Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận cao học triết QUAN NIỆM hàn PHI tử VAI TRÒ của PHÁP LUẬT TRONG đời SỐNG XÃ hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.88 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
17


MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1 Lý do chọn đề tài
Pháp luật là công cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình
thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là
một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự
phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi
đắp nên những giá trị mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp
luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Giữa đạo đức và pháp luật luôn có
mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau Điều này không chỉ giúp xây dựng
một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển
các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Điều này ảnh hưởng một cách
toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với xã hội. Chính bởi tầm quan trọng của pháp luật trong hệ
thống xã hội nên sự ra đời của một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh lại càng trở nên
cần thiết hơn bao giờ hết. Hệ thống đó một khi thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện
vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển và tiến bộ xã hội. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường và toàn
cầu hóa như hiện nay. Mỗi cá nhân cần phải tính toán những điều kiện khách quan
của xã hội và hiệu quả kinh tế. Mối quan hệ giữa con người với con người không
đơn thuần chỉ là mối quan hệ có tính chất cảm tính, bị chi phối bởi những nguyên
tắc hay những yếu tố đạo đức như trước đây mà những giá trị mới , tính kinh tế
cũng như hiệu quả đều trở thành những mối quan tâm hàng đầu.
Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với xã hội
có phân chia và đối kháng giai cấp, mọi hoạt động của đời sống xã hội được đưa
vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị. Trên


2


thực tế, pháp luật của những Nhà nước gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì
thường phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực,
những quy định nhằm bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
Trước đây, trong lịch sử, Nho giáo đã lấy đạo đức để răn dạy con người. Với
chủ trương "đức trị", Nho giáo đã "đạo đức hoá chính trị” và đề cao, thậm chí đến
mức tuyệt đối hoá việc quản lý xã hội bằng cách nêu gương, cảm hoá, làm cho dân
chúng an tâm và từ đó, hy vọng tạo nên sự ổn đình xã hội
Đối lập với chủ trương "đức trị" là tư tưởng "pháp trị". Thực tế cho thấy, đã
từng có những vị vua đùng pháp luật để cai trị đất nước. Với chủ trương "pháp trị",
họ đã có những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh, đưa xã hội đi vào
cuộc sống có quy củ, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Tuy nhiên, cả tư
tưởng "đức trị" và "pháp trị" thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tính
chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà
các thế lực thống trị sử dụng để củng cố địa vị và quyền lực của mình
Trong xã hội không còn đối kháng giai cấp, Nhà nước là người đại điện cho
nhân dân lao động Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có
vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con
người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người phát huy những năng lực thực tiễn
của mình.
Xuất phát từ những đòi hỏi về lý luận và thực tiễn nói trên việc nghiên cứu
những quan điểm của Hàn Phi Tử về vai trò của pháp luật là vô cùng cần thiết. Đó
là lý do mà chúng tôi thực hiện tiểu luận với chủ đề : “Quan niệm của Hàn Phi về
vai trò của Pháp luật trong xã hội.
1.2 Tình hình nghiên cứu
Những tư tưởng của Hàn Phi không chỉ ảnh hưởng đến đời sống chính trị xã
hội đương thời mà còn có tầm ảnh hưởng trong suốt chiều dài lịch sử do đó đã có
rất nhiều nghiên cứu nói về ông ở nhiều góc độ và nội dung khác nhau. Trước hết là

3


những công trình nghiên cứu về than thế, sự nghiệp, nguồn gốc tư tưởng của Hàn
Phi Tử. Và tất cả đều có sự thống nhất ở những điểm như sau:
-Về tiểu sử Hàn Phi là một công tử của nước Hàn sinh khoảng 280 Tr.CN,
còn năm mất là năm Tần Thủy Hoàng thứ 14 khoảng 233 Tr.Cn
-Về sự nghiệp: những tác phẩm của Hàn Phi được lưu truyền đến ngày nay
tổng cộng có 55 thiên, chưa hẳn mỗi thiên đều là Hàn Phi viết mà rất nhiều học giả
xưa nay đã nghiên cứu về vấn đề này và cũng có rất nhiều thuyết
-Về tư tưởng, các nghiên cứu đều thống nhât là Hàn Phi đã tiếp thu kế thừa
tư tưởng của Nho gia Đạo gia và Pháp gia . Bên cạnh đó, trong hệ thống tư tưởng
của mình, ông đã có những sang tạo riêng, phù hợp với chế độ xã hội đương thời
Ngoài ra Pháp, Thuật, Thế chính là nội dung cơ bản trong tư tưởng của Hàn
Phi nên các học giả cũng hết sức tập trung vào vấn đề này, đặc biệt pháp được khai
thác nhiều dưới góc độ pháp luật , cũng là nội dung chính của bài tiểu luận.
Nói về tình hình nghiên cứu về tư tưởng của Hàn Phi, có rất nhiều công trình
đã tìm hiểu vấn đề dưới những góc tiếp cận khác nhau. Trong nhiều nguồn tư liệu ta
đều bắt gặp những cái nhìn riêng của mỗi tác giả tuy nhiên họ đều thống nhất ở
những nội dung cơ bản. Mặt khác, những công trình nghiên cứu cũng có những hạn
chế nhất định, có nhiều nội dung trong quan điểm của Hàn Phi chưa được đi sâu
nghiên cứu đúng mức. Đặc biệt những quan điểm của ông có vai trò như nào đối
với nước ta cũng mới chỉ được nghiên cứu đến một mức độ nhất định.
1.3 Mục đích và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Tiểu luận đi sâu vào nghiên cứu quan niệm của Hàn Phi về vai trò của Pháp
luật trong xã hội , làm rõ những giá trị cũng như những mặt hạn chế trong tư tưởng
của Hàn Phi tử đề từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm cũng như vận dụng
vào nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này tiểu luận sẽ đi sâu vào
khai thác những nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi trong đó bao
gồm những khuôn khổ phép tắc đối với một quốc gia dân tộc cũng như những mối

quan hệ giữa con người ,các cá nhân trong xã hội như vua, bề tôi từ đó có một cái
4


nhìn tổng thể về hệ thống tư tưởng của ông và làm rõ tầm ảnh hưởng của nó đối với
không chỉ xã hội Trung Quốc mà cả xã hội Việt Nam …

2.

