Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Ảnh hưởng của vòng đời đến các chiến lược tái cấu trúc công ty trong bối cảnh kiệt quệ tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------------

LÊ HUỲNH MINH PHƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA VÒNG ĐỜI ĐẾN CÁC CHIẾN
LƯỢC TÁI CẤU TRÚC CÔNG TY TRONG BỐI
CẢNH KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------------

LÊ HUỲNH MINH PHƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA VÒNG ĐỜI ĐẾN CÁC CHIẾN
LƯỢC TÁI CẤU TRÚC CÔNG TY TRONG BỐI
CẢNH KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Hải Lý


TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Ảnh hưởng của vòng đời đến các chiến lược tái cấu trúc
công ty trong bối cảnh kiệt quệ tài chính” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa
được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
TP. HCM, ngày 27 tháng 9 năm 2017
Tác giả

Lê Huỳnh Minh Phương


MỤC LỤC

TRANG PHỤC BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT ....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .......................................................................................... 2
1.1 Giới thiệu đề tài .............................................................................................. 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 3
1.3 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 3
1.4 Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................... 3
1.5 Cấu trúc bài nghiên cứu .................................................................................. 4
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ
GIỚI ............................................................................................................................... 5

2.1 Tổng quan các lý thuyết ................................................................................ 5
2.1.1 Lý thuyết vòng đời ................................................................................ 5
2.1.2 Khái niệm kiệt quệ tài chính .................................................................. 9
2.1.3 Lý thuyết về tái cấu trúc công ty ......................................................... 10
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới ................................................. 12
2.2.1 Các nghiên cứu về vòng đời của công ty ........................................... 12
2.2.2 Các nghiên cứu về kiệt quệ tài chính và tái cấu trúc công ty............. 13
2.2.3 Nghiên cứu về tác động của vòng đời, kiệt quệ tài chính đến lựa chọn
chiến lược tái cấu trúc công ty .................................................................... 15
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 18
3.1 Các bước nghiên cứu................................................................................... 19


3.2 Mô hình nghiên cứu và các biến ................................................................. 21
3.2.1 Mô hình nghiên cứu ........................................................................... 21
3.2.2 Các biến trong nghiên cứu ................................................................. 26
3.3 Dữ liệu nghiên cứu ...................................................................................... 32
3.3.1 Lựa chọn mẫu ..................................................................................... 32
3.3.2 Thu thập dữ liệu ................................................................................. 33
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. 35
4.1 Phân tích thống kê mô tả các biến trong mô hình ....................................... 35
4.2 Kiểm định sự tương quan các biến trong mô hình và đa cộng tuyến ......... 36
4.2.1 Ma trận tương quan đơn tuyến tính giữa các cặp biến Pearson ......... 36
4.2.2 Kiểm định đa cộng tuyến trong mô hình bằng nhân tử phóng đại
phương sai VIF............................................................................................ 37
4.3 Phân tích kết quả hồi quy ............................................................................ 38
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN .......................................................................................... 46
5.1 Tóm tắt kết quả nghiên cứu ........................................................................ 46
5.2 Hạn chế của đề tài và gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo ........................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

HNX

Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội

HSX

Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Xem xét các đặc trưng của các giai đoạn vòng đời ........................................ 7
Bảng 3.1: Kỳ vọng cho các mô tả vòng đời ở mỗi giai đoạn ........................................ 19
Bảng 3.2: Tóm tắt mô tả các biến ................................................................................. 32
Bảng 3.3: Tóm tắt kỳ vọng dấu của các biến độc lập chính ......................................... 33
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình ....................................................... 35
Bảng 4.2: Ma trận tương quan tuyến tính đơn giữa các cặp biến độc lập..................... 37
Bảng 4.3: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai ............. 38
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy mô hình giải thích yếu tố CEO, INV, COGS, ASSETS, OPS
....................................................................................................................................... 40
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy mô hình giải thích yếu tố DIV, NetDebt, NetEquity ......... 42


1

Tóm tắt

Trên cơ sở đóng góp cho vấn đề quản trị tài chính trong các doanh nghiệp, đặc biệt
là các biện pháp đối phó khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính, tác
giả thực hiện luận văn “Ảnh hưởng của vòng đời đến các chiến lược tái cấu trúc
công ty trong bối cảnh kiệt quệ tài chính ở Việt Nam.”
Luận văn áp dụng theo phương pháp tương tự như nghiên cứu của SzeKee Koh,
Robert B.Durand, Lele Dai và Millicent Chang (2014) để xem xét tác động của
vòng đời đến quyết định tái cấu trúc các công ty đang lâm vào kiệt quệ tài chính ở
Việt Nam. Mẫu bao gồm 484 doanh nghiệp đã và đang niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2015.
Kết quả nghiên cứu tìm thấy một vài bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa
kiệt quệ tài chính, vòng đời của công ty với việc lựa chọn các chiến lược tái cấu
trúc. Mở ra hướng cho các nghiên cứu sau về vấn đề “Các doanh nghiệp nên lựa
chiến lược tái cấu trúc nào?”


2

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Giới thiệu đề tài
Tại Việt Nam, quản trị tài chính trong các doanh nghiệp có những lúc bị xem nhẹ.
Việc lựa chọn nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu hoạt động kinh doanh đôi khi được
hình thành một cách tự phát, không dựa trên những nguyên lý cơ bản của một chiến
lược quản trị tài chính hiện đại, kết hợp với tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả
trong bối cảnh biến động khó lường của thị trường thì tình trạng thua lỗ khó có thể
tránh khỏi. Đôi khi kiệt quệ tài chính chỉ có nghĩa là công ty đang gặp khó khăn, rắc
rối về tài chính tạm thời, nhưng đôi khi nó có thể đưa đến tình trạng phá sản.
Đứng trước tình trạng kiệt quệ tài chính và nguy cơ phá sản của công ty, các cổ
đông sẽ có những áp lực khiến ban điều hành thực hiện những hành động cứu vãn
tình hình. Các chủ nợ cũng cần những sự cải cách trong quản lý cũng như hoạt động

