MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hạ tầng GTĐT là một trong những lĩnh vực hạ tầng quan trọng của tất
cả các đơ thị bởi nó là yếu tố tạo nên một khung vật chất của đô thị, thiết lập
nền tảng cho mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất và sinh hoạt đô thị.
Chất lượng của hạ tầng GTĐT tạo cơ sở cho sự phát triển của thành phố. Sinh
thời Hồ Chủ Tịch đã nói: “…Giao thơng là mạch máu của mọi việc. Giao
thơng tắc thì việc gì cũng khó. Giao thơng tốt thì việc gì cũng dễ dàng…” [35,
tr 9].
Trong những năm cuối của thập kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, với việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ngành GTVT Hà Nội đã
đạt được những thành tựu to lớn với những cơng trình lớn được xây dựng
khắp thủ đơ Hà Nội. Nhất là các tuyến đường vành đai, cao tốc Láng – Hòa
Lạc, hệ thống cầu vượt. Đặc biệt, ngành GTVT đã xây dựng được những cây
cầu lớn hiện đại như cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy… Bên cạnh đó, việc đổi
mới khoa học kỹ thuật đưa công nghệ mới vào sản xuất đã tăng cường một
bước phát triển tiềm năng của ngành như xây dựng đường sắt nội đô trên cao.
Cùng với đó là q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh chóng; đời sống
người dân được cải thiện, nhu cầu giao lưu thông thương được nâng lên, số
lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng tăng, đặc biệt là xe ơ tơ.
Đó là những thành tựu hết sức quan trọng trên nhiều lĩnh vực của ngành
GTVT của Thủ đô Hà Nội. Sự phát triển kinh tế xã hội đã góp phần thúc đẩy
q trình thay đổi diện mạo tồn diện và tầm vóc hệ thống cơ sở hạ tầng
GTVT thủ đô.
60 năm đã đi qua, Thủ đô Hà Nội, trái tim của cả nước, mãi là biểu
tượng thiêng liêng, cao quý trong lòng mỗi người dân Việt. Nâng cao vai trò,
vị thế của Hà Nội trên nền tảng phát triển bền vững, hội nhập với nền kinh tế
3
thế giới nhưng vẫn bảo tồn những đặc thù riêng của Hà Nội luôn là mục tiêu
chiến lược của Đảng và Nhà nước ta.
Lịch sử hình thành và phát triển của Thủ đơ Hà Nội gắn liền với q
trình đơ thị hóa. Một trong những dấu mốc được coi là quan trọng nhất trong
q trình đó là ngày 29/5/2008, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã ra
Nghị quyết số 15/2008/QH12 về việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đơ Hà
Nội, gồm thành phố Hà Nội (cũ) với tỉnh Hà Tây (cũ); huyện Mê Linh, tỉnh
Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình. Kể từ thời điểm
này Thủ đơ Hà Nội có tổng diện tích tự nhiên 3.344,6km2, dân số hơn 6,3
triệu người.
Sau khi sáp nhập, quy mô thành phố rộng lớn hơn 3,5 lần. Hà Nội có
thêm cơ hội cho sự phát triển. Giải pháp tối ưu được Đảng, Chính phủ đưa ra
là, khơng gian đô thị của Hà Nội sẽ được tổ chức theo mơ hình chùm đơ thị,
bao gồm đơ thị trung tâm và 5 đơ thị vệ tinh là Hịa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai,
Phú Xuyên - Phú Minh và Sóc Sơn với dân số xấp xỉ từ 21 vạn đến 75 vạn
người/đô thị.
Việc phát triển không gian Thủ đô Hà Nội được đặt trong mối quan hệ
Vùng với mối quan hệ tương hỗ hai chiều. Trong đó, Thủ đơ Hà Nội tác động
đến Vùng bằng việc thể hiện vai trò là đầu tàu trung tâm tăng trưởng kinh tế,
thúc đẩy toàn vùng phát triển. Thông qua sự mở rộng, lan tỏa các hoạt động
kinh tế, đô thị tỏa ra các tỉnh xung quanh Thủ đơ.
Từ thực tế đó nên đã có rất nhiều loại hình báo chí hiện nay theo dõi
đưa tin về hạ tầng GTĐT thủ đô như báo mạng điện tử, truyền hình và VOV
giao thơng. Nhưng báo in nhất là báo in Thủ đơ có nhiều lợi thế lợi thế nhờ
khă năng phân tích bình luận, lý giải sâu rộng, đầy đủ các vấn đề, sự kiện.
Nhất là những vấn đề nóng trong hạ tầng giao thơng đơ thị như hiện nay. Để
góp phần nhận diện rõ vai trị của báo chí đối với hạ tầng GTĐT, từ đó đề ra
4
giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả thông tin của báo chí, tác giả luận văn
lựa chọn đề tài “Báo in Thủ đô với vấn đề phát triển hạ tầng giao thông đô thị
tại Hà Nội hiện nay (khảo sát Báo Hà Nội mới, Kinh tế & Đô thị, Tuổi trẻ Thủ
đô từ tháng 7 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014)” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tổng quan nghiên cứu cho thấy đã có một số cơng trình nghiên cứu về
lĩnh vực báo chí thơng tin tun truyền về giao thông vận tải đã được phê
duyệt và đưa vào sử dụng như: Đề tài cấp Thạc sỹ, Học viện Báo chí Tun
truyền, cơng bố năm 2010, tác giả Đặng Tiến Đức với đề tài “Vai trò của báo
chí trong việc thúc đẩy phát triển giao thơng vận tải ở nước ta hiện nay”.
Tác giả Đặng Tiến Đức cũng chỉ bước đầu nghiên cứu những vấn đề
chung về vai trị của báo chí tác động đến ngành giao thông vận tải và đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong ngành GTVT. Cách tiếp cận
của tác giả cũng mới chỉ ở phần cơ sở lý luận về truyền thơng báo chí và mối
quan hệ báo chí với ngành GTVT, chưa nghiên cứu về vấn đề báo chí với cơ
sở hạ tầng giao thơng đơ thị.
Ngồi ra không phải tác giả tham khảo cơ sở lý luận của PGS,TS.
Nguyễn Văn Dững trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” (2012). Nhà xuất bản
Lao động, Hà Nội. Cuốn sách là một cơng trình nghiên cứu có chiều sâu.
