Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

CÔNG đoàn và vấn đề dân CHỦ TRONG TRƯỜNG học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.02 KB, 3 trang )

CÔNG ĐOÀN VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC
Thứ năm, 10 2 2011 18:10 |

CÔNG ĐOÀN VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC
Ngô Đạt*
1. Vài nét về công đoàn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa Công đoàn (cùng các tên gọi khác như nghiệp đoàn, liên đoàn lao
động) là "một hiệp hội của những người làm công ăn lương có mục đích duy trì hay cải thiện các điều kiện thuê mướn
họ". Trải qua ba trăm năm, dưới sự ảnh hưởng của các thể chế chính trị và kinh tế, các công đoàn phát triển thành
nhiều dạng thức với những mục tiêu và hoạt động cụ thể khác nhau nhưng thường bao gồm:

Cung cấp lợi ích dự phòng: Các công đoàn thời xưa, như các Hội Ái Hữu (Friendly Societies), thường cung cấp
những lợi ích để bảo trợ cho thành viên trong những trường hợp thất nghiệp, ốm đau, tuổi già hay tử vong. Ngày nay,
ở các nước phát triển, những chức năng này được cho là thuộc về nhà nước, nhưng những quyền lợi khác như đào
tạo huấn luyện, tư vấn và đại diện về luật pháp vẫn còn là những lợi ích quan trọng đối với thành viên công đoàn.

Thương lượng tập thể: Ở các nước mà hoạt động công đoàn mang tínhcông khai và được giới chủ thừa nhận,
tổ chức công đoàn có thể thương lượng với chủ thuê mướn lao động về lương bổng và các điều kiện làm việc.

Hành động áp lực: Các công đoàn có thể tổ chức đình công hay phản đối để gây áp lực theo những mục tiêu
nào đó.

Hoạt động chính trị: Các công đoàn có thể tác động đến những luật lệ có lợi cho toàn thể giới lao động. Họ có
thể tiến hành những chiến dịch chính trị, vận động hành lang hay hỗ trợ tài chính cho những cá nhân hay chính đảng
ứng cử vào các vị trí công quyền.
Về bối cảnh lịch sử, công đoàn hình thành vào thập niên cuối thế kỷ XVIII, trong thời điểm nền kinh tế thị trường với
cơ chế tự do cạnh tranh đang bộc lộ rất nhiều khuyết tật, quyền lợi của người lao động bị giới chủ xâm hại một cách
tàn bạo. Công đoàn ra đời vì lợi ích của giai cấp công nhân, thống nhất lực lượng công nhân để đấu tranh cho nền
dân chủ và sự phát triển xã hội. Ngày nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều xuất hiện các
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức từ thiện hoạt động nhưng chỉ có tổ chức công đoàn mới trực tiếp tham gia giải
quyết quan hệ lao động.