Nội Dung
2.1 Bối cảnh xã hội cho sự ra đời quan điểm về Pháp luật của Hàn Phi
Tử
Bối cảnh của thời đại mỗi nhà tư tưởng chính là một trong những tiền đề cho
sự ra đời những quan điểm của họ về một vấn đề xã hội nhất định. Do đó, hiểu rõ
được bối cảnh kinh tế chính trị xã hội mới có thể đánh giá đúng tư tưởng mà họ thể
hiện. Chúng tôi xin được đi sâu vào phân tích vào tình hình kinh tế chính trị xã hội
Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc với những điểm như sau:
-Về kinh tế, nông nghiệp công nghiệp thương nghiệp đều phát triển rất mạnh.
Phương pháp canh tác rất tiến bộ, cuối thời Xuân Thu, ở Ngô và Việt, người ta đã
tìm ra sắt. Nhờ lưỡi cày bằng sắt, nhờ biết dùng bò để kéo cày, mà cày sâu hơn,
nhanh hơn, đỡ tốn sức hơn. Sự cải thiện phương pháp canh tác chính là một yếu tố
quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia bởi nó đã khuyến khích sự khai
phá những vùng đất mới. Và trong bối cảnh xã hội Trung Hoa bấy giờ, điều này
giúp các nước chư hầu trở nên phú cường và thực hiện được ý đồ thôn tính các
nước bên cạnh của mình
-Chế độ “tỉnh điền” không còn phù hợp bởi dưới chế độ này, ruộng đất sẽ
được chia đều thành các phần trong sự quản lý giám sát của nhà nước . Theo đó
người nông dân sẽ canh tác theo thời vụ và nộp hoa lợi trên những phần đất đã
được ấn định . Điều này vô hình chung sẽ hạn chế số đất canh tác của mỗi gia đình,
mặt khác, mở mang đất đai bờ cõi là mục tiêu mà xã hội muốn hướng đến hơn cả.

5


Sự tan ra của chế độ Tỉnh điền là điều tất yếu mà Tấn là nước đầu tiên xóa bỏ chính
sách này
-Về chính trị, đây là một thời kì mà chế độ “Tông pháp” của nhà Chu trở nên
suy đồi và loạn lạc, đất đai phải chia cắt cho các vương hầu công khanh, nên mỗi
ngày một thu hẹp lại, chỉ còn trông cậy vào sự cống hiến của các chư hầu khác như
nước Lỗ. Nhà Chu suy nhưng một số chư hầu thì mỗi ngày một mạnh vì chính trị
tốt, kinh tế phát triển như nước Tề, hoặc vì thôn tính những nước nhỏ hơn, khai phá
được những đất mới như Sở, Tần. Số những nước chư hầu giảm dần qua các thời
kì: từ thời Xuân Thu chỉ còn trên một trăm đến thời Chiến Quốc chỉ còn trên một
chục và đến gần cuối thời kì Chiến Quốc họ trở thành những quốc gia độc lập,
không còn phục tùng nhà Chu dù chỉ trên danh nghĩa mà tự xưng vương.
-Về xã hội: Sự phát triển của kinh tế đã làm thay đổi cơ bản về thành phần cơ
cấu xã hội.Sự xuất hiện của các thương nhân, thợ thủ công, tầng lớp địa chủ mới..
đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội. Đây là những thành phần mà địa vị kinh tế đã
làm thay đổi vị trí của họ trong xã hội. Tuy nhiên nắm giữ quyền lực vẫn là tầng
lớp lãnh chúa đã mất dần quyền lực kinh tế, điều đó dẫn đến những mâu thuẫn
trong xã hội. Những mâu thuẫn đó đã nói lên tính phức tạp và sự phân tán trong xã
hội. Có thể thấy đây là một thời kì đã nhen nhóm lên sự biến đổi dữ dội của xã hội
-Về tư tưởng: Các trường phái đua nhau ra đời, trong đó bốn trường phái
Nho gia, Mặc gia, Đạo gia và Pháp gia có tầm ảnh hưởng lớn nhất
2.2 Nội dung quan điểm của Hàn Phi Tử về vai trò của pháp luật trong
xã hội
Để làm sang tỏ quan điểm của Hàn Phi Tử về vai trò của Pháp luật, trước hết
chúng tôi sẽ khai thác những khía cạnh trong tư tưởng pháp trị của ông. Có ba nội
dung cơ bản trong tư tưởng của ông đó chính là pháp, thuật, thế. Ba nội dung này
có một mối liên hệ thống nhất chặt chẽ với nhau. Trong tư tưởng về pháp, Hàn Phi
đề cập nhiều đến những quy tắc, những chuẩn mực chung mà nhờ vào đó, mỗi cá

nhân đều phải tuân thủ những nguyên tắc mà lãnh đạo của một quốc gia đặt ra. Bàn
6


về thuật, Hàn Phi lại muốn bàn luận đến một khía cạnh khác trong vấn đề cai trị đất
nước: đối với một người lãnh đạo, điều quan trọng nhất đó là dùng người. Đại sự có
thể thành hay không không thể không kể đến những người kề vai sát cánh cùng. Đó
là một quá trình nhìn nhận và xem xét lâu dài cả về năng lực lẫn sự trung thành của
bề tôi. Còn thế, đối với ông đó là uy thế, quyền lực của bậc quân vương. Năng lực
của một nhà cầm quyền chưa phải là yếu tố quyết định mà nhờ vào thế họ có thể
buộc người khác phải phục tùng.
2.2.1 Nội dung tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
2.2.1.1Tư tưởng của Hàn Phi về pháp
Nếu như Nho gia dùng chữ “pháp” chỉ theo nghĩa những phép tắc nói chung
thì Pháp gia lại đề cập đến nó để hướng tới một vấn đề lớn hơn: đó chính là pháp
luật .Ngay đến Hàn Phi cũng đã có những định nghĩa của riêng mình về chữ
“pháp”. Trong tác phẩm Hàn Phi Tử ông từng viết trong thiên Định Pháp: “Pháp là
hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi
hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ
theo pháp” hay như ông cũng từng ví pháp luật với dây mực, cái thủy chuẩn, cái
quy cái củ tức là đồ dùng làm tiêu chuẩn. Pháp luật tức là một tiêu chuẩn để biết
đâu là chính, đâu là tà, để khen đúng người, trách đúng kẻ quấy. Từ đó ta có thể
hiểu, Hàn Phi quan niệm “pháp” là những khuôn mẫu, phép tắc chuẩn mực do vua
bạn ra, công bố ở công đường cho mọi người thực hiện. Phải tới thời kì này, pháp
mới thực sự được hiểu với ý nghĩa là pháp luật.
Trên cơ sở phân tích những điều kiện lịch sử cũng như những điều kiện kinh
tế xã hội, Hàn Phi đã luận chứng cho tính tất yếu của pháp trị trong chính trị mới
đảm bảo được sự trị an. Có thể nói vị trí của pháp luật đối với một chế độ xã hội do
đó bản thân nó cũng có những yêu cầu riêng. Đây cũng chính là nội dung trọng
tâm trong tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi. Trước hết luật pháp phải hợp thời. Một

chế độ xã hội luôn có những đặc thù riêng, vì vậy những hình thức cai trị cũng chỉ
7


