Tải bản đầy đủ (.pptx) (23 trang)

ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TUỔI dậy THÌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.51 KB, 23 trang )

CHUYÊN ĐỀ SỨC KHỎE LỨA TUỔI

 
ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN GIAI ĐOẠN DẬY THÌ


1. Đặt vấn đề





1.1 Tầm quan trọng của vấn đề

Dậy thì (puberty - nguồn gốc tiếng latin có nghĩa là phủ lông vũ ), là một giai đoạn của cuộc đời chuyển từ thời kỳ trẻ em
sang tuổi trưởng thành, diễn ra theo nhiều giai đoạn dưới sự kiểm soát chặt chẽ của hệ thống thần kinh - nội tiết. Về
phương diện lâm sàng, dậy thì là giai đoạn phát triển của cơ quan sinh dục với các đặc tính sinh dục phụ và khả năng
sinh sản. Về phương diện sinh là sự trưởng thành, chín muồi của của trục vùng dưới đồi – tuyến yên – tuyến sinh dục.




Tuổi dậy thì là thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trưởng thành tính dục, là thời kỳ quá độ khi không còn
là trẻ con. Đây là thời kỳ mà bất cứ một thiếu niên nào cũng phải trải qua những biến đổi quan trọng về thể chất cũng như
về tâm lý. Tuổi dậy thì có sự dao động lớn, trung bình là 10-11 tuổi ở trẻ gái , 12-13 tuổi ở trẻ trai



Ở tuổi dậy thì, tâm sinh lý thay đổi, làm cho hành vi ứng xử thay đổi, trẻ lúng túng.




Khi một đứa trẻ bình thường đến tuổi dậy thì, những nhận thức của nó tương xứng với sự phát triển tính dục của cơ thể.
Ngược lại, những đứa trẻ mắc chứng dậy thì sớm có nhu cầu về tính dục nhưng lại ở một cá nhân chưa phát triển về nhận
thức, do vậy nhu cầu của chúng hoàn toàn mang tính bản năng.


1.2 Các nội dung chính sẽ trình bày

Sơ lược về tuổi dậy thì
Đặc điểm sinh học
Những yếu tố ảnh hưởng
Vấn đề bệnh lý có thể xảy ra ở tuổi dậy thì
Chăm sóc sức khỏe tuổi dậy thì
Vấn đề giáo dục giới tính cho con em ở tuổi dậy thì


II. Nội dung chủ yếu





2.1

Sơ lược về tuổi dậy thì

Tuổi dậy thì là thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trưởng thành tính dục,
là thời kỳ quá độ khi không còn là trẻ con nhưng chưa hẳn là người lớn. Đây là thời kỳ mà
bất cứ một thiếu niên nào cũng phải trải qua những biến đổi quan trọng về thể chất cũng
như về tâm lý.



Biểu hiện chung ở tuổi dậy thì



Nữ giới xuất hiện những đường cong cơ thể, núm vú phát triển, nở to hơn, tròn hơn.



Nam giới cơ thể vạm vỡ, xương phát triển, cao lớn hơn.



Nữ giới bắt đầu thấy có kinh nguyệt còn nam giới thì bị mộng tinh (bắt đầu xuất tinh, xuất tinh trong lúc ngủ).



Cả nam và nữ đều nhanh chóng phát triển về chiều cao.



Cả nam và nữ tuổi dậy thì đều bắt đầu mọc lông mu, con trai thì mọc thêm râu.



Tâm lí ở tuổi dậy thì thay đổi bất thường




- Giai đoạn tuổi dậy thì:



13-16 đối với nam



12-15 đối với nữ


Dậy thì ở bé gái:



Dấu hiệu đầu tiên là ngực phát triển. Ngực nhú lên thành những cục nhỏ dưới núm vú, ở một hoặc cả hai bên. Những cục này có thể cứng và có
kích thước khác nhau. Thời điểm này trẻ thường bắt đầu cao nhanh.



Sau khoảng 6 tháng, lông mu xuất hiện (mặc dù ở một số trẻ, mọc lông mu lại là biểu hiện đầu tiên của dậy thì), rồi đến lông nách.



Trong vài năm tiếp theo, ngực tiếp tục lớn lên, lông mu và cơ quan sinh dục ngoài tăng trưởng dần dần, dẫn tới kỳ kinh nguyệt đầu tiên



Cơ thể tiếp tục phát triển và toàn bộ quá trình dậy thì hoàn tất sau 3-4 năm, với ngực, quầng vú và lông mu phát triển như ở người lớn.