của công ty để đảm bảo khả năng trả nợ, đặc biệt là khi các thỏa thuận nợ có thể bị
vi phạm. Ban điều hành sẽ là người đưa ra các biện pháp điều chỉnh, tái cấu trúc lại
doanh nghiệp để cải thiện tình hình tài chính, hoạt động nhằm đáp ứng kỳ vọng của
nhà đầu tư và chủ nợ.
Vấn đề đặt ra là đứng trước tình trạng kiệt quệ tài chính thì những biện pháp tái cấu
trúc doanh nghiệp nào sẽ được lựa chọn, ví dụ như: tái cấu trúc ban điều hành, tái
cấu trúc hoạt động, tái cấu trúc tài chính hay kết hợp những biện pháp đó. Và liệu
yếu tố vòng đời của doanh nghiệp có tác động đến việc lựa chọn biện pháp tái cấu
trúc doanh nghiệp hay không.
Cho đến nay, chưa có nhiều nghiên cứu trên thế giới về vấn đề trên. Gần đây, nhóm
tác giả SzeKee Koh, Robert B.Durand, Lele Dai và Millicent Chang (2014) đã
nghiên cứu tác động của vòng đời đến quyết định tái cấu trúc các công ty đang lâm
vào kiệt quệ tài chính và đã đạt được những kết quả nhất định. Nhận thấy tính thực
tiễn của vấn đề, tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của vòng đời đến
các chiến lược tái cấu trúc công ty trong bối cảnh kiệt quệ tài chính ở Việt Nam.”


3

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tác giả thực hiện bài nghiên cứu này với mục tiêu nghiên cứu là tìm bằng chứng
thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng của vòng đời đến việc lựa chọn chiến lược tái cấu
trúc công ty, trong bối cảnh kiệt quệ tài chính. Từ đó các doanh nghiệp có cái nhìn
rõ ràng hơn về vấn đề lựa chọn chiến lược tái cấu trúc công ty trong bối cảnh kiệt
quệ tài chính.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu dựa trên dữ liệu báo cáo tài chính đã kiểm toán của 484 công ty phi tài
chính niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSX) trong giai đoạn 10 năm từ năm 2006
đến năm 2015. Bài nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp của Szekee Koh,

Robert B.Durand, Lele Dai và Millicent Chang (2014).
Đầu tiên, tác giả phân loại các công ty theo từng giai đoạn trong vòng đời: hình
thành, phát triển, trưởng thành và suy thoái. Các chỉ số miêu tả vòng đời gồm có: tỷ
lệ cổ tức trên thu nhập, phần trăm tăng trưởng doanh thu, chi tiêu vốn trên tổng giá
trị công ty và tuổi của công ty. Các công ty sẽ được phân chia vào từng giai đoạn
vòng đời dựa trên tứ phân vị của giá trị của các chỉ số miêu tả vòng đời.
Tiếp theo, tác giả xem xét liệu một công ty có rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính
hay không. Một công ty một được xem là kiệt quệ tài chính khi nó có hai năm liên
tiếp rơi vào khoảng gần với vỡ nợ. Khoảng gần với vỡ nợ được tính dựa trên mô
hình của Merton (1974). Ở phần này chủ yếu sử dụng số liệu kế toán.
Cuối cùng, tác giả sử dụng các mô hình hồi quy logit dạng bảng để xem xét ảnh
hưởng của vòng đời đến việc tái cấu trúc công ty.
1.4 Ý nghĩa của đề tài
Đối với vấn đề vòng đời và lựa chọn chiến lược tái cấu trúc của doanh nghiệp trong
tình trạng kiệt quệ tài chính, trên thế giới cũng đã có bằng chứng thực nghiệm cho
thấy vòng đời có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn chiến lược tái cấu trúc nào.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay vấn đề chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu. Đề tài đưa ra bằng chứng khách quan khoa học giúp cho các doanh


4

nghiệp có cái nhìn rõ hơn về việc lựa chọn phương pháp tái cấu trúc nào là thích
hợp trong trường hợp phải đối mặt với kiệt quệ tài chính, từ đó có những chính sách
hoặc điều chỉnh phù hợp hơn để cải thiện tình hình doanh nghiệp.
1.5 Cấu trúc bài nghiên cứu
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu. Tác giả giới thiệu tổng quan về đề tài
nghiên cứu như: lý do chọn đề tài, mục tiêu và các vấn đề nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu.
Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trên thế giới. Trong phần này,

tác giả trình bày tổng quan về lý thuyết vòng đời, kiệt quệ tài chính và tái cấu trúc
công ty; Đồng thời tác giả giới thiệu các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thế
giới trong thời gian qua.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Phần này đề cập chi tiết về phương pháp
nghiên cứu, các bước thực hiện nghiên cứu, xây dựng biến và xử lý dữ liệu đầu vào.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu. Kết quả từ mô hình sẽ được trình bày trong phần
này. Sau đó là các đánh giá, so sánh và hiệu chỉnh cho mô hình phù hợp hơn với
tình hình Việt Nam.
Chương 5: Kết luận. Tác giả tóm tắt kết quả nghiên cứu cũng như nêu lên những
hạn chế hoặc mở rộng của đề tài.