có thể đáp ứng trong những thời điểm lịch sử nhất định. Có những chính sách có
thể giúp cho một quốc gia thịnh vượng trong giai đoạn này nhưng giai đoạn khác
thì chưa chắc. Vậy nên, Pháp luật luôn biến đổi không ngừng để đáp ứng những
yêu cầu mới của xã hội. Ngoài tính hợp thời, thì tính dễ hiểu, công bằng cũng cần
thiết không kém. Tất cả những chính sách được ban hành trong xã hội đều cần sự
tuân thủ chặt chẽ từ người dân. Tuy nhiên, làm sao họ có thể thực hiện khi nội dung
những điều luật quá khó hiểu ? Người lãnh đạo luôn phải cân bằng giữa những
chính sách và sự tiếp cận của quần chúng. Bên cạnh đó, trong xã hội mỗi người đều
có vị trí của riêng mình. Có người yếu, kẻ mạnh, có người thấp cổ bé họng, kẻ nắm
quyền, để những kẻ mạnh không lấn át kẻ yếu, để số đông không hiếp đáp số ít,
pháp luật phải thực sự nghiêm minh., công bằng và được công bố rộng rãi cho mọi
người biết.
Từ những yêu cầu của pháp luật , chúng ta hoàn toàn có thể xác định được
vai trò của Pháp luật trong tư tưởng về pháp mà Hàn Phi muốn hướng tới. Nó thể
hiện ở việc duy trì ổn định trật tự xã hội, trở nên phổ biến trong quần chúng nhân
dân lao động, ai cũng hiểu, ai cũng biết . Nó là một khuôn khổ để mỗi người trong
cộng đồng ý thức được hành vi của bản thân mình
2.2.1.2 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về thuật
Thuật là nội dung quan trọng trong tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi, tuy nhiên
để làm rõ được nội dung về thuật, cần làm rõ những nội dung như sau: về khái
niệm, tiểu luận cho rằng : Thuật là một danh từ tương đối đa nghĩa trong lịch sử
Trung Quốc. Một trong những người đề xuất thuật trong chính trị có thể kể đến đó
là Thân Bất Hại .Ông xem thuật như một phương thức trị nước của bậc vua chúa.
Còn Hàn Phi , ông định nghĩa về thuật như sau: “Thuật là nhân tài năng mà giao
cho chức quan, theo cái danh mà trách cứ cái thực, nắm quyền sinh sát trong tay
mà xét khả năng của quần thần” Ngoài ra Hàn Phi còn có một quan điểm khác

trong thiên Định Pháp đó là: “Thuật thì không muốn cho người khác thấy,… dùng
thuật thì những kẻ yêu mến, thân cận cũng không được nghe”. Qua những nội dung
8


trên, có thể thấy thuật là một phương thức để vua chúa tuyển chọn, kiểm tra, giám
sát và sử dụng bầy tôi. Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa có nhiệm vụ làm
sao cho dân theo đúng pháp luật như vậy là là nước trị. Tuy nhiên, xung quanh họ
có quá nhiều công việc nên để đảm đương tất cả là một điều hết sức khó khăn.
Phương án tối ưu nhất đó chính là giao một phần trọng trách cho quan lại, quan lại
tốt thì dân không loạn. Vì vậy bậc minh quân chủ trị quan lại chứ không trị dân.
Đối với khái niệm thuật, có lẽ mỗi tác gia đều có một cách tiếp cận của riêng mình.
Chẳng hạn như Hàn Phi, các tác giả Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi cho rằng ông đã sử
dụng khái niệm thuật với hai nghĩa : đó là “kĩ thuật” và “tâm thuật”. Tuy nhiên
tâm thuật là một phạm vi rộng nên có lẽ chúng tôi sẽ không xét đến vì chúng quá
nhiều, thiên biến vạn hóa, không theo một quy tắc nào và rất khó xác định . Do vậy
tiểu luận sẽ đi vào tìm hiểu hai nội dung chính là “thuật trừ gian” và “thuật dùng
người”
Trong thuật trừ gian, Hàn Phi đã nhận thức rằng ai cũng chỉ quan tâm đến lợi
ích của bản thân mình. Để tồn tại trong một xã hội biến động lúc bấy giờ, mỗi cá
nhân quan tâm đên lợi ích của bản thân có lẽ là điều dễ hiểu. Vì tính tư lợi nên bề
tôi lúc nào cũng có ý định phản vua., chúng tôi xin phép được trích một câu của
Hàn Phi trong Ngoại trừ thuyết tả hạ : “Bậc minh chủ không nên ỷ vào cái lẽ bề tôi
không phản mình mà ỷ vào cái lẽ họ không thể phản mình được, không ỷ vào cái lẽ
họ không gạt mình mà ỷ vào cái lẽ họ không thể gạt mình được”. Để chứng minh
cho quan điểm của mình, Hàn Phi đã liệt kê ra nhiều hạng người có thể làm loạn
trong triều đình, khi sắp xếp lại có thể chia ra làm hai loại: kẻ thân thích của vua và
quân thần. Những người này đánh vào tình cảm để khiến vua lung lạc. Họ lập bè
đảng trong nước, hãm hại các trung thần. Để trị những hạng người này, nhà vua cần
hết sức khôn khéo: không được để lộ sự yêu ghét của mình, không cho họ biết mưu

tính của mình cũng như không để họ mưu tính việc riêng , bất cứ việc gì họ cũng
phải thông qua ý kiến của mình. Có lẽ đây là những phương pháp để cho bề tôi
không có cơ hội lộng hành trong triều đình. Mặt khác, mọi vấn đề luôn có nguồn
9