Trong giai đoạn dậy thì, các bé gái thường cao trung bình 7 - 8 cm/năm, và đạt đỉnh điểm khi kỳ kinh đầu tiên xuất hiện. Trẻ thường dừng cao
khoảng 2 năm sau khi có kinh.


Dậy thì ở bé trai



Quá trình này thường bắt đầu muộn hơn ở con trai.



Dấu hiệu dậy thì đầu tiên là tăng kích thước tinh hoàn.



Vài tháng sau, lông mu bắt đầu mọc.



Lông mu, lông nách, tinh hoàn và dương vật tiếp tục phát triển.



Nam đạt tốc độ tăng chiều cao tối đa chậm hơn nữ 2-3 năm. Hiện tượng này thường bắt đầu bằng bàn tay và bàn chân to ra, rồi đến cánh tay và cẳng
chân, thân và ngực phát triển. 




Những thay đổi khác bao gồm giọng trầm hơn, cơ bắp to lên, có khả năng cương cứng và xuất tinh (đặc biệt là xuất tinh tự nhiên, còn gọi là 'giấc mơ
ướt'). Ở một số em trai, ngực có thể phát triển.



Những thay đổi trên vẫn tiếp tục, quá trình dậy thì hoàn thành sau 3-4 năm với lông mu, tinh hoàn và dương vật đạt kích thước như ở người lớn. Tiếp
theo ngực và râu phát triển.



Các bé trai đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất chậm hơn các bạn gái. 



Dậy thì ở cả hai giới đều liên quan tới ra mồ hôi nách, cơ thể có mùi, nổi mụn trứng cá.


2.2 Những thay đổi về tâm lý ở tuổi dậy thì



Một đặc điểm tâm lý phổ biến ở tuổi dậy thì là “muốn làm người lớn và tự coi mình là người lớn”:thất vọng, ấm ức vì “hình như” cha mẹ chưa nhận thấy bạn “đã
lớn”,cảm thấy dường như cha mẹ không hiểu những tâm tư, suy nghĩ, tình cảm của mình,không còn tâm sự nhiều với cha mẹ như hồi còn bé.



Bắt đầu mở rộng các mối quan hệ bạn bè, tập làm quen dần với cuộc sống xã hội, giao tiếp với mọi người. Bạn bè trở thành một phần quan trọng, không thể
thiếu trong cuộc sống của các bạn trẻ.




Ý thức về giới tính trở nên rõ rệt hơn trước: bắt đầu có những cảm nhận riêng về cơ thể mình. Mỗi người có những đặc điểm riêng về hình dáng cơ thể bên
ngoài, như màu da, màu mắt, vóc dáng, thân hình … Điều đó là do bộ nhiễm sắc thể của cơ thể quy định cũng như do chế độ dinh dưỡng, tập luyện hình thành
nên.



Đến tuổi dậy thì, bắt đầu chú ý hơn đến cách ăn mặc, đầu tóc sao cho đẹp trai, xinh gái.


2.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới tuổi dậy thì



Giai đoạn này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như di truyền, dinh dưỡng và môi trường[ ]



- Khối u: thường là u nhỏ ở vùng hạ đồi.



- Chấn thương: khi đẻ, tai nạn.



- Nhiễm trùng: viêm màng não, viêm não, quai bị, abces não...




- Dị dạng bẩm sinh: não úng thuỷ, tật đầu nhỏ, hẹp ống Silvius.



- Hội chứng McCune- Albright



- Thiếu hụt GH phối hợp: chiều cao chính thức thấp, nguyên nhân do u hạ đồi, não úng thuỷ.



- Dinh dưỡng



- Môi trường


2.4 Vấn đề bệnh lý có thể xảy ra ở tuổi dậy thì



Dậy thì sớm: Khi các dấu hiệu dậy thì đầu tiên xuất hiện trước 8 tuổi ở trẻ gái và trước 10 tuổi ở trẻ trai thì gọi là dậy thì sớm.



Trẻ trai:




 Dậy thì sớm thật do nguyên nhân trung ương (trục hạ đồi - tuyến yên): thường do bệnh lý não bộ mà 70% trường hợp là do u não. Thể tích tinh hoàn > 4 cm 3, kèm
với các đặc tính sinh dục nam. Có thể có các triệu chứng thần kinh của khối u. Có thể có các rối loạn nội tiết khác như đái tháo nhạt.