5

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRÊN
THẾ GIỚI
2.1 Tổng quan các lý thuyết
2.1.1 Lý thuyết vòng đời
Lý thuyết vòng đời cho rằng sự tăng trưởng và các chiến lược hấp thụ vốn là khác
nhau ở những giai đoạn khác nhau trong vòng đời của một công ty. (Anthony và
Ramesh 1992), vòng đời đó bao gồm bốn giai đoạn: khởi sự, phát triển, trưởng
thành và suy thoái.
Mỗi giai đoạn các công ty có biểu hiện khác nhau về cấu trúc, chiến lược tổ chức,
và phong cách ra quyết định. (Adizes 2004; Miller and Friesen 1984).
Lý thuyết vòng đời của Mueller (1972)
Mueller cho rằng mỗi doanh nghiệp có một vòng đời tương đối xác định. Sự không
chắc chắn là trở ngại chủ yếu cho việc thành lập một công ty mới hay việc gia nhập
vào một ngành khác của một công ty. Rào cản này sẽ được phá bỏ khi những người
sáng lập tin rằng họ có lợi thế đặc biệt hoặc kiến thức cho phép họ nhìn thấu những
sự không chắc chắn xung quanh. Thường thì lợi thế đó là những ý tưởng hay phát

minh mới, một kỹ thuật marketing mới hay một cấu trúc tổ chức công ty hiệu quả
hơn. Trong giai đoạn đầu, công ty đầu tư tất cả nguồn lực để phát triển các sáng
chế và cải thiẹ̛n khả na̛ng sinh lợi, đồng thời tạo dựng mợt chỗ đứng trên thị
trường. Người sáng lập phải cam kết với những người cung cấp nguồn vốn ban
đầu một khoản thanh toán bằng với lãi suất thị trường cộng thêm một khoản cho sự
mạo hiểm và nguy cơ phá sản.
Nếu ý tưởng cải tiến là một ý tưởng tốt, công ty sẽ mở rộng và bước qua giai đoạn
phát triển. Lúc này công ty tham gia thành công vào thị trường mới và mở rợng
khách hàng trước khi các đối thủ cạnh tranh chủ yếu xuất hiẹ̛n. Lợi nhuận mong
đợi trên đầu tư giảm dần theo sự giảm của yếu tố rủi ro ban đầu. Trong suốt giai
đoạn tăng trưởng nhanh chóng này, cổ đông sẽ muốn tái đầu tư tất cả vốn và lợi
nhuận cho cơ hội tăng trưởng rõ ràng từ ý tưởng mới. Điều đó cũng có thể dẫn đến
nhu cầu tăng thêm nguồn vốn từ bên ngoài trong suốt giai đoạn.


6

Và sự cạnh tranh ngày càng tăng lên, các công ty khác bắt đầu làm theo và cải tiến
nhờ vào ý tưởng của người sáng lập ở trên, cơ hội lợi nhuận của công ty bắt đầu
giảm dần. Cuối cùng sự bão hòa của thị trường xảy ra, góp thêm vào sự suy giảm
lợi nhuận. Trong giai đoạn này, các cổ đông thường không mang tất cả lợi nhuận
của họ tái đầu tư và người quản lý muốn tối đa hóa lợi ích của cổ đông sẽ bắt đầu
chi trả cổ tức. Trong các giai đoạn sau này, Muller cũng đã chỉ rõ rằng dòng tiền nội
tại cuối cùng đi nhanh hơn các cơ hội đầu tư và chi phí vốn thì giảm tương ứng với
sự giảm tính bất ổn.
Với thị trường đối với sản phẩm cũ ngày càng sụt giảm, phần lợi nhuận được
chuyển vào cổ tức ngày càng tăng. Cuối cùng, vốn cổ phần cũng tiêu hết và ngày
cuối cùng của công ty, người sáng lập chi trả dòng lợi nhuận sau tất cả các chi phí
cho cổ đông dưới hình thức cổ tức. Theo đó, giá trị chứng khoán nắm giữ rơi xuống
0 và bằng với giá trị sổ sách của tài sản.

Kịch bản tương tự như trên cho các công ty phát triển dòng sản phẩm đa dạng. Khi
mà thị trường ngày càng sụt giảm đối với sản phẩm cũ, công ty có thể phát triển khả
năng tiến hành những đổi mới để tiến vào những khu vực mới - thường là có liên
quan gần với dòng sản phẩm ban đầu. Từ đó, công ty tiến vào những lĩnh vực mới
hơn có liên quan với bộ sản phẩm thứ hai. Sự mở rộng và đa dạng hóa này tiếp tục
lan rộng từ vị trí xuất phát điểm của công ty. Suốt quá trình cho đến khi phân quyền
cấu trúc tổ chức của công ty. Bất kỳ sự mở rộng nào khác có thể chỉ làm giảm bớt
tính hiệu quả trong nội bộ.
Các giai đoạn của vòng đời của Miller và Friesen (1984)
Các công ty trong giai đoạn khởi sự thường nhỏ, bị chi phối bởi người chủ doanh
nghiệp, đơn giản, cấu trúc chưa phân hóa, có hệ thống quyền lực tập trung cao và
chú trọng đáng kể vào việc cải tiến.
Công ty trong giai đoạn phát triển thường có quy mô trung bình với nhiều cổ đông
hơn, và đạt được mức tăng trưởng vượt bật. Người quản lý chịu trách nhiệm nhiều
hơn trong việc ra quyết định, và bắt đầu xuất hiện sự tách biệt giữa những người sở
hữu và ban điều hành.


7

Các công ty trưởng thành thì dường như không thích hợp để tiến hành đổi mới hoặc
theo đuổi các chiến lược rủi ro bằng các công ty khởi sự và tăng trưởng. Các công
ty trưởng thành cố gắng kinh doanh ổn thỏa trong một thị trường xác định.
Các công ty trong giai đoạn suy thoái thì rơi vào tình trạng trì trệ và chịu lợi nhuận
thấp. Phần lớn chấp nhận một chiến lược ‘harvest’ khi mà mục tiêu chính là thu lại
càng nhiều tiền từ các hoạt động hiện hành càng tốt.
Bảng 2.1: Xem xét các đặc trưng của các giai đoạn vòng đời
Giai đoạn