gốc của nó cũng như những nảy sinh trong xã hội chúng ta cần phải giải quyết từ
gốc cho đến ngọn . Ngay từ đầu, việc cân nhắc chọn lựa những nhân tố để lãnh đạo
đã hết sức cần thiết. Hàn Phi đã đề từng đề cập đến năm hạng người không nên sử
dụng trong học thuyết của mình: hạng người khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ
mà đi chọn vua khác, hạng người đặt lời giả dối trái pháp luật, hạng người lánh đời
ở ẩn, chê bai vua, hạng người thi ân để phục vụ kẻ dưới, hạng người tranh thắng
với bề trên. Mặt khác ông cũng nhận ra gian thần cũng có khi là những người tài ,
nếu vua có khả năng quy phục, họ có thể quay ra trung thành với mình. Trong lịch
sử đã từng có những trường hợp như vậy như Triệu Giản Chủ từng dùng Dương
Hổ, một phản thần của nước Lỗ. Vì vậy thuật trừ gian đôi khi cũng phải được vận
dụng một cách linh hoạt, đôi khi gian thần không phải không có cách để thu phục
nhân tâm. Điều đó tùy vào khả năng của người lãnh đạo và thanh trừng những nhân
tố có lợi có thể coi là một sai lầm lớn của bất kì người làm chính trị nào.
Trong thuật dùng người, quy tắc căn bản của thuật dùng người theo pháp gia
là thuyết hình danh. Nói về thuyết danh, Hàn Phi không phải là người sang lập mà
đã kế thừa từ những tiền bối trước. Người đầu tiên lập thuyết về danh về danh là
Khổng Tử. Đây là một thuyết để trị nước: chính danh. Thuyết này nhắc nhở nhà
cầm quyền nhớ đến bổn phận của họ: đã mang danh là vua, là cha mẹ của dân thì
phải giữ tư cách của ông vua và làm tròn sứ mệnh của mình nếu không thì đại sự
sẽ không thể thành. Sau này các triết gia Trung Quốc đã kế thừa học thuyết này,
trong đó Tuân Tử thuộc Nho gia đã thành lập một hệ thống lý luận khá chặt chẽ.
Hàn Phi là môn đệ của Tuân Tử nên đã trực tiếp ảnh hưởng của ông hơn là của phái
Danh gia, tuy nhiên ông áp dụng thuyết của Tuân Tử phần nhiều vào chính trị ,
không bàn về tri thức luận . Trong phạm vi chính trị, ông thu hẹp vào việc dùng

người, vì vậy ông không hề nói về chính danh, chỉ nói đến hình danh hoặc danh
thực. Lấy pháp luật làm danh thì sự việc là hình : sự việc mà hợp với pháp thì danh
và thực hợp nhau. Hàn Phi cho rằng quy tắc hình danh hợp nhau là quan trọng bậc
nhất trong vị trí quan lại, nếu không có nó thì không sao phân biệt được kẻ hay
10


người dở, kẻ ngay người gian, không sao thưởng phạt cho đúng được, vua sẽ mất
quyền nước sẽ loạn.
Từ những tư tưởng của Hàn Phi về thuật có thể thấy để có thể thực
hiện ý chí của mình, một ông vua không thể một mình cai quản thiên hạ mà ý chí
đó được thực hiện ngay qua một hệ thống quần thần, những người giúp việc xung
quanh ông ta- được gọi là bề tôi. Nghiệp bá vương của ông vua thành hay bại phụ
thuộc nhiều vào việc sử dụng đội ngũ bầy tôi đó. Do đó trong chính trị vấn đề sử
dụng con người được đặt lên hàng đầu. Nhân thức được tầm quan trọng đó nên lý
luận chính trị của Hàn Phi chủ yêu xoay quanh quan hệ vua –tôi. Vua phải sử dụng
bầy tôi như thế nào để vừa thực hiện tốt công việc của mình, vừa không phải lại
mình, đó là cái thuật của ông vua sử dụng bầy tôi mà Hàn Phi đã có được sự quan
sát tỉ mỉ, đi từ hiện tượng đến bản chất, từ đạo đức, tâm lý cho đến sự tác động
hoàn cảnh nên ông vua giỏi phải là người phải biết sử dụng bầy tôi một cách có
hiệu quả để phục vụ mình chứ không phải đưa hết sức lực của mình ra mà làm.
Quan điểm của Hàn Phi về vai trò của Pháp luật cũng đã được bộc lộ qua tư tưởng
của ông, đó chính là tiêu chuẩn để tuyển chọn bầy tôi, bản thân những con người
này phải biết tôn trọng pháp luật. Khi đã tuân theo pháp luật thì mới có thể chọn
được hiền tài mà không thiên vị người thân thích, không kể địa vị cao thấp sang
hay hèn mà điều quan trọng là họ có thể làm sang tỏ pháp luật, làm “lợi cho nước,
tiện cho dân” được hay không. Vai trò của Pháp luật lúc này còn thể hiện ở chỗ vua
có thể khống chế bề tôi của mình, hiểu bề tôi của mình cũng như dùng tước lộc để
đổi lấy công lao của họ.
2.2.1.3 Tư tưởng Hàn Phi Tử về thế

Pháp luật( pháp) và thuật cai trị (thuật) đều không thể thiếu đối với bậc vua
chúa. Cho nên Hàn Phi Tử nói: Hai cái ấy ( tức pháp và thuật) không thể thiếu một
vì chúng là công cụ của đế vương. Nhưng chỉ có pháp và thuật mà không có thế thì
vua không chế ngự được bầy tôi. Thế là một trong ba nội dung tạo nên học thuyết
“pháp trị”. Trong tác phẩm Hàn Phi tử , Hàn Phi đã đề cập đến rất nhiều khái niệm
11


về thế như “thế vị”, “uy thế”, “thế trọng” . Ta có thể hiêu là uy quyền thế lực mà
nhà vua dựa vào đó để buộc người khác phải phục tùng. Theo ông tài đức của một
cá nhân không quyết định đến thế bởi lẽ trong lịch sử đã từng có những cá nhân
như vua Nghiêu là một người hiền tài nhưng khi chưa làm vua nói không ai nghe
hay như vua Kiệt, một con người bạo tàn nhưng vì là vua nên không ai dám trái
lệnh. Sức ảnh hưởng của một người trong xã hội không hẳn nằm ở năng lực mà hơn
cả là vị trí của người đó . Một người có quyền thế có thể khiến cho một cộng đồng
người đông đảo trong xã hội nể sợ, ngược lại người không có uy danh thì để có
tiếng nói là một điều không hề dễ dàng .
Trong chính trị, thế là quyền lực chính trị, mục tiêu chính trị chỉ đạt được khi
nhà vua có “thế” hay không. Mối quan hệ giữa Pháp luật và thế thể hiện ở chỗ
pháp chính là một phương tiện để cho một ông vua thể hiện uy thế của mình.
Thưởng phạt có thể coi là một trong số những quyền hành mà nhà vua nắm trong
tay thậm chí nó là một công cụ sắc bén để pháp luật được thi hành. Không có
thưởng phạt thì pháp luật hoàn toàn trống rỗng và vô dụng vì vậy đó có thể coi là
cơ sở thể hiện pháp luật. Tuy nhiên thực hiện quyền thưởng phạt như nào cũng là
một bài toán đặt ra cho người nắm quyền. Hàn Phi chủ trương phải để cho người
dân hiểu được việc thưởng chính là do công lao của họ chứ không phải làm ơn, làm
đức. Như vậy, việc thưởng xuất phát từ lý do khách quan, từ chính khả năng và
cống hiến của mỗi cá nhân. Mặt khác, một khi hình phạt được đưa ra, người chịu
cũng phải hoàn toàn tâm phục khẩu phục, họ cần hiểu rằng họ phạm tội và bây giờ
phải chịu tội là lẽ tất yếu chứ không phải người trên vô cớ phạt họ. Thưởng phạt có