Ở Việt Nam hiện nay, công đoàn được định nghĩa dưới góc độ luật pháp “là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai
cấp công nhân và và của người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học chủ nghĩa xã
hội của người lao động" (Điều 1 Khoản 1 Luật Công đoàn 1990).
Theo Luật này, Công đoàn có tư cách pháp nhân (Điều 1 Khoản 3), có quyền đại diện cho công nhân trong thương
lượng tập thể hay trong các tranh chấp trước toà (Điều 11 Khoản 1, 2 và 3). Ngay cả khi không là thành viên công
đoàn, công nhân cũng có quyền yêu cầu Công đoàn đứng ra đại diện cho mình trước pháp luật (Điều 11 Khoản 4).
Hơn thế nữa, công đoàn còn được quy định quyền lập pháp (trình dự thảo luật, Điều 5 Khoản 1), quyền hành pháp
(tham gia quản lý nhà nước, Điều 4 Khoản 1) và các quyền tư pháp (giám sát việc thi hành luật pháp, yêu cầu người
thuê lao động có trách nhiệm giải trình...). Công đoàn có quyền tham gia vào công việc quản lý các doanh nghiệp,
công ty, trường học... (Điều 2 Khoản 2).
2. Vài nét về dân chủ và dân chủ trong trường học
Dân chủ là một giá trị mang tính toàn cầu, chính vì thế mà hầu hết các quốc gia đều có từ “dân chủ” hay “cộng hòa”
trong quốc hiệu. Tuy nhiên, cách thức thực hành mỗi nơi mỗi khác, tuỳ theo dân trí, văn hóa và thể chế chính trị của
mỗi nước. Nhưng dù khác nhau thế nào cũng tuân theo nguyên tắc căn bản làphải có sự tham gia của dân chúng
và dân chúng phải là người thụ hưởng thành quả từ sự tham gia của mình.
Trong nếp nghĩ của người Việt, hai cách diễn đạt sau đây về dân chủ thường được đa số đồng tình: “Chế độ ta là chế
độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do... Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến, góp phần tìm ra chân
lý”. Dân chủ là “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”.
Cách diễn đạt thứ nhất là của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Cách diễn đạt thứ hai được thể hiện trong nhiều văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Với cách nói thứ hai, nhiều người đồng tình ủng hộ cụm từ “dân thụ hưởng thành quả”.
Như vậy, theo họ, dân chủ nghĩa là mọi việc đều được “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng
thành quả”.
Nhưng dân chủ không tự có, dân chủ là một khát vọng, dân chủ là đấu tranh, là một quá trình xác lập và hoàn thiện.
Dân chủ vừa là mục tiêu, điều kiện đồng thời là động lực cho sự phát triển của mỗi quốc gia, tổ chức.
Dân chủ trong trong trường học cũng tuân theo logic như trên. Để huy động tiềm năng trí tuệ của mọi thành viên và tổ
chức nhà trường theo luật định, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện nhiệm vụ phát triển
giáo dục vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo đã
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Trên cơ sở này, các trường, trong đó có
Trường Đại học Luật TP. HCM cũng lần lượt ban hành quy chế thực hiện dân chủ phù hợp với đặc trưng hoạt động

của từng trường.
3. Công đoàn với việc thực hiện dân chủ trong nhà trường
Thực hiện quy chế dân chủ trong trường học là trách nhiệm của mọi thành viên và đoàn thể liên quan, trong đó Công
đoàn trường giữ vai trò rất quan trọng. Vấn đề này được quy định tại Điều 13 trong “ Quy chế thực hiện dân chủ trong
hoạt động của nhà trường” do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành (Ở Trường Đại học Luật, đó là Điều 12
trong “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh”).
Có nhiều con đường để tổ chức Công đoàn thực hiện dân chủ trong trường học. Ở đây xin nhấn mạnh hai “kênh” cơ
bản là Hội nghị dân chủ trong nhà trường và Tổ chức đối thoại trong nhà trường.
Hội nghị dân chủ trong trường là hình thức sinh hoạt dân chủ của đoàn viên công đoàn để học tập, phổ biến, hoặc để
tổng kết công tác, quán triệt và bàn biện pháp triển khai một chủ trương, nội dung công tác trong phạm vi trách nhiệm
nhất định.
Thông thường, hội nghị dân chủ sẽ do một tập thể lãnh đạo và phân công người chủ trì, điều hành theo một chương
trình đã được thống nhất. Kết thúc hội nghị có ban hành nghị quyết hoặc có tổng kết, kết luận hội nghị.
Trong trường học, hội nghị dân chủ có một số hình thức tổ chức phổ biến như:
- Hội nghị cán bộ, công chức (hoặc hội nghị đại biểu cán bộ, công chức);
- Hội nghị đối thoại;


- Hội nghị liên tịch.
Việc tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 09/1998/TTLT-TCCP-TLĐLĐ ngày
04/12/1998 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, TLĐLĐVN và Công văn số 254/CĐN ngày 26/09/2003 của
CĐGDVN về việc “Hướng dẫn tổ chức Hội nghị cán bộ - công chức trong ngành GD&ĐT”.
Hội nghị đối thoại được hiểu là hình thức tham gia quản lý của tổ chức công đoàn (ở khoa, trường v.v…). Mục đích
của hội nghị là nhằm thực hiện dân chủ trực tiếp của cán bộ, công nhân viên để giải quyết những vấn đề có liên quan
trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động.
Hội nghị liên tịch được coi là môi trường để tổ chức công đoàn tham gia ý kiến xây dựng kế hoạch, chương trình công
tác, hoạch định chính sách và bàn về các vấn đề lớn của trường, khoa, đơn vị. Hội nghị liên tịch giữa Ban Thường vụ
công đoàn và Ban giám hiệu thường được tổ chức định kỳ theo quý (3 tháng) hoặc nửa năm (6 tháng) một lần. Sau
mỗi Hội nghị liên tịch sẽ ban hành Nghị quyết liên tịch. Nghị quyết này có giá trị pháp lý trong phạm vi hoạt động của
cấp ban hành.