Trạng thái


Tổ chức

Đổi mới&Chiến lược

Khởi sự

- Công ty nhỏ

- Cơ cấu không quy củ

- Cái tiến đáng kể

- Trẻ

- Chưa phân hóa

trong những dòng sản

- Bị chi phối bởi sự - Quyền lực tập trung phẩm
quản lý của người sở cao
hữu

- Chiến lược lỗ hổng

- Phương pháp xử lý thị trường

- Môi trường thuần thông tin và ra quyết - Chấp nhận rủi ro

Phát triển


nhất

định chưa phát triển

- Quy mô vừa

- Chuẩn hóa một vài - Mở rộng phạm vi thị

- Lâu năm hơn

thứ trong cơ cấu

- Nhiều cổ đông

- Chức năng cơ bản gần hơn đến các khu

thực tế

trường sản phẩm tiến

- Môi trường hỗn tạp trong tổ chức

vực liên quan

và cạnh tranh hơn

- Gia tăng cải tiến cho

- Sự phân hóa vừa phải


- Tập trung hóa giảm đi các dòng sản phẩm.
một chút

- Tăng trưởng nhanh

- Phương pháp xử lý chóng
thông tin và ra quyết
định bước đầu phát
triển.
Trưởng thành - Lớn hơn
- Tiếp tục già đi

- Cơ cấu quy củ

- Chiến lược củng cố

- Chức năng cơ bản thị trường sản phẩm


8

- Quyền sở hữu bị trong tổ chức

- Tập trung vào hiệu

phân tán

quả cung ứng cho thị


- Sự phân hóa vừa phải

- Môi trường cạnh - Tập trung hóa vừa trường xác định
tranh và càng hỗn tạp phải
hơn

- Chủ nghĩa bảo thủ

- Xử lý thông tin và ra - Tăng trưởng chậm
quyết định trong giai hơn
đoạn phát triển

Phục hồi

- Quy mô rất lớn

- Sự phân chia cơ bản - Chiến lược đa dạng

- Môi trường rất hỗn của tổ chức

hóa thị trường sản

tạp, cạnh tranh và - Phân hóa cao

phẩm, tiến vào một vài

năng động

- Kiểm soát tinh vi, thị trường không liên
xem xét và truyền đạt quan

trong xử lý thông tin; - Lên kế hoạch và
nhiều thủ tục phân tích chập nhận rủi ro ở
hơn trong ra quyết định mức cao
- Cải tiến trọng yếu
- Tăng trưởng nhanh
chóng

Suy tàn

- Quy mô thị trường

- Cơ cấu quy củ

- Cải tiến ở mức thấp

- Môi trường hỗn tạp - Hầu hết các chức - Cắt giảm giá
và cạnh tranh

năng cơ bản trong tổ - Thị trường sản phẩm
chức

hợp nhất

- Sự phân hóa và tập - Đóng cửa các công
trung hóa vừa phải

ty con

- Phương pháp ra quyết - Bảo thủ và không
định và hệ thống xử lý thích rủi ro

thông tin bớt tinh vi hơn

- Tăng trưởng chậm

Nguồn: Miller, D., Friesen, P., 1984. A Longitudinal Study Of The Corporate life
Cycle. Management Science 30, 1161-1183.


9

2.1.2 Khái niệm kiệt quệ tài chính
Chen, Weston, và Altman (1995) định nghĩa kiệt quệ là khi mà một công ty có giá
trị thanh lý tổng tài sản ít hơn tổng giá trị yêu cầu của chủ nợ. Nếu kéo dài, tình
trạng này có thể dẫn đến thanh lý bắt buộc hoặc phá sản; Vì lý do này, kiệt quệ tài
chính thường được ám chỉ là có nguy cơ phá sản.
Altman và Hotchkiss (2006) cho rằng một công ty kinh doanh không thành công
được định nghĩa theo nhiều cách để miêu tả quá trình công ty phải đối mặt và phân
loại vấn đề kinh tế phức tạp. Bốn từ thường được sử dụng trong là thất bại (failure),
mất khả năng trả nợ (insolvency), vỡ nợ (default) và phá sản (bankruptcy). Mặc dù
những từ này thỉnh thoảng được dùng để thay cho nhau nhưng chúng vẫn có sự
khác biệt trong cách dùng.
Thất bại (failure), xét theo tiêu chuẩn kinh tế thì thất bại có nghĩa là tỷ lệ lợi nhuận
thực tế trên vốn đầu tư liên tục thấp hơn đáng kể so với những khoản đầu tư tương
tự khác. Khác hơn tiêu chuẩn kinh tế một chút, thất bại còn được dùng để chỉ việc
doanh thu không đủ để bù đắp chi phí và lợi nhuận trung bình trên đầu tư liên tục
thấp hơn chi phí vốn của công ty. Trạng thái kinh tế này không nói lên được thực
thể đang tồn tại hay đã đình chỉ. Quyết định ngừng hoạt động được căn cứ vào lợi
nhuận mong đợi và khả năng bù đắp các chi phí thay đổi của công ty. Nên lưu ý
rằng một công ty có thể thất bại về mặt kinh tế trong nhiều năm, nhưng vẫn đáp ứng
được các nghĩa vụ hiện hành vì không có các khoản nợ phải trả sắp đến hạn.

Mất khả năng trả nợ (Insolvency) là một thuật ngữ khác nói về biểu hiện tiêu cực
của công ty và nó thường được sử dụng trong cách nói thiên về kỹ thuật hơn. Mất
khả năng trả nợ tồn tại khi một công ty không thể thực hiện các nghĩa vụ nợ hiện
hành, báo hiệu mất khả năng thanh toán.
Mất khả năng trả nợ trong chiều hướng phá sản thì nghiêm trọng và kéo dài hơn là
tình trạng tạm thời. Một công ty được xem là mất khả năng trả nợ khi có tổng nợ
vượt hơn giá trị trường của tổng tài sản. Vì vậy, giá trị thuần thực tế của công ty là
một số âm.


