kì cách mạng tư sản, nhưng Francis
Bacon là người nhiệt liệt ủng hộ những cải cách tư sản nhằm phát triển đất
nước, ủng hộ sự phát triển của khoa học và triết học. Những tác phẩm lớn của
ông là Đại phục hồi các khoa học (1605),Công cụ mới (1620)... là nhà triết
học vĩ đại thời cận đại. C.Mác coi Francis Bacon là ông tổ của chủ nghĩa duy
5



vật Anh và khoa học thực nghiệm. Bắt đầu từ Francis Bacon, lịch sử triết học
Tây Âu bước sang một giai đoạn phát triển mới với những màu sắc riêng.
1.1.3.2. Tư tưởng triết học cơ bản của Bacon
Thứ nhất: Về Bản Chất, nhiệm vụ của triết học và khoa học
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Francis
Bacon đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học v à triết học và
sự cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển của chúng nh ư một nền tảng lý luận
của công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Ông coi đó là một phương tiện
cơ bản nhằm xoá bỏ những bất công xã hội, xây dựng cuộc sống phồn vinh.
Khác với những nhà nhân đạo cộng sản không tưởng, Francis Bacon
khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời trên cơ sở phát
triển khoa học và triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình lý tưởng.
Ông cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức
mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự thống trị của con người đối với giới
tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm được. Chịu ảnh hưởng của
quan niệm trước đây coi triết học là khoa học của các khoa học, Francis
Bacon hiểu triết học theo hai nghĩa. Triết học theo nghĩa rộng là tổng thể các
tri thức lý luận của con người về Thượng đế, về giới tự nhiên và về bản thân
con người; học thuyết về Thượng đế là thần học, chỉ có bộ phận thần học tự
nhiên mới thuộc về triết học, còn bộ phận thần học Thượng đế thì thuộc về
lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng...Học thuyết về tự nhiên trong triết học được
Francis Bacon gần như đồng nhất với khoa học tự nhiên, còn học thuyết về
con người thì được coi là nhân bản học.
Theo Francis Bacon, khác với bộ môn lịch sử và các dạng nhận thức
nghệ thuật chỉ đơn thuần dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con
người, triết học và khoa học mang tính lý luận và khái quát cao. Tư duy triết
học là tư duy lý tính, mang tính trí tuệ cao nhất.
Theo nghĩa rộng, triết học hầu như đồng nhất với tất cả các khoa học,
bao chứa mọi khoa học khác.

6


Theo nghĩa hẹp, triết học là bộ phận cơ bản nhất trong tổng thể các khoa học.
Đó là nền tảng và cơ sở của mọi khoa học khác, đồng thời nó đã bao
chứa toàn bộ các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Francis Bacon cho rằng nhiệm
vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học, nghĩa là phải cải tạo toàn bộ các
tri thức mà con người đạt được thời đó. Francis Bacon chỉ ra rằng khoa học
mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại chứ không riêng cho ai. Những quan
niệm giản đơn, hẹp hòi, coi khoa học như là một nghề thủ công có lãi chỉ làm
cho khoa học bị què quặt đi mà thôi. Bằng khoa học, con người tiếp cận với
thế giới. Đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội,
Francis Bacon khẳng định "tri thức là sức mạnh". Từ đó ông đi đến một một
kết luận mang tính cách mạng đối với người đương thời, coi "hiệu quả và sự
sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết
học". Muốn chinh phục tự nhiên thì con người cần phải nhận thức các quy
luật của nó, vận dụng và tuân theo chúng.
Thứ hai: Quan niệm về thế giới
Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, Francis Bacon cho rằng để
lý giải được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất l à đủ.
Để giải thích thế giới, ông đã cải biến thuyết bốn nguyên nhân của Arixtốt
theo hướng duy vật. Ông xoá bỏ nguyên nhân mục đích của các sự vật và cho
rằng, mọi cái trên thế gian chỉ tồn tại từ bốn nguyên nhân: hình dạng, vật chất,
vận động và mục đích.
Khác với Arixtốt, ông coi hình dạng của sự vật là cái nằm chính trong
bản thân sự vật, là bản chất hoàn toàn khách quan của nó; không thể có cái
gọi là "hình dạng của hình dạng" phi vật chất, cũng như "vật chất đầu tiên"
phi hình dạng là không có thực; mọi "hình dạng" đều chỉ là "hình dạng" của
vật chất. Cả bốn nguyên nhân "hình dạng", "vật chất", "vận động", và “mục
đích” thực chất đều là bản tính của vật chất. Vì thế vật chất có bản tính là tích

cực, có sinh khí chứ không phải thụ động.