Cơng trình nghiên cứu góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận – thực tiễn báo
chí – truyền thơng hiện đại, nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận
và ý thức tự giác về hoạt động nghề nghiệp báo chí cho người học. Nội dung
giáo trình cung cấp những kiến thức cơ bản và hệ thống khái niệm cơ bản của
lý luận báo chí, về khái niệm và đặc điểm báo chí, bản chất hoạt động báo chí,
đối tượng, công chúng và cơ chế tác động của báo chí, về các chức năng và
nguyên tắc cơ bản của hoạt động báo chí, về chủ thể hoạt động báo chí, vấn
5
đề tự do báo chí ... Chúng ta biết, đất nước đổi mới, vai trị xã hội của báo chí
ngày càng gia tăng nhanh chóng, nhất là trong việc tạo diễn đàn cung cấp và
chia sẻ thông tin, kỹ năng và kinh nghiệm nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu
biết, thay đổi thái độ và hành vi của mỗi người phù hợp với nhu cầu phát
triển; góp phần thuyết phục công chúng, định hướng nhận thức, thái độ và
điều chỉnh hành vi của công chúng và dư luận xã hội, khơng chỉ trên bình
diện chính trị, tư tưởng mà cả trong đời sống an sinh hằng ngày. Báo chí và
dư luận xã hội là vấn đề hết sức quan trọng liên quan trực tiếp đến nghề
nghiệp, kỹ năng hành nghề, hiệu quả xã hội – hiệu ứng chính trị, tư tưởng của
báo chí truyền thơng đối với đời sống xã hội.
Khơng chỉ có về báo in viết về ngành giao thơng đơ thị tác giả cịn nhận
thấy rằng trên kênh hệ phát thanh có một số luận văn, khóa luận để tác giả so
sánh cũng như tham khảo như:
- Khóa luận tốt nghiệp “Vấn đề tương tác trên Kênh phát thanh giao
thơng - Đài Tiếng nói Việt Nam FM 91Mhz” của sinh viên Kim Văn Hiền, lớp
BCK49HN, khoa Báo chí - Truyền thông, trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Hà Nội. Đây là đề tài nghiên cứu kênh VOV Giao thơng ở góc độ
tính tương tác. Khóa luận chỉ ra xu thế tương tác trên báo chí hiện nay và việc
thực hiện tính tương tác trên kênh phát thanh giao thơng của Đài Tiếng nói
Việt Nam trong chương trình Giờ cao điểm, đồng thời cũng chỉ ra điểm mạnh,
hạn chế của việc thực hiện tương tác trên kênh phát thanh này.
Đây cũng là cơng trình nghiên cứu gần với đề tài của chúng tôi nhất.
Tuy nhiên, do đã được thực hiện từ vài năm trước nên các số liệu đã cũ và
điều cần nhấn mạnh là đây chỉ là một khóa luận tốt nghiệp đại học nên phần
lớn những nội dung mà tác giả nêu ra chi dừng lại ở mức độ mô tả là chủ yếu.
- Khóa luận tốt nghiệp “Nâng cao chất lượng chương trình Văn hố
giao thơng của Đài Tiếng nói Việt Nam” (Khảo sát từ tháng 1/2010 đến hết
6
tháng 5/2010) của sinh viên Trương Lê Na, lớp Phát thanh K26, Học viện Báo
chí và Tun truyền.
- Khóa luận tốt nghiệp “Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh
“Bánh xe đồng vọng” của Đài Tiếng nói Việt Nam” (Khảo sát trên kênh VOV
Giao thông của Đài TNVN từ tháng 01/2010 đến tháng 05/2010) của sinh
viên Nguyễn Thị Phương Thảo, lớp Phát thanh K26, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
- Khóa luận tốt nghiệp “Chương trình phát thanh “Giờ cao điểm” trên
kênh VOV Giao thơng của Đài Tiếng nói Việt Nam” của sinh viên Bùi Thị
Phương Liên, lớp Phát thanh K26, Học viện Báo chí và Tun truyền.
- Khóa luận tốt nghiệp “Sức hút của kênh VOV Giao thông đối với
công chúng” (Khảo sát công chúng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ tháng
2/2011 đến tháng 5/2011) của sinh viên Hà Hương Lan, lớp Phát thanh K27,
Học viện Báo chí và Tun truyền.
Các khóa luận này đã đi sâu nghiên cứu về chất lượng nội dung và hình
thức của những chương trình cụ thể phát trên kênh VOV Giao thơng là Văn
hóa giao thơng, Bánh xe đồng vọng, Giờ cao điểm. Trong đó, các tác giả đã
cố gắng tập trung tìm ra điểm mạnh và những mặt cịn hạn chế trong những
chương trình cụ thể, từ đó đưa ra giải pháp nhằm góp phân nâng cao chất
lượng của các chương trình đó.
Cho đến nay, giao thơng ln là vấn đề cấp thiết đối với các loại hình
báo chí mỗi loại hình ln có những thế mạnh riêng. Báo in cũng không phải
ngoại lệ, thế như để đề cập đến giao thông đô thị đặc biệt là giao thông ở đơ
thị cụ thể là Hà Nội thì vẫn chưa có một cơng trình nào đề cập đến. Vì vậy
theo tác giả đây là đề tài hoàn toàn mới, cần được nghiên cứu, tìm hiểu kỹ
càng để bổ sung vào khoảng trống trong lĩnh vực này.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hình thành khung lý thuyết về đề tài giao thông đô thị tại Hà Nội
- Chỉ ra thực trạng đưa tin bài của báo khảo sát
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã đặt ra người viết Luận văn này cần phải thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
•
Khảo sát đánh giá thực trạng hiệu quả báo chí trong hoạt động
tuyên truyền giải quyết vấn đề dư luận xã hội quan tâm về hạ tầng GT thủ đô
Hà Nội trong thời gian qua, chỉ ra những ưu hạn chế và nguyên nhân của hạn
chế.
•
Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả báo
chí trong hoạt động thơng tin tuyên truyền về hạ tầng GT Hà Nội trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Báo in với vấn đề phát triển hạ tầng giao thông đô thị tại Hà Nội hiện
nay
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung khảo sát báo Hà Nội Mới, báo Kinh Tế & Đô Thị,
báo Tuổi Trẻ Thủ Đô, các bài viết về lĩnh vực hạ tầng GTĐT. Vì đây là những
cơ quan báo chí đóng góp nhiều nhất trong việc tuyên truyền, xây dựng phát
triển cơ sở hạ tầng GTĐT trong thời gian qua.