Dậy thì sớm giả do nguyên nhân ngoại biên (tuyến thượng thận, tuyến sinh dục):  thể tích tinh hoàn < 4 cm 3, dương vật có thể phát triển, bìu nhiều nếp nhăn, nhiễm
sắc tố, với các đặc tính sinh dục phụ nam. Phân biệt dậy thì sớm thật và dậy thì sớm giả dựa vào thể tích và kích thước tinh hoàn.



Dậy thì sớm giả khác giới, do bài tiết quá mức estrogen gây vú to, có quầng vú (gynecomaties). Nguyên nhân có thể sinh lý hay do u thượng thận.




Trẻ gái:



Dậy thì sớm thật đồng giới hay gặp ở trẻ gái hơn ở trẻ trai, thường vô căn. Tuyến vú phát triển trước 8 tuổi, chiều cao tăng, lông mu phát triển, có thể có các đặc tính sinh dục
nữ, có kinh nguyệt. Tuyến vú phát triển với sự xuất hiện của lông mu là dấu hiệu của dậy thì sớm thật.



Dậy thì sớm giả đồng giới do bài tiết sớm, không bình thường estrogen. Trẻ phát triển dậy thì theo hướng nữ, vú to có thể có kinh nguyệt. Nguyên nhân ngoại vi như u nang
buồng trứng, u thượng thận nữ hoá (hiếm gặp).




Dậy thì sớm giả khác giới do sự bài tiết quá nhiều androgen gây âm vật phì đại, có lông mu. Bệnh tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh, u vỏ thượng thận, u buồng trứng nam
hoá (hiếm gặp).




Dậy thì sớm không hoàn toàn:



Lông sinh dục phát triển đơn độc: Do tăng tiết các hormon sinh dục của vỏ thượng thận hay do các tế bào đích của hệ thống lông tăng tính
nhạy cảm của thụ thể. Thường xảy ra ở lứa tuổi 6 tuổi (3/1 trường hợp). Tăng nhẹ chiều cao và tuổi xương. Cần phải loại trừ u buồng
trứng, u vỏ thượng thận, tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh.



Tuyến vú phát triển sớm đầy độc: Trẻ gái từ 1-3 tuổi (80%), dấu hiệu ngấm estrogene không có, hay chỉ có rất kín đáo, tăng nhẹ chiều cao
và tuổi xương. Estrogene bình thường, đáp ứng quá mức với FSH. Test LH -RH không đáp ứng. Vú lớn tự thoái lui trong 70% trường hợp.




Chứng vú to ở nam (gynecomaties)

Do mất cân bằng giữa nồng độ estrogene và nồng độ androgene. Vú to sinh lý ở thời kỳ sơ sinh và biến mất dần trong 3 tháng đầu. Thời kỳ tiền dậy thì, 70% ở giai đoạn P3-P4,
kích thước nhỏ hơn 4 cm, không kéo dài quá 3 năm. Trẻ trai hoàn toàn bình thường.

Vú to bệnh lý có đường kính > 4 cm, kéo dài > 4 năm, trẻ trai < 10 tuổi, có thể do độc tố hay dùng thuốc.



2.5 Chăm sóc sức khỏe tuổi dậy thì



 Trẻ dậy thì cần có sự chăm sóc đặc biệt, kiểm tra kịp thời nhằm giải tỏa gánh nặng tâm lý cho trẻ và cho cha mẹ, cải
thiện chiều cao cơ thể và tránh nảy sinh những hậu quả nghiêm trọng.



Chăm sóc sức khỏe tuổi dậy thì có thể chia ra làm hai phần chính đó là chăm sóc giải tỏa tâm lý và chăm sóc dinh dưỡng
đầy đủ cho trẻ.




2.5.1. Dinh dưỡng cho tuổi dậy thì:



Dậy thì là giai đoạn rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi người. Giai đoạn này, lượng năng lượng mà trẻ cần mỗi ngày
tương đương với một người bình thường (2.200 – 2.400 calo). Đây là giai đoạn trẻ em cần một chế độ dinh dưỡng đầy đủ
nhất bởi ngoài sự hoàn thiện cơ thể, sự phát triển nhanh mạnh về thể lực, thay đổi nội tiết, hệ thần kinh và tuyến sinh dục
dậy thì là giai đoạn trẻ hoạt động nhiều nhất.



Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ lứa tuổi này đóng vai trò vô cùng quan trọng, quyết định tầm vóc của trẻ khi trưởng thành.