Hội nghị cán bộ - công chức được tổ chức dưới hai hình thức là Hội nghị toàn thể hoặc Hội nghị đại biểu và được tổ
chức ít nhất một lần trong năm với yêu cầu chung là phải được tiến hành thực sự dân chủ, thiết thực, đảm bảo nội
dung đã quy định tại Điều 11 Nghị định 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ.
Trong khuôn khổ thực hiện dân chủ trong nhà trường, nội dung của Hội nghị cán bộ, công chức thường bao gồm:

Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đánh giá việc thực hiện kế hoạch công
tác năm;

Thảo luận, bàn biện pháp thực hiện kế hoạch công tác năm tới; Bàn bạc các biện pháp cải tiến điều kiện làm
việc, nâng cao đời sống của cán bộ, công chức;

Thủ trưởng đơn vị tiếp thu ý kiến đóng góp, phê bình của cán bộ, công chức và giải đáp những thắc mắc, đề nghị
của cán bộ, công chức đơn vị;

Thanh tra nhân dân của cơ quan báo cáo kết quả hoạt động; bầu ban Thanh tra nhân dân theo quy định của
pháp luật;

Khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích trong công tác.
Theo quy định, trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo Hội nghị cán bộ, công chức thuộc về Ban giám hiệu và Ban chấp hành
công đoàn. Để Hội nghị được dân chủ và thành công, Hiệu trưởng có trách nhiệm chuẩn bị báo cáo về những vấn đề
sau:

Kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của trường: nhiệm vụ được ghi trong Luật giáo dục; Điều lệ nhà trường; các
văn bản chỉ thị; yêu cầu công tác của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; đánh giá kết quả triển khai Quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động của trường v.v…;

Phương hướng, nhiệm vụ năm học mới.
Ban chấp hành công đoàn trường có trách nhiệm:

Soạn thảo văn bản hướng dẫn cách tiến hành hội nghị cán bộ, công chức các cấp. Báo cáo tổng hợp ý kiến từ

Hội nghị cán bộ-công chức các đơn vị trong trường. Chuẩn bị nội dung khen thưởng và dự kiến nội dung phong trào
thi đua trong thời gian tới.

Chuẩn bị báo cáo tổng kết hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, chương trình công tác của năm tới, dự kiến
nhân sự bầu bổ sung vào Ban Thanh tra nhân dân.
Về tổ chức đối thoại. Tổ chức đối thoại được ghi trong Điều 10 Luật Công đoàn: “Công đoàn đại diện cho người lao
động yêu cầu thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức tiếp nhận và trả lời các vấn đề do người lao động đặt ra. Khi cần
thiết, công đoàn tổ chức đối thoại giữa tập thể lao động với thủ trường cơ quan, đơn vị tổ chức hữu quan để giải quyết
các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động”. Nghị định 133/HĐBT ngày 20/4/1991 của Hội
đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ cũng đã có hướng dẫn thi hành Luật công đoàn và các nghị quyết, chỉ thị của Công
đoàn Việt Nam quy định về việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Theo các văn bản pháp lý liên quan, hình thức đối thoại mang tính chính trị, pháp lý sẽ ràng buộc các cơ quan, các tổ
chức và cá nhân trong việc tuân thủ pháp luật.
Đối thoại là một hình thức vấn đáp công khai, trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng
giúp ta giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ, thiết lập sự hiểu biết lẫn nhau trong các lĩnh vực có liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của người đối thoại.
Đối thoại là hình thức dân chủ góp phần tạo ra sự thống nhất, ổn định về tư tưởng, yên tâm công tác và giảng dạy
trong nhà trường; xây dựng đời sống mới, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung. Đối thoại vừa là hoạt
động vừa là quá trình giúp điều hoà mối quan hệ giữa hai bên thông qua thương lượng nhằm đi đến một thoả thuận,
một sự hợp tác thống nhất.
Đối thoại cũng được coi là một trong những giải pháp hòa bình để xử lý những vấn đề chính trị, kinh tế liên quan giữa
hai bên, hoặc giải quyết tranh chấp xảy ra trên tinh thần công khai bình đẳng, cũng có thể cùng nhau xây dựng một
hiệp nghị hợp tác về chính trị hay kinh tế nào đó song phương hoặc đa phương.
Đối thoại được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau. Thông thường, có 3 hình thức đối thoại phổ biến:
Hình thức thứ nhất là một bên có vướng mắc, đơn phương yêu cầu cơ quan, đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân có liên
quan đến vướng mắc đó phải trả lời công khai trước dư luận. Hình thức này thường gặp trên các phương tiện thông
tin đại chúng như đài truyền hình, truyền thanh, báo chí v.v... đòi hỏi cơ quan và người bị chất vấn phải giải đáp những
nội dung do tổ chức hoặc người yêu cầu nêu ra.
Hình thức thứ hai là hai bên đều có yêu cầu, mong muốn gặp nhau để trao đổi giải quyết những vướng mắc. Đây là
hình thức phát huy dân chủ trực tiếp, phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt trong dân sự, cần được khuyến khích các