Luận văn lựa chon thời điểm khảo sát từ tháng 7 năm 2013 đến tháng 6
năm 2014, đây là giai đoạn quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát
triển giao thông đô thị của UBND thành phố Hà Nội. Khoảng thời gian 1 năm
8
giúp cho người làm luận văn có cái nhìn tồn diện về vấn đề trước và sau
những chiến lược phát triển giao thơng Hà Nội trên báo chí.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
• Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề
hạ tầng giao thông đô thị Hà Nội, vấn đề đang được dư luận hết sức quan tâm.
• Dựa trên lý luận báo chí, về chức năng và các nguyên tắc hoạt động
của báo chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Là phương pháp chủ yếu được sử
dụng khi nghiên cứu tìm kiếm cơ sở lý luận về báo chí nói chung và báo in
nói riêng về những vấn đề đặt ra để phát triển hạ tầng giao thơng Thủ đơ.
• Phương pháp khảo sát thống kê: Khảo sát về thể loại, số lượng mà
các báo in đã đăng tải. Dựa trên các số liệu khảo sát làm cơ sở nghiên cứu, so
sánh. Sử dụng các số liệu thống kê để phân tích và làm rõ các xu hướng vận
động của những vấn đề có liên quan để lập luận nhằm minh chứng cho những
nhận xét và kết luận của tác giả
• Phương pháp phân tích, đánh giá: Phương pháp này là phương pháp
mang yếu tố quyến định của luận văn. Từ những tài liệu, những con số thống
kê, nội dung phỏng vấn…từ đó người làm luận văn sẽ đánh giá, những phân
tích làm rõ những đóng góp của đề tài.
• Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này làm căn cứ chứng
minh cho những vấn đề được đề cập trong đề tài.
• Phương pháp hệ thống hóa: Sắp sếp các thi thức của đối tượng
nghiên cứu của luận văn đã được phân tích và tổng hợp theo một cấu trúc nhất
định nhằm tạo trình bày một cách hệ thống lý thuyết, nhằm giúp cho sự hiểu
biết về phát triển hạ tầng giao thông đô thị đầy đủ và sâu sắc.
9
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn với đề tài “Báo in thủ đô với vấn đề phát triển hạ tầng giao
thông đô thị tại Hà Nội (khảo sát báo Hà Nội Mới, Kinh Tế & Đô thị, Tuổi trẻ
Thủ đô từ tháng 7 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014)”. Đề tài này đã phân tích
rõ hơn về vấn đề hạ tầng giao thông của thủ đô Hà Nội trong những năm gần
đây. Luận văn cũng đưa ra những giải pháp cho các báo in thủ đô hiện nay
nhằm góp phần phát triển hạ tầng cơ sở giao thông đô thị một cách bền vững.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Về lý luận: Góp phần khẳng định vai trị, vị trí của báo in trong hệ
thống báo chí hiện đại; chỉ rõ việc khai thác triệt để những ưu thế của báo in
só với các loại hình báo chí khác; Đồng thời khẳng định rõ hơn vai trị của
báo chí trong việc thúc đẩy phát triển hạ tầng GTĐT.
7.2. Về thực tiễn: Các giải pháp nhằm phát huy vai trị của báo chí
trong việc thúc đẩy phát triển hạ tầng GTĐT giúp cơ quan báo chí tham khảo
để làm tốt hơn cơng việc của mình.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn ngồi phần mở đầu, kết luận, dnah mục tài liệu tham khảo,
phần phụ lục, phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thơng tin báo chí và thông tin
chuyên đề trên báo in
Chương 2: Thực trạng thông tin về vấn đề phát triển hạ tầng giao thông
đô thị tại thành phố Hà Nội hiện nay trên báo Hà Nội mới, Tuổi trẻ thủ đô,
Kinh tế & đô thị
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng truyền thông về hạ tầng giao
thông đô thị trên báo Hà Nội mới, Tuổi trẻ thủ đô, Kinh tế & đô thị
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Cơ sở hạ tầng giao thông đô thị
+ Đơ thị là gì
Một đơ thị hay khu đơ thị là một khu vực có mật độ gia tăng các cơng
trình kiến trúc do con người xây dựng so với các khu vực xung quanh nó. Các
đơ thị có thể là thành phố, thị xã, trung tâm dân cư đông đúc nhưng thuật từ
này thông thường không mở rộng đến các khu định cư nông thôn như làng,
xã, ấp.
Các đô thị được thành lập và phát triển thêm qua q trình đơ thị hóa.
Đo đạt tầm rộng của một đơ thị sẽ giúp ích cho việc phân tích mật độ dân số,
sự mở rộng đô thị, và biết được các số liệu về dân số nông thôn và thành thị.
Không như một đô thị, một vùng đô thị không chỉ bao gồm đơ thị mà
cịn bao gồm các thành phố vệ tinh cộng vùng đất nông thôn nằm xung quanh
có liên hệ về kinh tế xã hội với thành phố đô thị cốt lõi, tiêu biểu là mối quan
hệ từ công ăn việc làm đến việc di chuyển hàng ngày ra vào mà trong đó
thành phố đơ thị cốt lõi là thị trường lao động chính. Thật vậy, các đô thị
thường kết hợp và phát triển như trung tâm hoạt động kinh tế/dân số trong
một vùng đô thị lớn hơn.
Các vùng đô thị thường thường được định nghĩa bằng việc sử dụng các
quận (như ở Hoa Kỳ) hoặc các đơn vị chính trị cấp quận làm đơn vị nền tảng.
Quận có chiều hướng hình thành các ranh giới chính trị bất di bất dịch. Các
kinh tế gia thường thích làm việc với các thống kê xã hội và kinh tế dựa vào
các vùng đô thị. Các đô thị được dùng để thống kê thích hợp hơn trong việc
tính tốn việc sử dụng tỉ lệ đất quân bình trên đầu người và mật độ dân cư
(theo Dumlao & Felizmenio 1976).
