Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

Luan van tư tưởng y đức hồ chí minh với việc giáo dục y đức cho sinh viên ngành y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.04 KB, 142 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt
xuất của Việt Nam - đã giành trọn cuộc đời mình đấu tranh vì mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Di sản Hồ Chí Minh cho thấy: con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của cách mạng là nhân tố hàng đầu, nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết
định sự phát triển của đất nước. Nói tới con người là phải nói tới sức khỏe vì
đó là tài sản quý báu của mỗi người, mỗi gia đình và mỗi quốc gia. Sức khỏe
của nhân dân là một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, "dân cường thì quốc thịnh". Muốn có sức khỏe cho nhân dân, cần phải
xây dựng và phát triển nền y học nước nhà theo tinh thần "dân tộc, khoa học và
đại chúng", trong đó phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ y tế của nhân dân,
vì nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng con người nói chung, đội ngũ cán bộ y
tế nói riêng, cùng với "chuyên" tức tài năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
cần phải chú trọng cả "hồng" tức đạo đức, coi đó là gốc của con người. Bởi vì
có tài mà không có đức thì không những không có lợi gì mà còn có hại cho
đất nước. Ngành y là khoa học về con người lại càng phải chú trọng về đạo
đức - "lương y phải như từ mẫu". Tư tưởng y đức và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ y tế giàu nhiệt huyết, có tâm
đức, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng nền y học
Việt Nam vững mạnh.
Trong sự nghiệp đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, cách mạng nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, xây dựng một
xã hội phát triển về kinh tế, ổn định về chính trị. Tuy nhiên, cơ chế thị trường,



2

xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động rất lớn đến đời sống của nhân dân ta
dẫn đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái chính trị, tư
tưởng đạo đức, lối sống, coi rẻ lương tâm, nhân phẩm, danh dự… Vì vậy, để
thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội thì việc
học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một việc
làm cấp thiết.
Đối với ngành y, việc rèn luyện đạo đức là nhiệm vụ có ý nghĩa nền
tảng - Y đức là đạo đức của người làm công tác y tế. Từ thời xa xưa, hàng
nghìn năm trước công nguyên, xã hội cũng như nghề y còn quan niệm phụ
thuộc nhiều vào thần quyền, thế quyền hoặc tôn giáo. Qua các thời kỳ phát
triển của xã hội loài người, ở khắp mọi nơi trên thế giới, cả phương Đông và
phương Tây, vấn đề y đức vẫn thường xuyên được quan tâm, là thước đo về
lương tâm, trách nhiệm và nghĩa vụ đối với người thầy thuốc.
Ở Việt Nam, vấn đề y đức cũng được bàn đến từ rất lâu qua các lời răn
dạy của các đại danh y như: Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, và
Nguyễn Đình Chiểu trong Ngư tiều y thuật vấn đáp…
Trên nền tảng truyền thống tốt đẹp của y đức dân tộc và tinh hoa y đức
thế giới, tư tưởng y đức Hồ Chí Minh với nội dung sâu sắc và toàn diện trở
thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho nền y học cách mạng.
Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, các thầy thuốc qua các thế hệ đã
hoạt động không mệt mỏi vào sự nghiệp chung của cách mạng, thực hiện tốt y
đức truyền thống của dân tộc cũng như y đức Hồ Chí Minh, đồng thời ra sức xây
dựng, bồi dưỡng các thế hệ thầy thuốc kế cận cho đất nước để thực hiện tốt sự
nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, ngành y tế vừa có cơ hội để phát
triển, đồng thời cũng bị tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường. Một bộ
phận cán bộ ngành y tế bị cám dỗ bởi sức mạnh của vật chất, chỉ tập trung vào