bên đương sự vận dụng. Song trên thực tế đòi hỏi các bên đương sự phải thực sự cầu thị, bình tĩnh, tôn trọng ý kiến
của nhau, tôn trọng pháp luật, nếu không sẽ dẫn đến xung đột khó điều hoà, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn trầm trọng.
Hình thức thứ ba là nhờ cơ quan thẩm quyền có trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, hoặc tổ chức có
trách nhiệm làm trung gian chấp nối tổ chức đối thoại. Đây là hình thức chủ đạo mang lại nhiều giải pháp tốt, giải
quyết dứt điểm các vụ việc kéo dài, phức tạp, tính chất và mức độ mâu thuẫn cao mà thường đã qua hai hình thức đối
thoại được nêu ở trên nhưng chưa giải quyết được.
Tuỳ theo điều kiện và tình hình cụ thể, công đoàn lựa chọn hình thức đối thoại thích hợp. Dù lựa chọn hình thức nào,
tổ chức công đoàn hay đoàn viên cũng phải tuân theo những vấn đề có tính nguyên tắc trong đối thoại sau đây:

Đối thoại phải công khai ngày, giờ, địa điểm, thành phần, nội dung, kết luận và kiến nghị v.v...

Đối thoại phải lấy xây dựng làm mục đích.



Đối thoại phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế thống nhất, đảm bảo mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Mọi người tham gia đối thoại phải coi trọng các bên đối thoại, không được lăng mạ sỉ nhục người mâu thuẫn với
mình trên các phương tiện thông tin, chỗ đông người.

Việc giải quyết các mâu thuẫn trước hết thuộc trách nhiệm thủ trưởng cơ quan, đơn vị, thủ trưởng cấp trên trực
tiếp của cơ quan đơn vị nơi phát sinh mâu thuẫn...
Tóm lại, việc tổ chức hội nghị dân chủ và đối thoại là một yêu cầu quan trọng đảm bảo thực thi dân chủ trong nhà
trường. Qua các hội nghị dân chủ và đối thoại, cán bộ, công nhân viên chức có điều kiện tham gia vào quản lý nhà
trường, có cơ hội đàm phán, trao đổi và bảo vệ quyền và lợi ích hợp của mình, các cấp lãnh đạo chính quyền có điều
kiện huy động được trí tuệ, công sức của tập thể người lao động trong việc xây dựng nhà trường và giải quyết kịp thời
các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tổ chức hoạt động. Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và phối
hợp tổ chức các hội nghị dân chủ và đối thoại. Sự thành công của một hội nghị dân chủ hay một cuộc đối thoại trong
trường phụ thuộc rất lớn vào sự nhận thức về pháp luật, quá trình chuẩn bị, phân công trách nhiệm và quan trọng
nhất là phải xuất phát từ lợi ích chung vì sự phát triển của trường, của đơn vị.