11
+ Cơ sở hạ tầng giao thông đô thị: Để có được cách nhìn đúng đắn, tồn
diện về cơ sở hạ tầng giao thông đô thị, trưước hết cần phải hiểu rõ về cơ sở
hạ tầng nói chung. ''Hạ tầng kinh tế - xã hội là tập hợp tất cả các phương tiện,
thiết bị và các thể chế được trang bị những yếu tố vật chất nhằm đảm bảo
những điều kiện vật chất và phi vật chất cần thiết cho các hoạt động của xã
hội trên quy mô cả nước hay từng vùng, lãnh thổ nhất đinh'' (Trích trong cuốn
''Quản lý khu vực cơng''). Cơ sở hạ tầng có thể được hiểu theo hình thái thể
hiện: Phần cứng là những cơng trình được nhìn thấy dới hình thái vật chất cụ
thể như: hệ thống giao thông, hệ thống điện, nước Phần mềm là các điều kiện
về môi trường sản xuất kinh doanh như hệ thống chính sách, cơ chế, luật
pháp, thủ tục hành chính, mơi trường an ninh, trật tự xã hội Cơ sở hạ tầng
giao thông đô thị là một bộ phận của hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, do
vậy xét về bản chất nó cũng mang những nét đặc trưng của cơ sở hạ tầng, bên
cạnh đó nó cũng có những đặc điểm riêng có khác. Để thực hiện chức năng
của mình, cơ sở hạ tầng giao thơng đơ thị có những đặc trưng của đô thị và
khác biệt với cơ sở hạ tầng của các vùng miền khác về quy mô, chất lượng Cơ
sở hạ tầng giao thông đô thị là bộ mặt của đơ thị, phản ánh trình độ phát triển
kinh tế, xã hội của đơ thị. Bởi giữa trình độ phát triển kinh tế - xã hội và quy
mô, chất lượng, hình thức của cơ sở hạ tầng giao thơng đơ thị có mối quan hệ
chặt chẽ, qua lại với nhau: Kinh tế có phát triển mới tạo được nguồn vốn đầu
tưư vào cơ sở hạ tầng giao thông đô thị, mới có được những cơng trình chất
lượng cao Và ngược lại khi cơ sở hạ tầng giao thông đô thị được quy hoạch
phát triển mạnh mẽ sẽ là tiền đề, là cơ sở quan trọng để thực hiện cơng nghiệp
hố, hịên đại hoá, đáp ứng nhu cầu giao lưu đi lại của ngời dân đô thị và giữa
đô thị với các vùng miền khác từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ.
12
- Đặc điểm của cơ sở hạ tầng giao thông đơ thị: Ngồi những nét đặc
trưng giống như cơ sở hạ tầng nói chung, cơ sở hạ tầng giao thơng đô thị
mang những đặc điểm khác biệt sau:
+ Cơ sở hạ tầng giao thơng đơ thị là hàng hố cơng cộng do nhà nước
đầu tư,vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông đô thị là rất lớn, không có khả
năng thu hồi vốn trực tiếp hoặc có nhng rất chậm.Vốn đầu tư cho cơ sở hạ
tầng giao thông đô thị là vốn từ ngân sách là chủ yếu.
+ Các cơng trình cơ sở hạ tầng giao thơng đơ thị địi hỏi thời gian xây
dựng dài, giá trị cơng trình lớn, vốn đầu tư lớn, dàn trải trong một thời gian
dài, khả năng thất thoát vốn, ứ đọng vốn trong q trình sử dụng là rất lớn. Do
đó trong quá trình sử dụng, cấp phát vốn phải chú trọng tới cơng tác quản lý
chi để tránh thất thốt, ứ đọng vốn NSNN.
+ Sản phẩm của cơ sở hạ tầng giao thơng đơ thị có có thời gian sử dụng
lâu dài, địi hỏi cơng tác duy tu, bảo dưỡng phải được thực hiện thường
xuyên, liên tục để đảm bảo cho các cơng trình khơng chỉ phục vụ nhu cầu
trưước mắt mà còn đáp ứng nhu cầu trong tương lai lâu dài
1.1.2. Báo in và báo in thủ đô
1.1.2.1. Khái niệm về báo in
Báo in là một trong bốn loại hình báo chí của nền báo chí hiện đại gồm
báo in (báo giấy), phát thanh, truyền hình và báo điện tử. Báo in ra đời sớm
nhất, (ra đời ở châu Âu vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII) đã tồn tại và
hơn bốn trăm năm, có nhiều đóng góp xuất sắc vào sự phát triển của nhân
loại. Hiện nay báo in bị các loại hình báo chí khác, đặc biệt là báo điện tử
cạnh tranh quyết liệt nên có một một phần độc giả; song, căn cứ vào đặc điểm
của mình, báo in vẫn cịn nhiều tiềm năng để tồn tại và tiếp tục mang lại lợi
ích cho lồi người. Báo in vẫn có vị trí trang trọng trong hệ thống báo chí hiện
đại.
13
Báo chí là hiện tượng xã hội có q trình phát triển lâu đời, ngày càng
chi phối rộng rãi và mạnh mẽ đến mọi tiến trình xã hội. Khái niệm báo chí
được định nghĩa trên ba phương diện: “Báo chí là một trong những hệ thống
xã hội (định danh), “báo chí là một hoạt động chính trị- xã hội” (định tính) và
“báo chí là thứ vũ khí lợi hại trong cuộc đấu tranh chính trị... tác động vào xã
hội để tạo ra sự can thiệp gián tiếp vào đời sống chính trị, tham gia vào việc
tập hợp lực lượng, giáo dục hệ ý thức và góp phần tích cực vào việc hình
thành các khuynh hướng, các phong trào chính trị- xã hội” (mục đích) [12,
tr.34 - 38].
Theo cuốn Cơ sở lý luận báo chí của tác giả Nguyễn Văn Dững: Trong
q trình phát triển, khái niệm báo chí đã được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng
tựu trung lại, thơng thường, có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Báo chí
được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm báo in, báo phát thanh, báo truyền hình,
báo mạng điện tử và báo bảng điện tử - tức là những kênh truyền thông đại
chúng sản xuất và quảng bá thông tin thường xuyên liên tục nhất, trên phạm
vi rộng lớn, nhất định (và phi định kỳ) đều đặn và cập nhật nhất, tác động đến
nhiều người nhất, đa dạng và phong phú nhất. Trong mục này, chỉ nói tới báo
chí theo nghĩa hẹp - đó là báo, tạp chí - báo in và các sản phẩm in ấn khác,
bao gồm nhật báo (báo hàng ngày: báo buổi sáng, báo buổi chiều), tuần báo,
báo thưa kỳ (mỗi tuần xuất bản 2, 3, hoặc 4, 5 kỳ) và tạp chí, bản tin thời sự...