3

học tập, trau dồi y lý, y thuật để có tay nghề cao thu được nhiều tiền mà ít chú
ý đến y đức, phân biệt, đối xử không công bằng với bệnh nhân, đánh mất lòng
nhân ái, thiếu trách nhiệm đối với người bệnh… y đức trở thành vấn đề bức
xúc của xã hội. Vì thế, việc nghiên cứu đạo đức xã hội nói chung, đạo đức
ngành y nói riêng là rất cần thiết.
Đà Nẵng - thành phố nằm ở vị trí địa lý khá thuận lợi, là đầu mối giao
thông quan trọng nối liền Bắc - Nam, là thành phố có hệ thống nhà ga, sân
bay, cảng biển quốc tế, là địa bàn có đầy đủ các thành phần kinh tế, các ngành
kinh tế đã thúc đẩy công nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hóa, giáo dục và đào
tạo, y tế phát triển, đời sống nhân dân ngày một sung túc hơn. Đà Nẵng có
điều kiện khí hậu khắc nghiệt, là vùng trước đây đế quốc Mỹ xây dựng kho
chứa chất độc điôxin, là nơi có nhiều khu công nghiệp, lưu lượng khách quốc
tế đến Đà Nẵng ngày càng nhiều… Những điều kiện trên đã đặt ra sứ mệnh
cho ngành y tế Đà Nẵng những nhiệm vụ rất nặng nề trong việc chăm sóc sức
khỏe và chữa bệnh tật cho nhân dân. Để đáp ứng được yêu cầu khám chữa
bệnh cho nhiều đối tượng đặc biệt là những nạn nhân của chất độc điôxin, nạn
nhân của thiên tai, người cán bộ y tế Đà Nẵng phải thực hiện tốt y đức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh: Thương yêu, tận tâm chăm sóc người bệnh như anh em ruột
thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn, lương y như từ mẫu.
Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và phát triển nền y học nước nhà, phát triển nguồn nhân lực y
tế, Đảng, Nhà nước, ngành y tế luôn quan tâm giáo dục - đào tạo người làm
công tác y tế. Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, được sự đồng ý của Bộ Y tế,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Cao đẳng Kỹ thuật Y tế II đã được thành lập
ngày 26/3/1963 và Trường Cao đẳng Phương Đông thành lập ngày 18/5/1998
đào tạo đa ngành, trong đó có chăm sóc sức khỏe. Hơn ai hết, sinh viên ngành

y, những người làm công tác y tế tương lai, cần được trang bị hành trang cả y
lý, y thuật, y đức, y luật, y đạo để khi ra trường có đủ phẩm chất và năng lực
phục vụ con người một cách tốt nhất. Đối với sinh viên ngành y nói chung và


4

sinh viên ngành y trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng, việc giáo dục y
đức càng cấp bách và cần thiết. Bởi vì, hiện nay một bộ phận sinh viên ngành
y nói chung và sinh viên ngành y ở Đà Nẵng nói riêng có nhiều biểu hiện tiêu
cực như: tự ý nghỉ học, gian lận trong thi cử, cờ bạc, rượu chè, ứng xử thiếu
văn hóa, vi phạm pháp luật… Đặc biệt họ chưa thật sự ý thức sâu sắc và toàn
diện về y đức, chưa có những hiểu biết cần thiết về tư tưởng y đức Hồ Chí
Minh.
Những lý do trên cho thấy giáo dục y đức cho sinh viên ngành y trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng là việc làm cấp thiết hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn
đề tài: "Tư tưởng y đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục y đức cho sinh viên
ngành y trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tư tưởng y đức Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau, tiêu biểu là:
Về sách:
- Bộ Y tế - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Chủ tịch Hồ Chí
Minh với công tác bảo vệ sức khỏe (Kỷ yếu hội nghị khoa học Chủ tịch Hồ
Chí Minh với công tác bảo vệ sức khỏe), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- GS. Đỗ Nguyên Phương - TS. Nguyễn Khánh Bật - Bác sĩ Nguyễn
Cao Thâm: Chủ tịch Hồ Chí Minh với y tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Nguyễn Hà Thanh, Cẩm nang tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lao động,
Hà Nội, 2007.

Những cuốn sách trên đã đề cập đến quan niệm của Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa đức và tài; Bác Hồ với y đức; thầy thuốc phải như mẹ hiền
từ tư tưởng y đức của Bác Hồ đến chủ trương đúng đắn, cấp bách của Đảng;
hướng tiếp cận nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về y đức; y đức