Nhìn chung, ở trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, ba hình thức Hội nghị dân chủ đều đã được tổ chức,
trong đó thành công hơn cả vẫn là Hội nghị cán bộ, công chức. Riêng hình thức đối thoại, nhà trường luôn coi đây là
kênh thực hiện dân chủ nên thường xuyên tổ chức đối thoại với sinh viên. Tuy vậy, ở góc độ công đoàn, công đoàn
chưa một lần chủ động tổ chức.
4. Góc nhìn hiện thực
Để có cái nhìn hiện thực, xin trích một đoạn trong báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện cuộc vận động “ Dân chủ, kỷ
cương, tình thương, trách nhiệm” giai đoạn 2005–2010 của Công đoàn ngành Giáo dục Việt Nam: “Thông qua hội nghị
cán bộ, công chức, những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà giáo và người lao
động đều được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra; lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo lên cấp trên giảm đi đáng
kể; tinh thần chủ động sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ được phát huy. Nhìn chung, đa số nhà giáo và lao động trong
ngành nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự nhà giáo, tôn trọng nhân cách học sinh, sinh
viên, thực hiện công bằng trong giáo dục”.
Đánh giá như trên là rất chính xác nhưng ở từng trường, vai trò của công đoàn trong nhiều trường hợp còn mờ nhạt,
chưa tương xứng với tinh thần luật định.
Lý do của sự mờ nhạt này là gì? Câu hỏi này được đặt ra bức thiết khi mà hệ thống văn bản pháp luật quy định khá rõ
về điạ vị pháp lý của tổ chức công đoàn trong hệ thống chính trị, kể cả quyền tham gia lập pháp (Điều 5 Khoản 1, Luật
Công Đoàn 1990), hành pháp (Điều 4 Khoản 1, Luật Công Đoàn 1990) và các quyền tư pháp (Điều 2 Khoản 2, Luật
Công Đoàn 1990).
Chúng tôi cho rằng có nhiều nguyên nhân, xin nêu một số nguyên nhân cơ bản như sau:

Một là, chưa có sự tương thích giữa địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn theo luật định và thực tế cuộc sống.
Điều 4 Khoản 1, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường quy định “Hiệu trưởng là người do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường. Hiệu trưởng có
trách nhiệm: Quản lý điều hành mọi hoạt động của nhà trường, chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về toàn
bộ hoạt động của nhà trường...”. Như vậy, chủ tịch công đoàn là người do hiệu trưởng tuyển dụng và trả lương; hoạt
động của tổ chức công đoàn do hiệu trưởng cấp kinh phí... dần đến nhiều trường hợp cả chủ tịch và tổ chức công
đoàn không thể “vượt lên chính mình”. Tình hình này cũng tồn tại khá phổ biến ở các doanh nghiệp, nơi mà “quyền
lực kinh tế vượt trội hơn quyền lực pháp lý”.

Hai là, địa vị của người đứng đầu tổ chức công đoàn chưa được xem trọng đúng mức. Do tính đặc của công

việc, việc lựa chọn chủ tịch công đoàn khó hơn lựa chọn phó hiệu trưởng, nhưng người ta thích làm phó hiệu trưởng
hơn làm chủ tịch công đoàn (tư tưởng “thủ lĩnh chính quyền mới là người ban phát vinh quang”). Thực tế cho thấy, ở
đâu chủ tịch công đoàn là phó hiệu trưởng thì hoạt động của tổ chức này chắc chắn có hiệu quả hơn, tuy nhiên ở các
trường đại học hiện nay, chủ tịch công đoàn có “hàm phó hiệu trưởng” là hiện tượng chưa phổ biến.

Ba là, hiện nay cán bộ công đoàn cơ sở, nhất là ở các tổ công đoàn thường có tuổi đời rất trẻ, những công đoàn
viên ở độ tuổi trung niên nhiều kinh nghệm, có uy tín xã hội cao lại lui về hậu trường. Đây là hiện tượng gây nhiều
tranh cãi, nhưng những cán bộ công đoàn lão thành thì cho rằng đây là công việc “được ít, mất nhiều” vì thực hiện dân
chủ là vấn đề lớn, chỉ bằng sự hăng hái là chưa đủ.
Tóm lại, qua mấy trăm năm tồn tại, hoạt động của tổ chức công đoàn đã phát triển rất đa dạng theo sự thay đổi của
kinh tế xã hội và thể chế chính trị. Để tổ chức công đoàn tham gia tốt hơn quá trình dân chủ ở cơ sở, thiết nghĩ, công
đoàn các cấp, trong đó có công đoàn Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh cần có những điều chỉnh mạnh mẽ
trong cơ chế hoạt động, trước mắt là tìm cách khắc phục tình trạng “công đoàn trong nhiều trường hợp còn mờ nhạt,
chưa tương xứng với tinh thần luật định..” như đã nêu trên.



×