Theo tác giả Nguyễn Văn Dững trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí: Báo
in là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, bằng ký hiệu chữ viết, hình ảnh và các
ngơn ngữ phi văn tự, thông tin về các sự kiện và vấn đề thời sự, phát hành
rộng rãi và định kỳ nhằm phục vụ cơng chúng - nhóm đối tượng nào đó với
mục đích nhất định [8, tr.101].
1.1.2.2. Báo in thủ đô
14
Báo in thủ đô là một khái niệm đa nghĩa: hoặc đó là các tịa soạn báo
được đặt trên địa bàn của thủ đô Hà Nội, hoặc là các tờ báo có trang, bài viết
về thủ đơ mặc dù có thể được đặt ở một địa phương nào đó, hoặc được hiểu
theo hướng đó là những tờ báo trực thuộc các tổ chức chính trị, xã hội của
thành phố Hà Nội và do các tổ chức chính trị, xã hội đó là cơ quan chủ quản
có trách nhiệm về mọi mặt với các tờ báo được phát hành. Trong luận văn
này, khái niệm báo in thủ đô được hiểu là báo của các tổ chức chính trị, xã
hội, đồn thể Hà Nội in ấn, phát hành và đối tượng độc giả chủ đạo là cơng
chúng thủ đơ.
Báo chí thủ đơ đặc biệt là báo in đã và đang phát triển mạnh mẽ và có
nhiều thay đổi cả về số lượng và chất lượng. Ban đầu chỉ có 2 cơ quan báo chí
(Báo Hà Nội mới, Đài truyền thanh Hà Nội) và 1 tờ tin Phim mới (tiền thân
của Báo Màn ảnh và Sân Khấu). Đến nay, thành phố Hà Nội có 23 cơ quan
báo chí (1 đài phát thanh truyền hình; 13 báo in; 9 tạp chí chun ngành) [31].
Trong đó, về báo in, phân loại theo tính chất của báo chí như sau:
- Báo chính trị - xã hội: Báo Hà Nội mới là cơ quan của Thành ủy
Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hà Nội. Báo xuất bản số đầu tiên ngày
24 — 10 - 1957. Tính đến tháng 4 - 2013, Báo Hà Nội mới có tổng số 206 cán
bộ, phóng viên, biên tập viên (PV, BTV) làm việc tại 18 phịng, ban chun
mơn. Các ấn phẩm chính gồm: Hà Nội mới hàng ngày (số lượng phát hành
45.000 tờ/kỳ; Hà Nội
- Về phát thanh - truyền hình, có Đài PT- TH Hà Nội, một cơ quan báo
chí tổng hợp, với các loại hình báo chí: phát thanh, truyền hình, báo điện tử,
truyền hình internet, truyền hình cáp, ấn phẩm Tạp chí truyền hình Hà Nội.
Đài PT&TH Hà Nội có 645 lao động (80% có trình độ đại học và trên đại
học; 30% có trình độ đại học chuyên ngành báo chí).
15
- Về báo mạng điện tử và các trang thông tin điện tử (bao gồm cả các
trang điện tử của một số tờ báo) có: http:www.hanoimoi.com.vn (Báo Hà Nội
mới điện tử), (Báo Kinh tế và Đô thị điện tử),
www.htv.org.vn (Đài PT- TH Hà Nội), www.hanoi.gov.vn (Cổng giao tiếp
điện tử của UBND TP. Hà Nội), (Báo An ninh
Thủ đô điện tử), (Báo Tuổi trẻ Thủ đô điện tử),
hptt://baophunuthudo.vn (ấn phẩm điện tử của báo Phụ nữ Thủ đô),
(ấn phẩm điện tử của báo Người Hà Nội)...
Các cơ quan báo chí Hà Nội đều hoạt động theo mơ hình đơn vị sự
nghiệp cơng lập (Nghị định số 43/2006/NĐ-CP), tự bảo đảm 100% hoặc một
phần chi phí. Doanh thu của các cơ quan báo chí gồm nguồn ngân sách thành
phố cấp; các nguồn thu từ phát hành, quảng cáo, tài trợ...
Ngồi ra, cịn có Nhà xuất bản Hà Nội mỗi năm ra hàng trăm đầu sách,
trong đó sách về đề tài Hà Nội chiếm tỷ trọng hàng đầu. Hơn 400 cơ sở in sử
dụng thiết bị in công nghiệp; 2 cơ sở phát hành sách do thành phố quản lý;
hàng trăm nhà sách, cơ sở phát hành sách, hàng trăm cơ sở in lưới, in laser,
photocopy của các cơ quan trung ương, các địa phương khác và tư nhân đang
hoạc động trên địa bàn thành phố.
Những năm gần đây, do khó khăn của nền kinh tế nói chung, báo chí
Thủ đơ đều sụt giảm số lượng phát hành (trung bình giảm 30 - 60%) dẫn đến
giảm quảng cáo, doanh thu, cộng với việc phải tự đảm bảo hoàn toàn chi phí
hoạt động khiến các cơ quan báo chí càng gặp nhiều khó khăn.
1.1.2.3. Sự giống và khác nhau giữa thể loại báo in với các thể loại báo
chí khác
* Ưu điểm
Việc tiếp nhận thông tin
16
So với các loại hình báo chí như phát thanh, truyền hình, báo mạng điện
tử, đối với báo in, cơng chúng tiếp nhận hoàn toàn chủ động. Chủ động từ
việc lựa chọn sản phẩm truyền thông theo nhu cầu đến việc lựa chọn không
gian, thời gian để tiếp nhận.
Trong khi đó, đối với loại hình phát thanh và truyền hình, đây là một
hạn chế vì khả năng tiếp nhận của cơng chúng hồn tồn phụ thuộc vào trình
tự thời gian nhất định. Đối với báo mạng điện tử, mặc dù cơng chúng hồn
tồn có thể chủ động lựa chọn sản phẩm truyền thông theo nhu cầu, nhưng lại
phụ thuộc rất nhiều vào việc máy tính hay các thiết bị cá nhân có khả năng kết
nối Internet hay khơng.