đúng đắn thì mới khuyến khích dân làm điều lợi và ngăn họ làm điều hại. Do đó
nguyên tắc của thưởng phạt là “thưởng hậu” và “phạt nặng” và dựa trên cơ sở pháp
luật không được thưởng phạt bừa bãi, nếu không thưởng phạt tự nó sẽ mất đi tác
dụng. Vậy nên khi nắm giữ quyền lực nhà vua không được độc đoán, Hàn Phi phản
đối bậc đế vương chỉ làm theo ý mình. Vị vua sáng suốt không chỉ tiếp thu phê bình
12


cho người khác vạch ra cái sai của mình mà hơn cả là biết sửa chữa những sai lầm
đó.
Qua tư tưởng về thế, quan điểm của Hàn Phi về pháp luật ở đây được
thể hiện như sau: Muốn nắm giữ được thiên hạ không thể đồng nhất năng lực, tài
đức với khả năng trị quốc. Uy thế của một con người là yếu tố căn bản để kẻ dưới
phải nể sợ và phục tùng. Bên cạnh đó, bậc vua chúa phải nắm rõ được phương thức
thực thi pháp luật. Hàn Phi đã nắm bắt được tâm lý con người ai cũng muốn hướng
đến lợi ích và tránh những điều hại đến bản thân do đó bậc quân vương có thể tận
dung điều này để trị vì thiên hạ, thưởng phạt vừa là một cách ngăn cản con người
có những việc làm sai trái, cũng là một phương pháp để kích thích xã hội phát triển.
Chỉ khi con người ta bộc lộ hết mọi năng lực của mình trong xã hội thì mới mong
thu lại được thành quả và được khen thưởng chính là kết quả cho những công lao
của họ, đồng thời chính sự cống hiến của những cá nhân đó sẽ thúc đẩy xã hội đi
lên. Ngoài ra, mỗi hình phạt nghiêm minh là một cách để răn đe con người, nó
khiến cho con người biết sợ mà tránh làm điều ác. Tính người ta vốn có ưa và ghét
( ưa tư lợi, ưa được khen, ghét bị cực khổ, bị hình phạt) nên phải dùng chính sách
cưỡng chế chứ không thể cảm hóa đơn thuần được.
2.2.1.4 Tư tưởng Hàn Phi Tử về mối quan hệ pháp , thuật , thế
Hàn Phi Tử đã có một bước phát triển đối với tư tưởng Pháp gia, nâng tầm tư
tưởng của Pháp gia lên ngang hàng cùng các trường phái tư tưởng lớn đương thời
khi giải quyết mối quan hệ giữa pháp, thuật và thế. Đáng nói hơn Pháp, Thuật Thế
là của Hàn Phi là một sự kết hợp, hòa quyện nhuần nhuyễn không thể tách rời.

Thiếu đi một trong ba cái sẽ không thể thành “thuật trị nước” được. Pháp đứng vị
trí trung tâm bởi lẽ những khuôn mẫu, nguyên tắc chính là những nội dung cốt lõi
của pháp luật nhằm duy trì trật tự, kỉ cương phép nước. Thuật và thế là điều kiện
cần và đủ để thi hành pháp luật, làm cho pháp luật trở nên có hiệu lực. Pháp- thuậtthế từ chỗ rời rạc, phiến diện của các tiền bối Pháp gia đến Hàn Phi đã trở thành
một kết cấu vững chắc. Kết cấu pháp – thuật - thế đã tạo nên cái cốt lõi trong lý
13


luận chính trị của Hàn Phi, nó biểu hiện sự hoàn thiện và hội tụ các trường pháp
Pháp gia trong học thuyết chính trị của ông
2.3 Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị của Hàn Phi và sự vận dung của
nó đối với đời sống xã hội
2.3.1 Đối với xã hội phong kiến Trung Hoa
Trong thơi kì Chiến quốc – Tần Hán từ thế kỉ V Tr.CN đến đầu thế kỉ thứ III .
Trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển của chế độ phong kiến chuyên chế.
Nhà Tần đã thống nhất được toàn lãnh thổ Trung Quốc đã triệt để thi hành tư tưởng
Pháp trị. Tần Thủy Hoàng đã phát huy hết mức tư tưởng chỉ đạo dùng pháp trị quốc
và tội nhẹ phạt nặng. Những tác dụng lịch sử trong việc thống nhất Trung Quốc mà
những chủ trương này đem lại là điều không thể bàn cãi. Tuy nhiên sau khi giành
được thắng lợi, giai cấp thống trị nhà Tần lại thiếu những điều chỉnh cần thiết về
pháp luật cho phù hợp với tình hình mới, họ quán triệt những hình phạt cứng rắn
chẳng hạn như lấy hình phạt giết choc để đàn áp, sưu cao thuế nặng, đốt sách chôn
nho. Mặt khác trong chính trị nói chung và trong cuộc sống nói riêng, Tần Thủy
Hoàng cũng tỏ ra là một ông vua rất tàn bạo, trở thành một bạo chúa nổi tiếng trong
lịch sử Trung Quốc. Sau này hậu duệ của ông là Tần Nhị Thế cũng có những chính
sách hà khắc không kém nên vương triều Tần tồn tại hơn mười năm đã sụp đổ
Đến thời Hán, giai cấp thống trị đã rút ra bài học chính trị cho triều đại của
mình và họ nhận thấy một tất yếu là phải điều chỉnh cách thức cai trị, không thể đi
theo vết xe đổ của kẻ đi trước. Mục đích của nhà Hán đó chính là thiết lập một nền
thống trị ổn định lâu dài cho nên đã điều chỉnh chính sách cai trị bằng cách đưa nho

giáo thành một hệ tư tưởng chính thống mà vẫn tiếp tục gìn giữ và đề cao phái pháp
trị. Nhà Hán đã nhanh chóng cải cách được pháp chế của nhà Tần theo chính thống
pháp gia bằng những chính sách như sau: xóa bỏ pháp luật hà khắc và hình phạt tàn
khốc. Để củng cố triều đại của mình thì trước hết là cần giảm bớt áp lực bóc lột đối
với họ. Mặc dù triều Tây Hán có xóa bỏ những pháp luật hà khắc của nhà Tần tuy
14