7


Francis Bacon đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và
đương thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động,
giữa bản chất của sự vật và vận động của nó. Khẳng định vận động là đặc tính
của sự vật, Francis Bacon cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động
của chúng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét, Francis Bacon đã hiểu "rằng
trong những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và
quan trọng nhất, không phải chỉ với tính cách là máy móc và toán học mà hơn
nữa còn với tính cách là xu hướng, sức sống của vật chất". Francis Bacon đã
tìm cách phân loại các dạng vận động.
Theo ông có 19 dạng vận động: 1) vận động xung đối; 2) vận động móc
nối; 3) vận động giải phóng mà thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp
lực; 4) vận động, trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích thước mới; 5)
vận động liên tục; 6) vận động có lợi; 7) vận động tự hợp lại với quy mô lớn; 8)
vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9) vận động từ tính; 10) vận động sản sinh
ra; 11) vận động chạy trốn; 12) vận động thức tỉnh; 13) vận động mô tả, ghi
nhận; 14) vận động ngoại tuyến; 15) vận động theo xu hướng; 16) vận động
hùng tráng; 17) vận động tự quay; 18) vận động rung động; 19) đứng yên.
Từ đây, có thể thấy rằng, về cơ bản Francis Bacon đã phân loại vận động
theo cảm tính, mô tả, chưa biết phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của
vật chất, mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức vận
động cơ học; không thấy được sự phát triển của thế giới vật chất đã dẫn đến xuất
hiện những hình thức vận động khác nhau về chất, phù hợp với trình độ cấu trúc
của vật chất. Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng vận động ở Francis Bacon
là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó. Ông cũng
là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.

Thứ ba: Nhận thức luận và phương pháp luận
Bêcơn là người ủng hộ nhiệt thành sự phát triển của khoa học. Ông nói:
"Mục đích của tôi là ở chỗ chỉ ra uy thế thực sự của khoa học mà không cần
phải tô vẽ và cường điệu, và làm rõ ý nghĩa và giá trị chân chính của nó." Với
8


hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan, Bêcơn
đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người,
những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất thời, mà
là những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người trong nhận
thức. Ông gọi chúng là các “ảo tưởng ”. Để nhận thức chân lí và khắc phục
được các ngẫu tượng, thì phải vạch ra cơ chế và bản chất của chúng.
Do vậy, Bêcơn coi học thuyết về các ảo tưởng tựa như phần mở đầu
trong nhận thức và phương pháp luận của mình. Các ảo tưởng có nguồn gốc
hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng một phần có trong bản chất của trí tuệ con
ng ười, một phần xuất hiện trong quá trình lịch sử nhận thức của nhân loại,
một phần nảy sinh trong sinh lí và nhân cách của mỗi người.
Theo Bêcơn, "trí tuệ con người tự đặt ra chướng ngại vật và cạm bẫy cho
mình”. Vì các ảo tưởng thường xuyên ám ảnh con người, tạo nên cho nó
những tư tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ mặt thật của thế giới, nói tóm
lại, cản trở con người xâm nhập vào thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu".
Vì vậy, quá trình con người đấu tranh khắc phục những hạn chế khách
quan đó cũng là quá trình con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình.
Bêcơn phân loại các dạng ảo tưởng như sau: Ảo tưởng loài: nó sinh ra do việc
loài người thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình với bản chất
khách quan của sự vật. Ai cũng dễ dàng gán cho sự vật những đặc tính của
riêng con người. Bêcơn nói: "Các ảo tưởng loài có cơ sở trong chính bản thân
loài người, bởi vì thật là sai lầm khi khẳng định cảm giác cảm tính của chúng
ta là thước đo sự vật.