Nội dung
Báo in có ưu điểm là đưa thơng tin sâu, có nhiều bài bình luận sâu sắc
về mọi lĩnh vực đời sống của xã hội. Và hơn hết là độ an toàn cao, cơng
chúng nhớ lâu hơn so với các loại hình khác.
Trong khi đó, đối với loại hình phát thanh, truyền hình, do chỉ phát đi
một lần, ít lặp lại và phụ thuộc vào trình tự thời gian nên cơng chúng ít nhớ
những gì thơng tin do hai loại hình báo chí này chuyển tải, cho dù rất nhanh
nhạy, kịp thời. Mặt khác do phụ thuộc vào thời lượng chương trình, nên thơng
tin trên phát thanh, truyền hình khơng sâu hơn so với báo in.
Đối với báo điện tử, thông tin tuy nhanh nhạy, có thể cập nhật liên tục
tính theo từng phút, tuy nhiên do công chúng thường đọc lướt, tiếp nhận
khơng sâu. Độ an tồn thơng tin cũng tương đối thấp do phụ thuộc vào sự ổn
định của server, nguy cơ bị sự cố (virus, tin tặc tấn công) rất cao.
Về mặt kỹ thuật
Về phương diện kỹ thuật, báo in đơn giản hơn rất nhiều so với các loại
hình báo chí khác. Việc dàn trang, chế bản báo in, chỉ cần một máy tính có
17
cấu hình tương đối, phần mềm khơng địi hỏi tích hợp đa phương tiện truyền
thơng đã có thể chế bản báo và xuất phim thẳng cho nhà in.
Trong khi đó, cả phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử địi hỏi
phải có các hệ thống máy móc kỹ thuật cao như máy phát sóng (phát thanh,
truyền hình) hoặc server mạnh (báo mạng), sử dụng hìh ảnh động (flash), âm
thanh (voice, music), đồ họa), video sinh động…
* Nhược điểm
Về mặt hình thức
Trong khi thị hiếu của cơng chúng đang ngày càng thay đổi theo chiều
hướng ưa chuộng tính thẩm mĩ cao thì ngoại trừ một số tờ báo có đủ kinh phí
để in màu với chất liệu giấy dày dặn, hình thức bắt mắt và gây được ấn tượng
thì phần lớn báo in Việt Nam vẫn là đen trắng, chất liệu giấy chưa đẹp. Điều
này là một trong hạn chế lớn nhất để người đọc, đặc biệt là những độc giả
trẻ tiếp nhận các sản phẩm báo in
Công tác phát hành
Đây là một hạn chế lớn của báo in so với các loại hình báo chí khác.
Việc phát hành báo in tốn kém, chậm chạp, phụ thuộc vào phương tiện vận
tải, đường xá giao thông và tác phong làm việc.
Trong khi đó, đối với phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử, việc
phát hành khá thuận lợi chỉ cần đưa lên mạng, phát sóng là có thể đến “tận
tay” công chúng.
Sự tương tác với độc giả
Một hạn chế khác đối với báo in là sự phản hồi của người đọc phải trải
qua nhiều khâu, thậm chí cần phải có đơn khiếu nại bài báo.
Trong khi đối với phát thanh, truyền hình và báo mạng, tính tương tác
giữa tồ soạn và công chúng rất cao, chỉ cần gọi điện thoại đến đài (phát
18
thanh, truyền hình), comment hay gửi mail (báo mạng) là tồ soạn đã tiếp
nhận phản hồi của cơng chúng.
Tính thời sự
Đây là hạn chế nổi bật của báo in so với các loại hình báo khác khi
cơng nghệ thơng tin đang ngày càng phát triển. Với một sự kiện, báo in cần có
sự chứng kiến tại hiện trường, viết bài, biên tập, lên trang, in ấn và gửi tới các
cơ quan phát hành báo chí. Sự kiện trong báo in thường là sự kiện đã xảy ra,
đã nguội hoặc thông báo dự kiến sự kiện sẽ xảy ra. Tính định kì đã chi phối
rất nhiều tính thời sự, nóng hổi của thơng tin.
Báo mạng điện tử và các loại hình báo khác có tính thời sự cao hơn hẳn
so với báo in. truyền hình, phát thanh và Báo mạng có thể update liên tục, tức
thời mà khơng cần phải có khuôn khổ lên trang như báo in.
19
1.2. Vai trị của báo in thủ đơ trong vấn đề phát triển hạ tầng giao
thông đô thị
1.2.1. Thông tin chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, ngành
giao thơng
Báo in thủ đơ có vai trị to lớn trong việc thơng tin các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Báo in thủ đơ đã góp phần tích
cực vào những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm qua. Báo in thủ đô cung
cấp cho công chúng những thông tin nhanh nhạy, phong phú, đa dạng về mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
Với nhiệm vụ là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, báo in
thủ đô chuyển tải nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện tốt
hơn vai trò, nhiệm vụ của mình. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước của thành phố Hà Nội cũng đến được với công chúng thủ đô một cách
hiệu quả nhất qua hệ thống các báo, tạp chí thủ đơ.
Cùng với nhiệm vụ tun truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, báo in thủ đô chú trọng giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống cách mạng góp phần củng cố niềm tin của
nhân dân Hà Nội vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước [18],
[23], [27].
Trong lĩnh vực giao thông, báo in thủ đơ cung cấp các thơng tin, chính
sách của Bộ giao thông, các văn bản về giao thông của thành phố Hà Nội.
Cơng chúng thủ đơ có thể nắm bắt được đầy đủ các dự thảo luật, các chính
sách về hạ tầng giao thông đô thị ở Hà Nội nói riêng và ở các thành phố, thị
trấn thị xã khác trong đất nước Việt Nam. Qua báo in, người dân thu nhận
được thông tin về đường lối về hạ tầng giao thơng, giải phóng mặt bằng, xây
20
dựng đường, mở đường, làm cầu… Qua báo in người dân cũng có thể phản
hồi đến nhà quản lý, hoạch định chính sách. Thời gian qua báo hin thủ đơ
đăng tải những bài về chủ chương về kết cấu hạ tầng giao thông đô thị Hà
Nội, luật sử phạt hành chính về vi phạm luật, xây dựng cầu vượt nhẹ. Báo in
cũng là một trong những cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước
về giao thông đô thị, các ban ngành chức năng của Hà Nội nắm bắt được
nguyện vọng của người dân thủ đô và đề ra những chính sách phù hợp với
thực tiễn.