nhiên sau đó vẫn khôi phục lại một số pháp luật và hình phạt khắc nghiệt của đời
nhà Tần như “chu di tam tộc”, “cụ ngũ hình” để bảo vệ sự thống trị. Ngoài ra họ
còn vận dụng sáu bộ sách kinh điển của Nho gia là Dịch , Thư, Thi, Lễ ,Nhạc và
Xuân Thu làm chuẩn mực để xử án. Vì lấy nho gia làm hệ tư tưởng chính kết hợp
với nền tảng Pháp trị nên họ còn tiến hành giải thích pháp luật bằng giáo lý nho gia.
Có thể thấy công cuộc cải cách pháp luật nói trên đã đánh dấu sự hình thành và xác
lập pháp chế phong kiến trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời cũng là bước ngoặt
của tư tưởng pháp trị từ chính thống sang giai đoạn phát triển dưới ảnh hưởng của
nho giáo.
Nhìn chung, những tư tưởng pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to
lớn cho sự phát triển của Trung Quốc thời cổ đại và cho sự nghiệp thống nhất của
Trung Hoa lúc bấy giờ.
2.3.2 Đối với xã hội Việt Nam thời kì phong kiến
Trong lịch sử Việt Nam với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền, Lê, Lý, Trần, tư
tưởng về đường lối trị nước được hình thành phát triển và bộ máy nhà nước phong
kiến ngày càng được hoàn thiện hơn. Nếu như nhà Trần để lại dấu ấn quan trọng
trong lịch sử dân tộc về lĩnh vực đấu tranh bảo vệ đất nước với ba lần đánh bại võ
ngựa xâm lăng của quân Nguyên Mông, đế quốc được xem như là một quốc gia
hung mạnh nhất trong tất cả các quốc gia thời kì bấy giờ. Có lẽ chính cái gọi là hào
khí đông A đã tạo nên kì tích đó, nó thẫm đẫm tinh thần Nho giáo có thể dễ dàng
tìm thấy trong các tác phẩm như Chiếu dời đô hay Nam quốc sơn hà của thơì Lý
trước đó.

Triều đại Trần không đơn thuần chỉ là kế thừa những tư tưởng tốt đẹp trong
đấu tranh giải phóng dân tốc mà so với thời nhà Lý, đường lối trị nước là một bước
tiến hết sức mạnh mẽ và cũng là một vấn đề rất đáng bàn. Đó không chỉ là đường
lối “đức trị” với tinh thần “từ bi bác ái” của nhà Phật ở thời Lý mà đó là sự kết hợp
giữa “đức trị” và “pháp trị”. Những bộ luật mới lần lượt ra đời như bộ Quốc triều
thông chế do Trần Thái Tông ban hành hay bộ luật Hình Thư đời Trần Dụ Tông.
15


Nhìn chung, so với thời Lý thì thời Trần đã có bước phát triển cả về việc biên soạn
luật lẫn việc kiện toàn bộ máy pháp luật, điều đó thể hiện ở việc hoàn chỉnh các cơ
quan chuyên trách về tư pháp và thể lệ xét xử. Những người được tuyển chọn vào
làm việc ở các cơ quan pháp luật thì đều phải thông qua thi cư trong đó có thi về
hình luật
Nếu như ở đời nhà Trần “đức trị” vẫn giữ vị trí là đường lối cai trị chủ đạo
còn pháp luật chỉ là hỗ trợ thì cho đến thời Lê sơ vai trò của pháp trị đã được đưa
lên ngang tầm với yếu tố đức trị thậm chí là cao hơn. Ngay từ những ngày đầu lên
ngôi việc lập quốc đã được vua Lê Thái Tổ đặc biệt chú trọng. Nổi bật trong đường
lối pháp trị của ông là việc đề cao pháp luật mà trọng tâm chính là thưởng phạt
nghiêm minh. Mỗi hình phạt ông đưa ra đều rất nghiêm khắc một phần bởi tình
hình đất nước lúc đó hết sức phức tạp , chưa ổn định sau nhiều năm chiến tranh
loạn lạc. Sau này, bộ Quốc triều hình luật- bộ luật Hồng Đức ra đời đã có sự phát
triển cả về quy mô, nội dung, tính nghiêm minh lẫn tính thực tiễn của nó, tuy nhiên
nó vẫn chưa những yếu tố đạo đức được vận dụng để xử lý một số đối tượng như
phụ nữ người già trẻ em, người tàn tật
Đến thời nhà Nguyễn, đường lối cai trị của thời Lê Sơ lại tiếp tục được kế
thừa. Việc Nguyễn Ánh ra lệnh cho các quần thần ra lệnh cho các quần thần biên
soạn bộ Hoàng triều luật lệ trên cơ sở bộ luật Hồng đức với việc tham khảo một số
luật lệ nhà Thanh cho thấy sức ảnh hưởng của đường lối trị nước của thời Lê Sơ đối
với thời Nguyễn như thế nào. Tuy giữa hai bộ Hoàng triều luật lệ và luật Hồng Đức

đã xuất hiện những thay đổi nhất định ở một số điều luật nhưng điều đó cũng là tất
yếu bởi lẽ đường lối cai trị của mỗi triều đại thì đều được quy định bởi sự tồn tại xã
hội của chính triều đại đó
Có thể thấy, xã hội Việt Nam thời kì phong kiến đã chịu ảnh hưởng các tư
tưởng từ Trung Hoa cổ đại , đặc biệt là tư tưởng Đức trị của Nho giáo , Pháp trị của
Hàn Phi Tử. Điểm đáng chú ý chính là sự kế thừa nhưng ưu điểm của Pháp trị cũng
16


như lấy Đức trị để khắc phục những hạn chế của Pháp trị cho thấy chúng ta đã vận
dung chúng một cách tài tình trong xây dựng và bảo vệ đất nước
2.3.3 Một số hạn chế trong tư tưởng của Hàn Phi Tử
Trên thực tế tư tưởng của Hàn Phi đã đem lại những giá trị lớn cho xã hội
Trung Hoa và thậm chí cả xã hội Việt Nam thời kì phong kiến. Tuy nhiên lý thuyết
trị nước của Hàn Phi vẫn còn một số hạn chế như đề cao quá mức điều lợi, đề cao
“cưỡng chế”, “thưởng phạt” nhất là “hình phạt” mà chưa coi trọng giáo dục. Bên
cạnh đó ông đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các
hình phạt nghiêm khắc. Ông tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật trong chính trị mà
chưa có bất kì phương thức kiểm soát quyền lực chính trị hữu hiệu. Pháp gia cho
rằng, ngoài pháp luật là chỗ dựa duy nhất để nhà vua tin cậy, tất cả những quan hệ
khác như vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng đều không thể tin tưởng và phải hết
sức cảnh giác , những thứ tình cảm như sự kính trọng, thủy chung, trung hiếu đều
xa vời . Đây cũng có thể coi là một điểm hạn chế vì trong thực tế những tình cảm
này có tồn tại. Pháp gia cho rằng vốn dĩ con người có tính ác, luôn tranh giành xâu
xé nhau vì lợi ích. Vì vậy việc sử dụng hình phạt nghiêm khắc để trừng phạt và răn
đe được đưa lên hàng đầu, tuy nhiên nếu sử dụng hình phạt quá hà khắc có thê sẽ
làm cho dân chúng oán trách , khi họ không thể chịu được nữa thì sẽ vùng dậy
chống lại kẻ cầm quyền.
Ngoài ra còn có một điểm đáng chú ý đó là cơ chế “thưởng- phạt” tồn tại một
số điểm khá cứng nhắc thể hiện ở chỗ có công chắc chắn được thưởng, còn có tội