2.5.2 Chăm sóc tâm lý, sức khỏe tuổi dậy thì:



Giai đoạn dậy thì là giai đoạn có sự biến chuyển rất nhiều về cơ thể và tâm sinh lý, nhiều trẻ sẽ sợ hãi, tỏ ra lo lắng, hốt
hoảng hoặc ngượng ngùng khi bị trêu chọc, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của trẻ - đặc biệt là trẻ nữ. Vì thế các
bậc cha mẹ phải luôn quan tâm theo sát con em mình để kịp thời giáo dục và động viên, an ủi đúng lúc. Cho trẻ biết trước
những thay đổi của cơ thể sắp xảy ra phần nào sẽ giúp trẻ đỡ bỡ ngỡ và dễ tiếp nhận hơn.




2.6 Vấn đề giáo dục giới tính cho con em ở tuổi dậy thì



Giáo dục giới tính (GDGT) cho trẻ em có thể từ trong gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội vì đặc tính tính dục của một cá nhân chịu ảnh
hưởng từ nhiều nguồn khác nhau: từ cha mẹ, anh chị em, bạn bè, báo chí, sách vở, phim ảnh và cả những nguồn tiếp xúc bất ngờ trong xã hội.



+ Các nhà nghiên cứu tình dục đều thống nhất là trong sự phát triển tình dục, môi trường gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhất là khi
con còn thơ ấu, vào lúc cha mẹ còn chưa có ý thức là mình đang giáo dục con.



+ Dậy thì là thời kỳ mà các chàng trai, các cô gái cần phải học cách giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, tập làm chủ mọi hành vi, ngôn ngữ của mình, phải
biết tự kiểm tra ngôn ngữ, tâm trạng lẫn bản năng tính dục của mình.






Trong giai đoạn cuối của tuổi dậy thì, nhu cầu quan hệ tình cảm với người khác giới tính khá mạnh mẽ
Giáo dục tình dục thật ra có mục đích duy nhất là chuẩn bị cho con cái một tâm lý phù hợp nhất trong cuộc sống yêu
đương để rồi có một đời sống tình dục thực sự hài lòng, thực sự hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng sau này.



Một vấn đề quan trọng nữa được đặt ra là cách tiếp cận của cha mẹ với con cái về vấn đề giáo dục giới tính để đạt hiệu quả:
trước hết cha mẹ phải tự tin vào công việc GDGT của mình, tùy theo lứa tuổi để lựa chọn nội dung và phương pháp giáo dục
thích hợp, nắm bắt được đời sống tâm sinh lý của con




Sáu nguyên tắc giúp trẻ tránh được những trường hợp đáng tiếc ở lứa tuổi dậy thì:



1. Không cho phép con trẻ hẹn hò sớm



2. Nghiêm cấm con trẻ tiếp xúc với những mối nguy hiểm tiềm ẩn




3. Tuyệt đối không cho phép con trẻ hẹn hò với những người lớn tuổi hơn mình



4. Khuyến khích con trẻ hẹn hò, gặp gỡ theo nhóm



5. Luôn luôn quan tâm, theo dõi các mối quan hệ của con trẻ



6. Thực hiện triệt để nguyên tắc “quốc có quốc pháp, gia có gia quy”



(ThS. Đào Thị Vân Anh, TT Nghiên cứu Giáo dục Phổ thông)


III. Kết luận



Dậy thì là giai đoạn phát triển mạnh mẽ cả về thể chất, sinh lý và tâm lý, nữ dậy thì sớm hơn nam. Dậy thì sớm hay muộn,
bình thường hay không bình thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả về di truyền-nội tiết, dinh dưỡng và môi trường



Vì vậy, vấn đề chăm sóc sức khỏe tuổi dậy thì cho con em chúng ta cần được chú trọng và cân nhắc cả về phương diện
chăm dinh dưỡng, nếp sống và chăm sóc tâm lý. Trong đó, giáo dục giới tính cho học sinh nói chung và lứa tuổi dậy thì nói

riêng là đặc biệt quan trọng, cần thực hiện với nội dung, phương pháp và địa điểm phù hợp với từng nơi từng đối tượng, đề
cao vai trò của nhà trường và phụ huynh để đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất.




Nhận xét:



Đây là giai đoạn phát triển đặc biệt nhất của cuộc đời - là thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trưởng thành,
với những biến đổi mạnh mẽ về thể chất, tâm sinh lý và hoạt động chức năng của hệ thống sinh sản. Đây là giai đoạn tăng tốc
và là cuối cùng của sự phát triển tầm vóc của một người.



Do vậy, những hiểu biết về đặc điểm phát triển cũng như chăm sóc sức khỏe của lứa tuổi này là rất quan trọng để trẻ có được
một cuộc sống khỏe mạnh cả về thể chất và tâm lý trong tương lai.


HẾT



×