Có thể thấy rằng, trong lĩnh vực giao thông đô thị, báo in thủ đơ phát
huy vai trị quan trọng trong việc thơng tin về đường lối, chủ trương, chính
sách mới về y tế của Nhà nước vè cũng thông qua báo in, cơng chúng Hà Nội
có điều kiện phản hồi thơng tin hiệu quả đến các nhà quản lý, các nhà thầu
xây dựng, các nhà hoạch định chính sách… Báo in phát huy vai trò tạo dư
luận xã hội, hướng dẫn dư luận xã hội, thúc đẩy các cơ quan quản lý về giao
thông đô thị thực hiện tốt hơn vai trị, chức năng, nhiệm vụ của mình.
1.2.2. Về hạ tầng giao thông đô thị thành phố Hà Nội
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, báo chí Việt Nam ln thực
hiện tốt nhiệm vụ tuyên tuyền các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về GTVT, một mặt để cho các doanh nghiệp GTVT, các nhà đầu
tư thấy được một những chính sách quan trọng của nhà nước trong việc phát
triển đất nước, GTVT, mặt khác để tồn thể xã hội nhận thức được vai trị của
GTVT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh hội
nhập và phát triển, từ đó có những hành động thiết thực, góp phần vào công
tác thu hút đầu tư phát triển GTVT.
Thành công nổi bật nhất và cũng chính là tác động tích cực nhất của
báo chí đối với GTVT chính là phản ánh mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của ngành GTVT có hiệu quả, góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của
21
người dân. Quan điểm của các nhà hoạch định chính sách về việc phát triển
GTVT, cũng như của các nhà đầu tư thế giới trong bối cảnh đất nước ta đang
nỗ lực xây dựng và phát triển để trở thành một nước công nghiệp. Bằng sự cố
gắng và sáng tạo trong lao động nghề nghiệp, báo chí đã đưa hình ảnh về một
đất nước Việt Nam hịa bình, ổn định về chính trị, năng động trong hội nhập
và phát triển kinh tế đến với đông đảo công chúng và bạn bè quốc tế cũng như
giới đầu tư.
Bằng việc vận dụng những kỹ năng nghề nghiệp một cách linh hoạt và
hiệu quả, thời gian qua báo chí đã đưa đến cho công chúng, cũng như các nhà
quản lý, nhà đầu tư những thông tin về GTVT Việt Nam một cách đầy đủ, cập
nhật, trung thực, khách quan và đa chiều về các hoạt động của ngành GTVT.
Qua báo chí, cơng chúng, nhà đầu tư, doanh nghiệp có thể nắm bắt được
những chủ trương, chính sách khuyến khích đầu tư của Đảng và Nhà nước,
những nỗ lực trong cải cách thể chế, hồn thiện cơ chế, chính sách, phát luật
nói chung và trong lĩnh vực GTVT nói riêng... qua đó tìm thấy được cơ hội và
quyết định đầu tư phát triển GTVT tại Việt Nam.
+ Góp phần hồn thiện cơ chế, chính sách về giao thông vận tải
Một trong những yêu cầu tăng tính hấp dẫn của báo chí là khơng lẩn
tránh những vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Chính vì vậy, trong q trình thơng
tin, tun truyền, phán ánh về hoạt động GTVT tại Việt Nam, báo chí đã
thẳng thắn chỉ ra những điểm còn bất cập, hạn chế trong cơ chế, chính sách,
trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị xác đáng và thực sự có giá trị,
góp phần quan trọng vào việc hồn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế nói
chung và cơ chế, chính sách về GTVT nói riêng. Đây vừa là nhiệm vụ, trách
nhiệm vừa là vai trị của báo chí, qua đó thể hiển rõ tác động và hiệu quả của
báo chí đối với lĩnh vực GTVT tại Việt Nam.
22
Thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Nhà nước, Chính Phủ với cộng
đồng doanh nghiệp, và các nhà đầu tư. Báo chí cịn dành một phần lớn dung
lượng để đăng tải những vướng mắc của doanh nghiệp và các nhà đầu tư
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như tâm tư, nguyện
vọng, kiến nghị nhằm hướng tới một môi trường hoạt động hiệu quả, công
bằng.
Bên cạnh đó, báo chí cịn chỉ ra những hạn chế, bất cập khơng phải xuất
phát từ cơ chế, chính sách mà là q trình thực hiện, thực thi. Cơ chế chính
sách, sự phối hợp giữa các bộ, ngành ở cấp trung ương, đặc biệt là quá trình
thực thi pháp luật ở địa phương về giao thơng vận tải.
+ Hồn thiện dần về định hướng, chiến lược phái triển giao thông vận
tải
Bằng những phân tích, đánh giá, bình luận sắc sảo, báo chí đã chỉ ra
những khuyết điểm trong định hướng và phát triển GTVT. Ví dụ như: cịn
nặng nề về thành tích nên đơi khi q chú trọng đến các thành tựu đã đạt được
mà chưa có giải pháp cụ thể, hiệu quả đề đẩy nhanh công tác xây dựng, thực
hiện nguồn vốn đầu tư, tăng cường năng lực cạnh tranh trong đấu thầu; chưa
có một chiến lược phát triển mang tính dài hạn và đặt trong chiến lược phát
triển tổng thể kinh tế xã hội của đất nước, dẫn đến những bất cập trong đầu tư
giữa các ngành nghề, các vùng miền hoặc những trào lưu đầu tư không nhận
được sự đồng thuận của xã hội (ví dụ như việc phát triển đường sắt cao tốc
trong thời gian vừa qua...).
Bên cạnh đó, các nhà báo cịn tổng kết, liên hệ và chỉ ra những kinh
nghiệm xây dựng và phát triển GTVT của các quốc gia trên thế giới trong đó
có những nước có điều kiện tương đồng như Việt Nam để tham khảo, so sánh
và rút ra những bài học quý báu cho ngành GTVT Việt Nam.