10

Vỡ nợ (default) là một tình trạng khác của công ty cũng liên quan đến kiệt quệ tài
chính. Vỡ nợ vừa mang tính kỹ thuật vừa mang tính pháp lý và luôn bao hàm mối
quan hệ giữa chủ nợ và công ty mắc nợ. Vỡ nợ kỹ thuật xảy ra khi công ty mắc nợ
vi phạm điều khoản hợp đồng với chủ nợ và có thể trở thành căn cứ cho việc tố
tụng. Ví dụ sự vi phạm một điều khoản nợ như tỷ lệ nợ có thể là nền căn cứ cho vỡ
nợ kỹ thuật. Trong thực tế, vỡ nợ thường được thương lượng lại và thường được
xem như tín hiệu cho việc tình trạng công ty đang xấu đi. Khi một công ty không trả
được khoản nợ đến hạn hay thanh toán trái phiếu, và thường xuyên không chi trả
các nghĩa vụ lãi định kỳ rất có thể sẽ dẫn đến vỡ nợ pháp lý.
Phá sản (bankruptcy). Khi công ty không thể thực hiện nghĩa vụ nợ của mình, tiến
hành thủ tục xin phá sản và được toàn án chấp thuận. Khi đó công ty thực hiện
thanh lý tài sản để thanh toán các khoản nợ theo luật định hoặc có thể nỗ lực thực
hiện chương trình tái cấu trúc.
Tóm lại, thuật ngữ kiệt quệ tài chính được sử dụng để ám chỉ tình trạng gặp khó
khăn về tài chính của một công ty. Một công ty rơi vào kiệt quệ tài chính có thể
không đáp ứng được hoặc không đáp ứng không đầy đủ cái nghĩa vụ nợ đối với chủ
nợ, có thể gặp khó khăn trong thanh khoản, hoặc có doanh thu không bù đắp được
chi phí phát sinh…trong một hoặc nhiều năm liên tiếp. Mà các trường hợp đều có

thể dẫn đến khả năng phá sản cho công ty.
Một công ty khi phải đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính có thể sẽ phải gánh
chịu hai loại chí phí: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp của
kiẹ̛t quẹ̛ tài chính bao gồm các chi phí pháp lý, chi phí kiểm toán, chi phí thuê
các chuyên gia có kinh nghiẹ̛m để tư vấn và bán tài sản để trả nợ. Chi phí gián
tiếp của kiẹ̛t quẹ̛ tài chính bao gồm các tổn thất của doanh nghiẹ̛p do mất thị
phần, giảm giá trị thị trường và mất các nhân sự chủ chốt.
2.1.3 Lý thuyết về tái cấu trúc công ty
Tái cơ cấu về quản lý
Khi một công ty đang rơi vào tình trạng khó khăn thì thay đổi ban quản lý cấp cao
được xem như điều kiện đầu tiên để xoay chuyển tình thế thành công. Khi cách thức


11

hoạt động cũ cần được thay đổi mạnh mẽ, ban điều hành cũ với những thói quen
của họ rất khó để cải cách triệt để. Thường thì ngân hàng và các chủ nợ sẽ chỉ tiếp
tục hỗ trợ tài chính khi họ tin rằng ban quản lý có thể kiểm soát cuộc khủng hoảng.
Một sự thay đổi những người quản lý cấp cao là minh chứng rõ ràng cho ngân hàng,
nhà đầu tư và người lao động rằng một vài động thái tích cực đang được tiến hành
để cải thiện tình hình công ty, ngay cả khi những yếu kém của công ty không hẳn là
do sự quản lý của ban điều hành (Slatter, 1984).
Tái cơ cấu về hoạt động và tài sản
Tái cấu trúc hoạt động được lên kế hoạch để thực hiện trước hết, để trong ngắn hạn
có thể cải thiện dòng tiền và lợi nhuận. Tái cấu trúc về hoạt động/hiệu quả được
phân thành tái cấu trúc hoạt động và tái cấu trúc tài sản hoạt động.
Tái cấu trúc hoạt động bao gồm cắt giảm chi phí, tạo doanh thu và những chiến lược
cắt giảm tài sản hoạt động nhằm cải thiện hiệu suất (Slatter, 1984). Cắt giảm chi phí
có hiệu quả khi mà công ty đang có hoạt động yếu kém, kiểm soát chi phí chưa tốt.
Chiến lược tạo ra doanh thu có thể được theo đuổi tập trung vào những dòng sản

phẩm hiện tại, bắt đầu giảm giá (hoặc tăng giá nếu sản phẩm có cầu không nhạy
cảm với giá) và tăng chi phí marketing nhằm khuyến khích nhu cầu (Hofer, 1980).
Khi công ty hoạt động dưới khả năng, cắt giảm tài sản để cải thiện năng suất của tài
sản là cần thiết, và cũng làm tăng dòng tiền cần cho công ty đang lâm vào kiệt quệ.
Cắt giảm tài sản hoạt động ám chỉ việc bán, đóng cửa các đơn vị kinh doanh và sát
nhập các tài sản cố định còn lại như nhà máy, thiết bị và văn phòng, và cắt giảm tài
sản ngắn hạn như hàng tồn kho và nợ phải thu. Điều này cần thiết để nâng cao hiệu
quả hoạt động hiện tại của công ty (Bibeault, 1982; Hofer, 1980; Schendel, Patton
và Riggs, 1976).
Khi một công ty lâm vào kiệt quệ tài chính, hiệu quả hoạt động kinh doanh là yếu
tối được xem xét đầu tiên trong việc tìm ra nguyên nhân dẫn đến kiệt quệ của công
ty. Giai đoạn tái cơ cấu hoạt động hướng tới ổn định hiệu quả hoạt động trong ngắn
hạn. Từ việc cắt giảm chi phí, bán các tài sản hoạt động kém hiệu quả và tối ưu hóa
doanh thu có thể mang về dòng tiền tạm thời có thể giảm áp lực tài chính cho công