chắc chắn sẽ bị phạt và mỗi hình phạt đưa ra thường rất nặng nề, đúng với quan
điểm “thưởng hậu- phạt nặng”. Tuy nhiên công tội một người cũng cần phải xem
xét trên nhiều phương diện khác nhau. Chẳng hạn khi luận tội một cá nhân nào đó
phải xem xét dựa trên động cơ của họ ra sao. Có những kẻ phạm tội vì ham muốn
và lợi ích cá nhân tuy nhiên cũng có những người do hoàn cảnh tác động do đó nếu
sử dụng hình phạt như trên để xử lý thì có lẽ mất đi tính công bằng được coi là
nguyên tắc hàng đầu của Pháp gia. Lại nói về lòng ham muốn và tính tư lợi, dường
17


như Hàn Phi chỉ coi đó là động cơ trong hành động của con người mà bỏ qua
những yếu tố khác. Hành động của một cá nhân cũng có thể xuất phát từ chính tình
cảm, sự yêu thương, muốn mang lại những điều tốt đẹp cho những người khác
trong cộng đồng. Ai cũng có lòng trắc ẩn của riêng mình và điều đó có thể quyết
định đến hành động của họ. Tính thiện của con người vẫn chưa thực sự được đề cao
trong pháp trị của Hàn Phi Tử
2.3.4 Sự vận dụng tư tưởng của Hàn Phi Tử vào xã hội Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay


Trong xây dựng pháp luật:
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một khâu trọng yếu trong đổi mới hệ
thống chính trị, là đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Vấn
đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta không phải là quay lưng lại với quá
khứ nửa thế kỉ tồn tại và phát triển của nhân dân để xây dựng lại bộ máy nhà nước
theo hướng khác mà tiếp tục phát huy những thành tựu, ưu điểm của nhà nước ta,
khắc phục những hạn chế khuyết điểm đã phảm phải.Với tầm quan trọng đó, thì
việc nghiên cứu và xây dựng pháp luật vận dụng trong thực tiễn Việt Nam hiện nay
là vô cùng cần thiết. Trong đó pháp luật bao gồm những yêu cầu điển hình như :


-

Có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phản ánh đúng yêu cầu khách quan
của quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Các đạo luật phải có vai trò tối thượng
trong hệ thống pháp luật. Tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, viên
chức và công dân phải tuân thủ nghiêm chỉnh và triệt để pháp luật.

-

Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, công dân có trách nhiệm đối
với nhà nước và nhà nước cũng phải có trách nhiệm đối với công dân. Trong Đ. 51
Hiến Pháp 1992 quy định: “quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”.
Trong xây dựng pháp luật, cần quán triệt tư tưởng: quyền phải đi đôi với nghĩa vụ,
có quyền phải có nghĩa vụ và ngược lại, đồng thời quyền và nghĩa vụ phải tương
18


ứng phù hợp với nhau. Nguyên tắc này có ý nghĩa với bất kì ai, dù giữ chức vụ gì,
khi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý
-

Công bằng là nguyên tắc bao trùm của pháp luật bởi pháp luật theo nghĩa
chân chính là công lý, là những đại lượng biểu thị sự công bằng. Công bằng xã hội
là sự công bằng trong quan hệ của các thành viên xã hội mà tiêu chuẩn cơ bản của
nó là lợi ích của con người. Trong hoạt động quản lý nhà nước, công bằng đòi hỏi
sự xác lập phạm vi tối thiểu nhất của công quyền và xác định đầy đủ những đảm
bảo cho người bị quản lý để đề phòng các hiện tượng lạm dụng quyền lực, vi phạm
các quyền tự do, dân chủ của công dân. Trong cưỡng chế nhà nước, công bằng có
nghĩa là chỉ phải chiu trách nhiệm pháp lý khi có lỗi ,mức độ trách nhiệm phải
tương xứng mức độ vi phạm

Những nguyên tắc nói trên của pháp luật của nước ta nếu như đối
chiếu với những quan điểm của Hàn Phi Tử thì ắt hẳn sẽ tìm thấy những điểm
chung, tính công bằng, bình đẳng, nghiêm minh đều là những tính cách mà Hàn Phi
đã đề cập trong tư tưởng của ông về pháp. Có thể nói, những quan điểm của Hàn
Phi đã ra đời từ hàng ngàn năm nhưng tính đúng đắn của nó vẫn hiện hữu trong xã
hội hiện nay. Trong công cuộc đổi mới đất nước, việc duy trì trật tự ổn định xã hội
cần đặt lên hàng đầu và những tư tưởng của Hàn Phi vẫn giữ nguyên những giá trị
thiết thực của nó và vẫn tiếp tục được vận dụng, kế thừa.
Trong hệ thống pháp luật của nước ta còn có một bộ phận rất quan trọng
chính là luật hình sự , đây là một bộ luật quy định về tội phạm, hình phạt cũng như
các vấn đề liên quan. Trong đó, hình phạt là vấn đề đáng bàn, đó có thể xem như là
một biện pháp cưỡng chế do nhà nước quy định, nó có thể tước bỏ những quyền và
lợi ích của người bị kết án như : quyền tự do, quyền về tài sản, quyền về chính trị,
thậm chí là quyền sống. Mục đích của hình phạt đó chính là trừng tri những hành vi
trái với pháp luật trong xã hội . Do đó với những tư tưởng về thế của Hàn Phi có
những đóng góp quan trọng trong việc xử lý những hành vi phạm pháp bởi ông đã
19


đề cập rất nhiều đến cơ chế “thưởng- phạt” trong tư tưởng về thế. Một bài học quan
trọng được rút ra đó là bất cứ một hành vi phạm tội nào cũng có một án phạt của
riêng nó, tội càng nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc. Tuy nhiên
trong quan điểm của Hàn Phi Tử , những hình phạt thường có tính chất hà khắc nên
khi vận dụng đối với pháp luật thời nay, chúng ta cần cân nhắc đưa ra những mức
phạt hợp lý, tùy thuộc vào mức độ phạm tội mà các cá nhân gây ra.