23
Như vậy, có thể thấy, trong q trình tác nghiệp, bằng kiến thức nền
cộng với nhiệt huyết nghề nghiệp, và những cố gắng để tìm hiểu, trau dồi
nâng cao năng lực chun mơn, mỗi phóng viên, nhà báo viết về GTVT đã
phấn đấu để trở thành những chuyên gia thực thụ trong lĩnh vực này. Từ đó đã
có những đóng góp cần thiết, quan trọng và hiệu quả trong việc điều chỉnh và
hoàn thiện định hướng, chiến lược phát triển GTVT tạo tiền đề cho sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp GTVT
Doanh nghiệp và doanh nhân là đối tượng phản ánh quan trọng của báo
chí. Cùng chung dịng chảy phát triển của đất nước, sự phát triển của GTVT
có đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp GTVT và ngày càng trở thành
một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, tích cực chuyển giao cơng nghệ,
đóng góp đáng kể cho thành tựu phát triển của đất nước. Ngành GTVT đã giải
quyết một số lượng lớn cơng ăn việc làm, góp phần đảm bảo cho an sinh xã
hội đất nước...
Báo chí cũng đã kịp thời đăng tải những thông tin về cơ chế, chính
sách, chiến lược của ngành GTVT từ đó phân tích, đánh giá, những thơng tin
trong và ngồi nước...
Đây là những thông tin vô cùng cần thiết và quý giá đối với doanh
nghiệp để tính tốn xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển cũng như có
những điều chỉnh quan trọng trong từng bước đi nhằm đạt được thành công và
hiệu quả cao nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Trong những năm qua, báo chí ln có mặt để kịp thời biểu dương, ghi
nhận thành tích và những đóng góp đáng kể của khối doanh nghiệp GTVT
cho sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, báo chí cũng đã kịp thời chỉ ra
những hạn chế, thiếu sót trong q trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng
24
như đề ra những biện pháp khắc phục. Đối với những doanh nghiệp có những
hành vi vi phạm pháp luật và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, báo chí cũng
đã kịp thời vào cuộc, phân tích, tìm hiểu động cơ, nguyên nhân, đề xuất
hướng xử lý... Thái độ phê bình, phê phán của báo chí là rất tích cực và khách
quan, nhằm mục tiêu cao nhất là hướng doanh nghiệp phát triển một cách
“lành mạnh” trên cơ sở tuân thủ và thực hiện đúng những quy định của pháp
luật, đảm bảo hài hịa giữa lợi ích của các nhà đầu tư - lợi ích của người lao
động - lợi ích của doanh nghiệp và quốc gia.
1.3. Nhiệm vụ của Báo in Thủ đô trong việc thông tin về vấn đề
phát triển hạ tầng giao thông đô thị tại Hà Nội
Là kênh thơng tin phản ảnh q trình hình thành và phát triển của
GTVT Việt Nam
Báo chí ln được đánh giá là một trong những kênh thông tin quan
trọng đối với sự hình thành và phát triển của GTVT Việt Nam. Thông tin
tuyên truyền về hoạt động của GTVT được khởi động và song hành cùng với
sự ra đời và phát triển của ngành GTVT. Ngay từ đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp và suốt hành trình giữ nước và dựng nước của dân tộc, các
phương tiện thông tin của chính quyền cách mạng như báo Sự thật, Cứu quốc
đã tun truyền, cổ vũ, động viên tồn dân góp sức xây dựng đường sá, cầu
cống, tạo ra tiềm lực mạnh mẽ để hoàn thành các nhiệm vụ trọng đại của đất
nước. Từ đó đến nay, tuy được duy trì ở mức độ khác nhau qua các thời kỳ,
nhưng hoạt động của báo chí trong việc thơng tin, tun truyền về GTVT đã
không ngừng tăng lên về số lượng, đa dạng về hình thức và phương thức thể
hiện. Đồng thời ngày càng nâng cao chất lượng về mặt nội dung, góp phần
quan trọng trong việc giáo dục nhận thức của công dân về vai trị của GTVT.
Báo chí nước ta đã cung cấp một lượng thông tin khổng lồ về GTVT cho
đông đảo công chúng bao gồm các nghị định, nghị quyết, các văn bạn pháp
25
quy, các quy định, chiến lược phát triển của quy hoạch của Chính phủ. Đồng
thời, báo chí đã có nhiều bài phân tích những mặt tích cực và sự tác động
mạnh mẽ của GTVT đối với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại bằng cách
đưa ra những dẫn chứng cụ thể về các hoạt động của ngành GTVT, các tổ
chức, cá nhân có uy tín trong ngành GTVT.
Với sự hợp lực của báo chí nhắm vào các vấn đề của ngành GTVT nên
hình ảnh hoạt động của lĩnh vực GTVT đang ngày càng gần gũi hơn với
người dân. Báo chí đã giải quyết được nhiều thắc mắc của người dân về
ngành GTVT. Nhất là những vấn đề nóng trong hạ tầng giao thơng. Các nhà
báo, phóng viên bằng nghiệp vụ, quyền lực của mình đã khơng quản khó khăn
tìm hiểu, thu thập, gặp gỡ các chuyên gia trong ngành GTVT để có những bài
viết sắc bén thỏa mãn lòng dân giúp ngành GTVT phát triển tốt hơn. Từ đó,
tình hình tiêu cực trong một số lĩnh vực xây dựng cơ bản của GTVT đã ngày
một mất đi. Hình ảnh cho sự phát triển của đất nước gắn liền với sự phát triển
của ngành GTVT qua những cây cầu, con đường tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện đưa vào cuộc sống nhằm thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Qua
khảo sát thực hiện trên các báo Hà Nội mới, Kinh tế & Đô thị và báo Tuổi trẻ
Thủ đô cho thấy các báo đều đã và đang làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền phản
ánh tình trạng giao thông cũng như chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông tại đô
thị Hà Nội hiện nay thông qua việc đăng tải thực trạng cơ sở hạ tầng đô thị,
kịp thời đưa tin về những xuống cấp của cơ sở hạ tầng giao thông, tuyên
truyền nâng cao kiến thức của người dân về GTVT, góp phần phát triển mục
tiêu gắn phát triển hạ tầng giao thông đô thị với nâng cao ý thức của người
dân trong tham gia giao thông.
Việc đảm bảo nhu cầu cung cấp thông tin và tuyên truyền phổ biến kiến
thức cho người dân đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với báo chí, phải đổi mới
hơn nữa cả về nội dung lẫn cách thức thể hiện, nhằm đáp ứng được những đòi