Ngược lại, tất cả các giác quan cũng như trí tuệ đều được dựa trên sự
tương đồng của con người, chứ không phải dựa trên sự tương đồng của thế
giới. Trí tuệ con người cũng tương tự như chiếc gương méo, khi nó pha trộn
bản chất của mình với bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự vật dưới
dạng bị xuyên tạc, bóp méo". Sở dĩ có loại ảo tưởng này, theo Bêcơn, là do
các giác quan cũng như trí tuệ của con người còn chưa được hoàn thiện. Một
9


trong những biểu hiện của ảo tưởng này là ở chỗ, người ta thường hay bảo
thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan của mình là thước đo tất thảy mọi vật ảo
tưởng loài do vậy rất bền vững. Chúng ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng của ảo
tưởng này bằng cách hoàn thiện các nhận thức của con người như thực
nghiệm…
Việc Francis Bacon đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan
là hợp lý. Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí
trong hoạt động của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái
chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải "khách quan thuần
tuý" của ông là một điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong
việc phê phán các quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó, vì sự tiến
bộ của khoa học.
Ảo tưởng hang động: Ngoài những ảo tưởng đối với cả loài người, thì
mỗi người còn có các đặc tính chủ quan, tâm lí, tính cách đặc thù của mình
làm xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật. Chúng còn xuất hiện do hoàn
cảnh giáo dục của mỗi người cũng khác nhau. Thực chất ảo tưởng hang động
chính là ảo tưởng loài, nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình
thức khác nhau.
Sở dĩ gọi là ảo tưởng hang động vì mượn câu chuyện của Platôn về hang
động, Francis Bacon ví trí tuệ của con người như hang động méo mó của
Platôn, mà trong đó thể hiện cái bóng của các sự kiện diễn ra bên ngoài. Để

hạn chế dạng ảo tưởng này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách của
mình, thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể...
Nhìn chung, việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo tưởng
của Francis Bacon còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía cạnh
nhận thức luận, vì vậy chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục ảo tưởng
một cách hợp lý. Công lao của ông trong học tuyết về ảo tưởng là ở chỗ ông
đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội của quá trình nhận thức; ở chỗ khẳng định quá

10


trình nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét với tinh thần phê
phán, cách mạng chứ không giáo điều.
Những tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với thời đại của ông
mà còn đối với cả hiện nay. Francis Bacon là một trong những người đầu tiên
nhận thức được hạn chế của tam đoạn luận và của lôgic hình thức - cái mà từ
trước đến bấy giờ vẫn được coi là phương pháp nhận thức vạn năng, đồng
thời ông là một trong những người khởi xướng ra tư tưởng lôgic mới. Francis
Bacon liệt kê, phân tích những phương pháp nhận thức cơ bản đang được sử
dụng phổ biến để từ đó đưa ra một phương pháp nhận thức mới cao hơn.
Theo Francis Bacon, từ trước đến bấy giờ người ta chủ yếu dùng hai
phương pháp nhận thức là "phương pháp con nhện" và "phương pháp con
kiến". Phương pháp con nhện là phương pháp xuất phát từ vài bằng chứng và
cứ liệu vụn vặt người ta đã vội vã đưa ra các tiền đề và khẳng định một cách
vô căn cứ về bản chất của sự vật. Phương pháp đó chẳng khác gì con nhện
chăng tơ, chỉ trong khoảnh khắc đã xong nhưng không chắc chắn.
Phương pháp con kiến là sự miêu tả, lượm lặt, sưu tầm từng ít dữ kiện về
sự vật, nhưng rốt cuộc chẳng biết khái quát, rút ra những kết luận đúng đắn
trên cơ sở những dữ kiện đó. Phương pháp này chỉ cho ta hiểu những nét bề
ngoài vụn vặt chứ không thể khám phá được bản chất đích thực của sự vật. Để

khắc phục những hạn chế nói trên, Francis Bacon đưa ra "phương pháp con
ong". Bản chất của "phương pháp con ong" là từ những tri thức do cảm tính
đem lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa thành mật ong, rút ra
những tri thức mới bằng tư duy lý tính. Phương pháp nhận thức tối ưu, theo
Francis Bacon, là phương pháp quy nạp.
Ông coi phương pháp quy nạp là chiếc la bàn của khoa học. Nhưng ông
không thoả mãn với những phương pháp quy nạp đã có. Ông là người đầu tiên
khám phá ra phương pháp quy nạp loại trừ, tức phương pháp quy nạp mà
trong đó có phân tích, loại bỏ những dữ kiện phụ, đi đến khẳng định bản chất
của sự vật. Nhìn chung, trong vấn đề phương pháp luận, Francis Bacon là nhà
11


duy cảm, thiên về sự phát triển khoa học tự nhi ên thực nghiệm; là người có
công khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương
pháp luận mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại.
Thứ tư: Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo
Francis Bacon coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học
về con người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về
con người, Francis Bacon chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật",
"linh hồn động vật", "linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm
tính, có cả ở thực vật và động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một
dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần
kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các giác quan, điều khiển chức
năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể khi
con người chết đi. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế.
Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con người, mang tính thần
thánh. Vì con người có cả hai dạng linh hồn nên con người vừa rất gần với động
vật lại vừa có cái gì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con người không cho phép
con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con người cần có tôn giáo để vượt

qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người
niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà
vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người.
Nhìn chung, quan niệm trên của Francis Bacon thể hiện sự thoả hiệp giai cấp tư
sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo.