Trong quản lý con người nói chung:
Trong hệ thống tư tưởng của mình, Hàn Phi Tử tập trung tư tưởng nhiều về
vua, thực chất là “thủ lĩnh chính tri”- người lãnh đạo tối cao trong tổ chức chính trị

theo quan điểm chính trị hiện đại. Vì vậy những tư tưởng đó có giá trị cho chúng ta
tham khảo trong việc xây dựng thủ lĩnh chính trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị
trong giai đoạn hiện nay
Cụ thể hơn để điều hành tổ chức, người thủ lĩnh chính trị, người đứng đầu tổ
chức phải có thế - có quyền lực. Để cấp dưới phục tùng pháp luật thì người làm
lãnh đạo phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc, có như vậy thì mới tạo được
cái “uy” cho cấp dưới tin, phục và tuân theo. Người đứng đầu tổ chức, đơn vị phải
có năng lực dùng người. Nắm được phương thức quản lý con người không chỉ quan
trọng trong lĩnh vực chính trị mà còn trong mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Trong doanh nghiệp, quản lý nhân sự là cả một nghệ thuật, người giỏi là người biết
đánh giá đúng năng lực của từng nhân viên, biết cách động viên khuyến khích khơi
gợi tiềm năng , giúp nhân viên hăng hái làm việc thông qua các hình thức khen
thưởng, tăng lương. Tuy vậy từng nhân viên có điểm mạnh điểm yếu và hoàn toàn
có khả năng mắc lỗi. Khi đó nhà lãnh đạo sẽ phải đối mặt với việc chỉ trích và phê
bình họ. Nếu xét trên quan điểm của Hàn Phi Tử, người lãnh đạo lúc nãy sẽ vừa
phải có thế và nắm chắc quyền “thưởng- phạt” trong tay. Thực tế cho thấy sự quát
nạt mắng mỏ không bao giờ là một ý kiến hay . Người đứng đầu có thể phê bình
20


nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn vừa thể hiện vị trí là một cấp trên nhưng vẫn không
gây tổn thương đến lòng tự trọng của cấp dưới. Thưởng đã khó, nay phạt còn khó
hơn. Tại tập đoàn sản xuất xe hơi lớn thứ hai trên thế giới là Toyota, một quy tắc
được đề ra là các nhà quản trị không được quát tháo, đe dọa hoặc trừng phạt nhân
viên dưới quyền khi có sai sót xảy ra. Thực ra đó không phải là cách quản lý e ngại
nhân viên, mà thái độ xử sự này mới bảo đảm các lỗi sai, hỏng được báo cáo ngay
và đầy đủ. Từ đó, người quản lý mới có thể tìm ra nguyên nhân sâu xa, giúp cho
việc sửa đổi chính sách và các quy trình thực hiện công việc phù hợp hơn và sát với
thực tế của công ty hơn



Trong phát huy sức mạnh của nhân dân:
Hàn Phi cho rằng: Phàm việc trị nước, điều phải lo trước tiên là thống nhất
lòng dân. Bậc thánh nhân trị dân thì xét ở “cái gốc”, chỉ cốt làm lợi cho dân mà
thôi, cho nên thi hành hình phạt không phải vì ghét dân mà vì họ nên mới làm như
vậy. Dân là “gốc” , quyền lực thuộc về nhân dân là mục tiêu nhất quán của Đảng ta
kể từ khi mới thành lập đến nay và mãi mãi sau này. Trong cương lĩnh Đảng khẳng
định, mọi lợi ích, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Thực tiễn phát triển của
đất nước trong thời gian qua đã chứng minh tính hiệu quả của các chính sách chính
trị khi những chính sách đó hướng đến người dân, khuyến khích động viên được
sức mạnh từ nhân dân. Biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi
và biết dựa vào dân. Muốn hoàn thành nhiệm vụ , muốn biến đường lối chính trị
của Đảng thành phong trào của quần chúng, thành sức mạnh của Đảng thì cán bộ
buộc phải liên lạc mật thiết với quần chúng. Và công việc thiết thực nhất mà mỗi
cán bộ phải làm là hết sức chăm lo cho đời sống nhân dân

21


3. Kết luận
Hàn Phi Tử là một nhà tư tưởng lỗi lạc của Trung Quốc nói riêng và nhân
loại nói chung, ông đã để lại tác phẩm Hàn Phi Tử với nội dung tư tưởng phong
phú. Do đó đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng của ông và nhận được
những giá trị quan trọng từ nhiều góc độ triết học kinh tế, chính trị xã hội , nhưng
điểm quan trọng hơn cả vẫn là những tư tưởng về chính trị
Tiểu luận mới chỉ tập trung khai thác vào một khía cạnh trong tư tưởng chính
trị của ông đó là pháp luật, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cũng đã
khái quát được bối cảnh kinh tế xã hội và những tiền đề quan trọng cho sự ra đời tư
tưởng chính trị của Hàn Phi Tử nói chung và tư tưởng pháp trị nói riêng. Sự tiếp
thu của Hàn Phi Tử đối với các trường phái tư tưởng lớn đương thời là Nho gia,

Đạo gia, Pháp gia là một trong những tiền đề đó
Tư tưởng “pháp trị” của Hàn Phi Tử ra đời ở Trung Quốc thời kì cổ đại,
trong điều kiện kinh tế chính trị xã hội khác xa thời nay nhưng cũng đã để lại cho
chúng ta nhiều suy nghĩ, gợi ra cho chúng ta nhiều tìm tòi, và trong đó vẫn có
những yếu tố hợp lý để chúng ta có thể kế thừa và vận dụng đối với đất nước trong
giai đoạn hiện nay
Hàn Phi Tử không phải là người sáng tạo ra pháp – thuật – thế nhưng là
người tổng hợp và hoàn thiện nó, sự kết hợp giữa pháp thuật thế là điều tất yếu để
tạo nên thuật trị nước
Nghiên cứu tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể
chúng ta mới thấy được sự tác động, làm biến đổi xã hội của nó là như thế nào. Một
quốc gia đất rộng người đông như Trung Quốc luôn ẩn chưa những mối quan hệ
chính trị hết sức phức tạp. Nếu như pháp luật không chặt chẽ nghiêm minh thì việc
quản lý một quốc gia dân tộc là một điều không tưởng, ngay cả khi bộ máy pháp
luật đã được hoàn thiện thì đường lối cai trị luôn là một bài toán cho bất kì người
22


lãnh đạo đất nước nào. Với những thành tựu mà Hàn Phi Tử đã đạt được, chúng ta
hoàn toàn có thể tiếp thu vận dụng chúng vào trong thực tiễn xã hội và đây là một
điều vô cùng cần thiết. VI Lenin – người đi đầu trong phong trào cộng sản và giai
cấp đã từng nói: Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí
óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra

23


Danh mục tài liệu tham khảo
-


Hàn Phi Tử – Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi – NXB Văn Hóa 1994
Giáo trình Nhà nước và Pháp luật đại cương – NXB Thế giới
Giáo trình Lịch sử Triết học Trung Quốc thời kỉ cổ – trung đại – NXB Chính trị-

-

Hành chính – 2012
Lịch sử triết học Trung Quốc- Phùng Hữu Lan , Tập 1 : Thời đại tử học

24



×