12

ty. Ngoài ra, chiến lược không chỉ giải quyết tình trạng khó khăn hiện thời mà còn
tạo tiền đề cho mục tiêu lâu dài là lợi nhuận trong phát triển dài hạn. Tuy nhiên, đây
có thể là một chiến lược cần thiết nhưng không đủ để vực dậy đối với nhiều công ty
(Grinyer, Mayer và McKiernan, 1988).
Tái cấu trúc tài chính
Tái cấu trúc tài chính là xây dựng lại cấu trúc vốn của công ty để làm giảm bớt gánh
nặng lãi và các khoản nợ phải trả. Tái cấu trúc tài chính được chia thành hai chiến
lược là chiến lược dựa trên vốn cổ phần và chiến lược dựa trên nợ vay.
Chiến lược dựa trên vốn cổ phần bao gồm cắt hoặc tạm ngưng cổ tức, phát hành cổ
phiếu. Ví dụ như phát hành quyền mua, phát hành ra công chúng và chào bán cho tổ
chức. Các công ty đang lâm vào kiệt quệ tài chính có khuynh hướng giảm hoặc bỏ
qua cổ tức bởi vì hạn chế thanh khoản, các ràng buộc hạn chế trong các thỏa thuận

vay nợ hoặc cân nhắc chiến lược như cải thiện vị thế mua bán của công ty với
nghiệp đoàn (DeAngelo và DeAngelo, 1990).
Chiến lược dựa trên nợ nói đến tái cấu trúc bao quát các khoản nợ của công ty. Các
công ty tái cấu trúc nợ cũng để tránh kiệt quệ tài chính hoặc giải quyết tình trạng
kiệt quệ hiện tại. Gilson (1989,1990) định nghĩa tái cấu trúc nợ như là một giao dịch
thay thế một khoản nợ hiện tại bằng một hợp đồng mới, với một hoặc vài đặc điểm
sau: (1) lãi hoặc nợ gốc giảm; (2) thời gian đáo hạn kéo dài; (3) sự hoán đổi nợ-vốn
cổ phần.
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới
2.2.1 Các nghiên cứu về vòng đời của công ty
Năm 1992, Anthony và Rames đã tiến hành nghiên cứu xem liệu cách mà thị trường
chứng khoán phản ứng lại với các chỉ số kế toán của công ty có liên quan với vòng
đời của công ty đó hay không. Kết quả nhận thấy có mối quan hệ giữa yếu tố tăng
trưởng doanh thu không mong đợi, đầu tư vốn không mong đợi với các giai đoạn
vòng đời.
Năm 2006, các tác giả DeAngelo, DeAngelo và Stulz đã có nghiên cứu về mối quan
hệ giữa chính sách cổ tức và tỷ lệ lợi nhuận/vốn góp, như một kiểm định của lý


13

thuyết vòng đời. Họ xem xét có đúng là cổ tức được chia nhiều hơn khi lợi nhuận
giữ lại chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn (và tổng tài sản), và rơi xuống gần
bằng 0 khi vốn góp chiếm nhiều hơn lợi nhuận giữ lại.
Các tác giả nhận thấy tỷ lệ lợi nhuận/vốn góp có tác động lớn đến khả năng chi trả
cổ tức của các công ty. Họ cũng cho thấy sự tăng lên ồ ạt các công ty không giữ lại
lợi nhuận (từ 11.8% năm 1978 lên 50.2% trong năm 2002). Các bằng chứng của họ
đều ủng hộ lý thuyết vòng đời.
2.2.2 Các nghiên cứu về kiệt quệ tài chính và các chiến lược tái cấu trúc
công ty.

Kiệt quệ tài chính
Trước đây, hầu hết các nghiên cứu về kiệt quệ tài chính đều sử dụng mô hình cho
các giai đoạn đơn lẻ. Và vì bỏ qua sự thật là các công ty thay đổi theo thời gian, các
mô hình thống kê này đưa ra xác suất phá sản là chệch và không vững. Năm 2001,
Shumway có sử dụng một mô hình hazard đơn giản để dự báo phá sản qua các thập
niên. Mô hình hazard này đơn giản để ước lượng, vững và chính xác hơn trong dự
báo kiệt quệ.
Bharath và Shumway, 2008, đã sử dụng mô hình DD (mô hình xác định khoảnh
cách đến thất bại Merton) để dự báo kiệt quệ tài chính. Mô hình này dựa trên mô
hình định giá trái phiếu của Merton năm 1974. So sánh với các mô hình dự báo
nguy cơ kiệt quệ thì mô hình Merton DD dường như không đưa ra một thống kê đầy
đủ cho kiệt quệ. Tuy nhiên, biến xác suất Merton DD là một biến hữu dụng để dự
báo kiệt quệ.
Tái cơ cấu về quản lý
Các nghiên cứu thực nghiệm của Coughlan và Schmidt (1985); Warner, Watt và
Wruck (1988) đã tìm thấy bằng chứng cho mối tương quan ngược chiều giữa xác
suất thay đổi người quản lý và thành quả chứng khoán của một công ty. Gilson
(1989,1990) và Murphy và Zimmerman (1993) tìm thấy rằng thay đổi quản lý cấp
cao là có ý nghĩa đối với các công ty kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên, phản ứng của thị
trường chứng khoán đối với sự thay đổi nhà quản lý cấp cao lại rắc rối hơn. Trong


14

đó, có những báo cáo rằng thay đổi quản lý đối với thị trường là cùng chiều
(Bonnier và Bruner, 1989), ngược chiều (Khanna và Poulsen, 1995) và trung hòa
(Warner, Watt và Wruck, 1988; Weisbach, 1988).
Từ những bài nghiên cứu trên không cho chúng ta thấy rõ rằng thay đổi người quản
lý trong các công ty kiệt quệ tài chính có góp phần trong việc hồi phục công ty hay
không. Nếu xem phản ứng của thị trường chứng khoán như một sự đo lường hiệu