12


CHƯƠNG II:
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC FRANCIS BACON
ĐẾN NỀN KHOA HỌC THỰC NGHIỆM SAU NÀY
Ông là người đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vât kinh nghiệm và đặt
nền tảng cho nền khoa học thực nghiệm, đòi hỏi phải xây dựng một triết học
mới. Triết học phải là ”khoa học của mọi khoa học”, có nhiệm vụ xóa bỏ
những sai lầm chủ quan, loại bỏ những niềm tin mù quáng, nắm bắt trật tự của
thế giới để xây dựng và hiểu biết đúng thế giới. Ông đã trở thành tiếng nói
hùng hồn của lạc quan và quyết định của thời Phục Hưng.
Tất cả sự nghiệp tư tưởng Anh quốc đã theo đường hướng triết học
Bacon. Hobbes thừa hưởng quan điểm của ông để khởi xướng một thuyết
duy-vật, Locke theo phương pháp quy nạp của ông để lập một nền tâm lý học
thực nghiệm, nhấn mạnh sự quan sát và loại bỏ khía cạnh thần học và siêu
hình; và Bentham cũng ảnh hưởng Bacon khi đồng hoá cái hữu ích và cái
thiện. Bất cứ ở đâu có tinh thần khắc phục thay vì tinh thần cam chịu, ở đó có
ảnh hưởng Bacon.
Ông là tiếng nói của những người Âu châu đã biến đổi một lục địa từ
một cánh rừng hoang trở th ành một mảnh đất của kho tàng mỹ nghệ và khoa
học, đã biến bán đảo nhỏ của họ thành trung tâm thế giới. “Con người không
phải là những con vật đứng thẳng, nhưng chính là những thần linh bất diệt”.
Bacon bảo “Thượng đế đã ban cho chúng ta những linh hồn bằng cả vũ trụ,

nhưng chúng ta vẫn chưa thoả mãn dù chiếm được cả vũ trụ”. Mọi sự đều khả
hữu đối với con người. Thời gian còn ít, hãy cho chúng ta vài thế kỷ, chúng ta
sẽ chế phục và tái tạo tất cả. Có lẽ ít nhất chúng ta sẽ học được bài học cao
quý hơn cả, đấy chính là con người không phải cần đánh giặc với ng ười mà
chỉ cần tuyên chiến cùng những chướng ngại mà thiên nhiên đã đặt để cản
ngăn chiến thắng của mình”. Ta có thể nói không ngoa rằng có ba loại hay
bực tham vọng trong con người.

13


Loại thứ nhất là tham vọng của những người muốn bành trướng quyền
hạn mình trong xứ sở mình; điều ấy tầm thường và thoái hoá.
Loại thứ hai là tham vọng của những người nỗ lực bành trướng quyền
lực xứ sở mình và thống trị nhân loại, điều này dĩ nhiên có tư cách hơn song
cũng không kém tham tàn.
Nhưng nếu một người nỗ lực xây dựng và bành trướng quyền lực và sự
thống trị của loài người trong vũ trụ thì loại tham vọng ấy rõ ràng là vừa lành
mạnh hơn, vừa cao quý hơn hai loại kia”. Định mệnh quả đã khiến Bacon
phải bị dằn vặt giữa những khuynh hướng ấy xâu xé nhau để chiếm đoạt linh
hồn ông ta.
Tư tưởng triết học và khoa học mới phải xuất phát từ tinh thần “tri thức
là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”. Với quan niện thực tiễn
như thế, ông đã giúp cho xã hội ích nhiều cho việc mở rộng nền sản xuất cơ
khí và sử dụng hiệu quả máy móc đã tạo cơ sở thực tiễn vững chắc thúc đẩy
sự phát triển nhanh chóng của cơ học trong giai này. Và tư tưởng tri thức là
sức mạnh thì cho đến thời đại ngày nay giá trị này đã được chứng minh một
cách rõ rành. Tất cả những nước giàu có thì đều dựa vào nguồn lực tri thức
dồi dào của họ. Với những lý luận về ảo tưởng thì ông đã chỉ ra cho chúng ta
thấy rằng quá trình nhận thức của con người còn bị chi phối bởi các yếu tố