quả nhận thấy được của thay đổi thì chứng cứ của những bài nghiên cứu trên là
không rõ ràng.
Tái cơ cấu về hoạt động
Tái cấu trúc hoạt động thường là chiến lược hồi phục đầu tiên được thực hiện bởi
các công ty kiệt quệ tài chính (Hofer, 1980). Đo lường hiệu quả trực tiếp bằng cả
doanh thu tối đa và chi phí tối thiểu.
Các nghiên cứu tìm thấy mối liên kết giữa chiến lược tái cơ cấu hiệu quả hoạt động
với sự khôi phục thành công các công ty như Finkin, 1985; Hambrick và Shcecter,
1983; John, Lang và Netter, 1992… Tuy nhiên, liệu tái cấu trúc hoạt động có dẫn
đến sự phục hồi khỏi phá sản hay không vẫn cần được kiểm định thực tế.
Tái cấu trúc tài chính
Các chiến lược tạo ra tiền mặt như bán tài sản và phát hành cổ phiếu là những chiến
lược thường được sử dụng để làm giảm nhẹ kiệt quệ tài chính, trả các khoản đi vay,
giảm chi phí lãi suất và cải thiện dòng tiền (Slatter, 1984).
Theo thực nghiệm, DeAngelo và DeAngelo (1990), John, Lang và Netter (1992)
nhận thấy rằng các công ty lớn phản ứng lại với kiệt quệ tài chính bằng việc cắt
giảm đột ngột cổ tức. Các công ty kiệt quệ cũng có thể tăng vốn cổ phần thông qua
phát hành cổ phiếu nhiều hơn các công ty không bị kiệt quệ vì áp lực từ các chủ nợ.
Lựa chọn các chiến lược và hiệu quả
Vực dậy công ty thường yêu cầu những động thái kịp thời của nhà quản lý để “dừng
ngay việc thất thoát”. Thất bại của công ty, theo một cách nhìn khác, có thể được
gây ra bởi sự ì hoặc những hành vi không thích hợp của ban quản lý (Hoffman,
1989; Makridakis, 1991; Schendel, Patton và Riggs, 1976; Slatter, 1984; Weitzel và


15

Jonsson, 1989). Việc lựa chọn chiến lược nào không đảm bảo cho sự phục hồi của
công ty. Để một chiến lược có hiệu quả, nó có thể phải được thực hiện nhanh
chóng, mạnh mẽ và đúng đắn. Một sự thực hiện tồi các chiến lược có thể dẫn đến sự

suy kiệt nghiêm trọng hơn (Cameron, Sutton và Whetten, 1988; Freeman và
Cameron, 1993).
Rất nhiều nhân tố tác động đến thành công của chiến lược tái cấu trúc. Moulton và
Thomas (1993) tìm ra rằng quy mô công ty hơn hẳn các biến khác trong việc cải tổ
lại thành công. Barker và Duhaime (1997) đồng ý rằng một sự hồi phục thành công
phụ thuộc vào khả năng thay đổi chiến lược, cấu trúc và tư tưởng của công ty hơn
việc tái cấu trúc dựa trên hiệu quả ngắn hạn hoặc cách cắt giảm chi phí. Đặc biệt,
cắt giảm chi phí và sa thải được nhận thấy không có tác dụng bởi Denis và Kruse
(2000), họ xem xét liệu sự cải thiện trong thành quả hoạt động có phải hầu như là
do tái cấu trúc tài sản hay không.
2.2.3 Nghiên cứu về tác động của vòng đời, kiệt quệ tài chính đến lựa
chọn chiến lược tái cấu trúc
Các tác giả Szekee Koh, Robert B.Durand, Lele Dai và Millicent Chang (2014) xem
xét chiến lược các công ty lựa chọn khi đối mặt với kiệt quệ tài chính và tìm kiếm
bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của vòng đời công ty đến việc lựa chọn
chiến lược đó. Đồng thời, các tác giả còn xem xét mối quan hệ giữa các chiến lược
tái cấu trúc với sự phục hồi của công ty khỏi kiệt quệ tài chính.
Các tác giả sử dụng mẫu được xây dựng từ dữ liệu công ty ở Mỹ trên CRSP và
COMPUSTAT trong năm 1995 đến 2003. Giai đoạn này bao gồm cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu (Blinder, 2013), là khoảng thời gian các công ty gặp phải
những khó khăn tài chính đáng kể. Mẫu không bao gồm các công ty công và công
ty tài chính.
Đầu tiên, các tác giả phân loại các công ty vào từng giai đoạn vòng đời của chúng
theo phương pháp của Anthony và Ramesh’s (1992). Bốn giai đoạn vòng đời bao
gồm: khởi nghiệp, phát triển, trưởng thành và suy thoái. Phương pháp phân loại dựa
trên các miêu tả của bốn giai đoạn trong dòng đời: tỷ lệ cổ tức hàng năm trên thu


16


nhập, phần trăm (%) tăng trưởng doanh thu; tỷ lệ chi phí đầu tư trên tổng giá trị
công ty; và tuổi đời của công ty.
Sau đó, các tác giả xem xét công ty rơi vào kiệt quệ tài chính và công ty nào không.
Phương pháp được sử dụng dựa trên mô hình Merton (1974). Theo mô hình Merton
(1974) giá trị cổ phần của một công ty được xem như một quyền chọn mua trên tài
sản của nó, từ đó cho phép tính một khoảng cách đến kiệt quệ (distance-to-default)
của một công ty. Trong việc tính toán khoảng cách đến kiệt quệ, các tác giả dựa
theo Bharath và Shumway (2008); sự phân bổ những ước lượng khoảng cách đến
kiệt quệ và xác suất kiệt quệ được tuân theo ước lượng của Bharath và Shumway.
Bản thân khoảng cách đến kiệt quệ không nói cho chúng ta biết khi nào một công ty
sẽ kiệt quệ. Các tác giả định liệu một công ty có kiệt quệ hay không theo cách của
Asquith, Gertner và Scharfstein (1994) và Sudarsanam và Lai (2001), phân loại một
công ty là kiệt quệ tài chính khi nó có 2 năm liên tiếp rơi vào khoảng cách đến kiệt
quệ: ví dụ, một công ty chúng tôi xếp vào nhóm gặp kiệt quệ trong năm 1995 (năm
bắt đầu của mẫu) khi mà nó rơi vào khoảng cách đến kiệt quệ trong cả 2 năm 1994
và 1995.
Cuối cùng, các tác giả sử dụng hồi quy logit để xác định chiến lược tái cấu trúc nào
được sử dụng và hiệu quả khôi phục của các chiến lược tái cấu trúc. Vài bằng chứng
thực nghiệm đã được tìm thấy.
Thứ nhất, các tác giả nhận thấy các công ty kiệt quệ thì thường thay đổi ban điều
hành với hệ số của biến kiệt quệ tài chính là 0.0057 và có ý nghĩa thống kê. Các
biến giả vòng đời như khởi sự, phát triển, trưởng thành cũng có ý nghĩa thống kê,
ngụ ý rằng, trong sự so sánh với các công ty suy thoái (trường hợp cơ bản cho hồi
quy logit và những phân tích ở sau), các công ty thay thế ban điều hành tại mọi thời
điểm. Sự ảnh hưởng qua lại của các biến giả vòng đời đối với biến giả kiệt quệ tài
chính không đưa ra kết quả có ý nghĩa thống kê. Những phát hiện này gợi ý cho
hướng các công ty thay thế ban điều hành trong thời gian kiệt quệ không có liên
quan tới việc các công ty đó đang ở đâu trong vòng đời.



17

Thứ hai, đối với chiến lược tái cấu trúc hoạt động, các tác giả nhận thấy các công ty
khởi sự có ít khả năng cắt giảm chi phí giá vốn hàng bán hơn các công ty suy thoái
khi gặp kiệt quệ. Hệ số tác động là -0.0220 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Khi
xem xét kết quả hồi quy của các công ty tiến hành tái cấu trúc hoạt động khác, các
tác giả tìm được bằng chứng cho thấy các công ty khởi sự, phát triển và trưởng
thành thường cắt giảm nhân công khi họ rơi vào kiệt quệ. Cắt giảm lao động nhằm
tạo ra một “quick-win”, cũng như làm ổn định tài chính trong ngắn hạn cho đến khi
những chiến lược phức tạp được đặt ra hoặc để nhanh chóng cải thiện dòng tiền
(Bibeault, 1982; Hambrick và Schecter, 1983; Sudarsanam và Lai, 2001). So với
các công ty suy thoái, các công ty ở giai đoạn sớm của vòng đời có nhiều khả năng
giảm nhân công hơn. Mặt khác, các công ty trưởng thành thường tiến hành tái cấu
trúc tài sản: hệ số tác động bằng 0.0226 và có ý nghĩa ở mức 10%.
Thứ ba, đối với chiến lược tái cấu trúc tài chính, các tác giả thấy các công ty khởi
sự, phát triển và trưởng thành gặp kiệt quệ không nghĩ đến việc cắt giảm cổ tức. Hệ
số tác động giữa biến giả vòng đời và kiệt quệ tài chính tương ứng là -0.0850, 0.0489 và -0.0411. So sánh với các công ty ở những giai đoạn khác của vòng đời,
các công ty khởi sự cũng ít có khả năng phát hành nợ hơn. Ngoài ra, các công ty khi
gặp kiệt quệ thường không tăng nguồn vốn bằng cách phát hành cổ phần. Hệ số hồi
quy bằng -0.0138 có ý nghĩa tại mức 1%.
Thứ tư, tác giả nhận tìm thấy bằng chứng thực nghiệm cho mối quan hệ giữa chiến
lược thay thế ban điều hành của các công ty khởi sự có liên quan tới sự phục hồi
của công ty. Bên cạnh đó, các công ty kết hợp từ 2, 3 chiến lược tái cấu trúc có khả
năng phục hồi cao hơn các công ty còn lại. Tuy nhiên, khi kết hợp từ 4 chiến lược
trở lên thì hiệu quả lại không như mong đợi.


18

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Các bước nghiên cứu
Như đã trình bày ở các chương trước, mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm ra bằng
chứng thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng của vòng đời đến việc lựa chọn chiến lược
tái cấu trúc công ty trong bối cảnh kiệt quệ tài chính. Để hoàn thành mục tiêu
nghiên cứu đó, tác giả sử dụng phương phép tương tự như nghiên cứu của Szekee
Koh, Robert B.Durand, Lele Dai và Millicent Chang (2014) với các bước thực hiện
cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định mẫu nghiên cứu và tiến hành thu thập dữ liệu.
Bước 2: Nhận diện vòng đời của các công ty trong mẫu.
Để xác định vòng đời của các công ty trong từng năm, tác giả áp dụng theo phương
pháp của Szekee Koh, Robert B.Durand, Lele Dai và Millicent Chang (2014), dựa
trên phương pháp của Anthony và Ramesh’s (1992). Các công ty được phân vào
bốn giai đoạn của vòng đời: khởi nghiệp, phát triển, trưởng thành và suy thoái, dựa
trên các chỉ số miêu tả các giai đoạn trong dòng đời: tỷ lệ cổ tức hàng năm trên thu
nhập, phần trăm (%) tăng trưởng doanh thu; tỷ lệ chi phí đầu tư trên tổng giá trị
công ty; và tuổi đời của công ty.
Bảng 3.1: Kỳ vọng cho các mô tả vòng đời ở mỗi giai đoạn
Giai đoạn
Khởi sự
Phát triển
Trưởng thành
Suy thoái

DP
Thấp (Q1)
Vừa (Q2)
Hơi cao (Q3)
Cao (Q4)

SG

Cao (Q4)
Hơi cao (Q3)
Vừa (Q2)
Thấp (Q1)

Biến mô tả vòng đời
CEV
AGE
Cao (Q4)
Trẻ (Q1)
Hơi cao (Q3)
Trưởng thành (Q2)
Vừa (Q2)
Hơi già (Q3)
Thấp (Q1)
Già (Q4)

Nguồn: Anthony, J., Ramesh K., 1992. Association Between Accounting
Performance Measures And Stock Prices: A Test Of The Lifecycle Hypothesis.
Journal Of Accounting and Economics 15, 203-227.
Tác giả tính toán các chỉ số mô tả vòng đời như sau:
a. Tỷ lệ chi trả cổ tức hàng năm trên thu nhập (DP)
DPt = (

DIV t
IBED t

) x100 %



×