chủ quan. Với tư tưởng này thì cũng đã tạo một nền móng cho triết học sau
này có nhiều triết gia phát triển lên để tạo ra một quan điểm về triết học biện
chứng. Quan điểm đó dựa vào một số nguyên lý cơ bản để nhìn sự vật một
cách khách quan hơn. Điều này được thể hiện qua cách tiếp cận trực tiếp thế
giới tự nhiên mà không thông qua uy tin, lòng tin, tín điều.., ra sức hoàn thiện
phương tiện, công cụ nhận thưc và nhân cách, cá tính của từng con người,
phải quan sát để phát hiện ra các vấn đề mới.
Như vậy, Triết học duy vật siêu hình máy móc của ông đã trở thành cơ
sở lý luận tổng quát để giải quyết các vấn đề mang tính thế giới quan và xây
dựng bức tranh cơ học về thế giới, còn nội dung bức tranh cơ học tiếp tục
củng cố cơ sở khoa học khoa học cho các quan điểm siêu hình máy móc của
hình thực triết học duy vật này.

14


KẾT LUẬN
Tư tưởng triết học của Francis Bacon đã góp phần to lớn vào việc loại bỏ
những niềm tin mù quáng, nắm bắt trật tự của thế giới để xây dựng và hiểu
biết đúng vể thế giới. Còn phương pháp về khoa học mới của ông giúp khám
phá quy luật thế giới, tăng cường quyền lực tinh thần của con người làm chủ
và cải tạo thiên nhiên. Chính những tư tưởng của ông góp phần vào việc phát
triển một nên công nghiệp và thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức
khoa học và tiến bộ của kỹ thuật. Ông chủ đã chủ trương cải tạo xã hội băng
con đường tri thức khai sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Và
giúp góp phần to lớn trong ngành khoa học thực nghiệm. Các thành tựu khoa
học tự nhiên thời cận đại dùng các phương pháp nghiên cứu siêu hình của ông
cũng đã phản ánh các yếu tố biện chứng của tự nhiên. Chính triết học duy vật
máy móc đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thần học một
cách có hiệu quả, thúc đẩy trào lưu triết học cùng khoa học phát triển mạnh

mẽ, đẩy mạnh quá trình nhận thức thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì triết học của ông còn một vài
điểm hạn chế. Do bản tính siêu hình mà khi thâm nhập trở lại khoa học, triết
học duy vật siêu hình máy móc đã làm lu mờ các yếu tố biện chứng chứa
trong các thành tựu đó. Triết học duy vật siêu hình máy móc nó cũng là một
rào cảng trên con đường nhận thức thế giới. Tuy nhiên trên nền tảng triết học
duy vật siêu hình của Francis Bacon kết hợp với các tư tưởng triết học khác
tạo ra một nền triết học duy vật biên chứng trong thời đại ngày nay.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học Hy Lạp cổ đại, NXB Lý luận chính trị - Hà nội, 2006
2. Triết học Phương Tây Trung cổ, Phục hưng, Cận đại; NXB Lý luận
chính trị - Hà nội, 2007
3. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Lý luận chính trịHà nội, 2006.
4. Giáo trình Kinh tế chính trị, Nhà xuất bản Lý luận chính trị- Hà nội, 2006.
5. Giáo trình Triết học, Nhà xuất bản Lý luận chính trị- Hà nội, 2007.
6. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin, NXB Đại học
kinh tế quốc dân, Hà nội, 2008.
7. Mác- Angghen Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1995.
8. Will Durant, “The Story of Philosophy” ; Trí Hải và Bửu Đích dịch và
chú Thích
9. PGS. TS Nguyễn Tiến Dũng, “Lịch Sử Triết Học Phương Tây”, Nhà
xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.

16



MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG......................................................................................2
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY - TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA
TRIẾT HỌC CỦA FRANCIS BACON.........................................................2
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục
hưng và cận đại................................................................................................2
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội......................................................................2
1.1.2. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại...............4
1.1.3 Tư tưởng triết học cơ bản của Francis Bacon Francis Bacon............5
CHƯƠNG II: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC FRANCIS
BACON ĐẾN NỀN KHOA HỌC THỰC NGHIỆM SAU NÀY......................13
KẾT LUẬN....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................16

17



×