5

trong xã hội đổi mới; đạo đức cách mạng của người thầy thuốc; về những
phẩm chất của người cán bộ y tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh; thầy thuốc như
mẹ hiền; quan điểm của Hồ Chí Minh về người cán bộ y tế và y đức; y đức
Việt Nam - truyền thống và hiện trạng; Hồ Chí Minh với "tình nhân loại, thân
ái"; để thực hiện được lời dạy của Bác Hồ về y đức Việt Nam; thầy thuốc như
mẹ hiền - vấn đề cốt lõi trong tư tưởng y đức Hồ Chí Minh. Quán triệt quan
điểm về y đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong ngành y tế Việt Nam hiện nay;
cán bộ y tế phải có đức, có tài và có cái tâm trong sáng.
Về các bài đăng trên báo, tạp chí:
- Trần Thị Hồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh với y đức và y nghiệp: Báo Y
học và đời sống, số 63(875), ngày 6-11-1999.
- PGS.TS Hoàng Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tạo lập nền y
đức mới, Báo Nhân dân, tháng 5, 2000.
- ThS. Lâm Văn Đồng, Nâng cao y đức, học tập và làm theo tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6-2009.
- Việt Dũng, Vun đắp hai chữ y đức, Báo Đà Nẵng, ngày 24-2-2010.
- Tô Vĩnh Hà, Xin tri ân các thầy thuốc, Báo Đà Nẵng, ngày 26-2-2010.
- Viên Phúc Quân, Nhớ câu "Y tích âm công", Báo Đà Nẵng, ngày
28-2-2010.
Các bài báo trên đã đề cập đến sự cần thiết phải nâng cao y đức Hồ
Chí Minh "lương y như từ mẫu", khẳng định y đức là lương tâm, đạo đức,
trách nhiệm, bổn phận của người thầy thuốc. Đối tượng để nâng cao y đức Hồ

Chí Minh của các bài viết trên nhằm vào những cán bộ công tác trong ngành
y, chưa đi vào đối tượng cụ thể là sinh viên ngành y.
Về luận văn:


6

- Võ Anh Hổ, Tư tưởng y đức Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới
ngành y tế, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, 2001.
- Phạm Văn Thông, Tìm hiểu tư tưởng y đức Hồ Chí Minh trong nền
kinh tế thị trường, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân chính trị, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Nguyễn Thọ Hướng, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vận dụng
vào việc giáo dục y đức cho cán bộ, đảng viên ngành y tế hiện nay, Luận văn
tốt nghiệp Đại học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
- Ngô Thị Minh Huệ, Tìm hiểu tư tưởng y đức Hồ Chí Minh và vận
dụng vào việc xây dựng y đức cho đội ngũ thầy thuốc của ngành y tế tỉnh Phú
Thọ hiện nay, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân chính trị, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2003.
- Nguyễn Hữu Hùng, Nâng cao y đức người cán bộ y tế trong thời kỳ
đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Trần Xuân Khánh, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào
xây dựng y đức cho cán bộ công chức ngành y tế tỉnh Hưng Yên, Luận văn tốt
nghiệp Cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Phạm Quang Lưu, Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức trong thời kỳ đổi
mới, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2004.
- Hà Thị Dương, Tư tưởng y đức Hồ Chí Minh trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân chính trị,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.


7

- Đào Thị Hằng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ ngành y tế
với việc nâng cao y đức cho đội ngũ cán bộ bệnh viện Hữu nghị, Luận văn tốt
nghiệp Cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2009.
Các luận văn trên - ở trình độ Cử nhân chính trị và Cao cấp lý luận - đã
bước đầu tìm hiểu, hệ thống hóa tư tưởng y đức Hồ Chí Minh và sự vận dụng
tư tưởng đó vào sự nghiệp đổi mới ngành y tế; rèn luyện, bồi dưỡng tư tưởng
y đức Hồ Chí Minh; đề ra những giải pháp có tính thiết thực trong việc nâng
cao y đức cho cán bộ y tế dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường.
Về đề tài khoa học:
- Bộ Y tế - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Nhìn lại việc
thực hiện các quan điểm về y tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh , 1998. Đề tài
khoa học đã làm rõ quan điểm: thầy thuốc như mẹ hiền trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, việc thực hiện quan điểm đó đồng thời nêu lên những tấm gương
sáng về y đức.
Những đề tài khoa học, luận văn, sách và bài báo nói trên đã thể hiện
kết quả nghiên cứu khá toàn diện và sâu sắc về tư tưởng y đức Hồ Chí Minh
và vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
nhân dân. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên là nguồn tư liệu rất quý
và quan trọng giúp chúng tôi tiếp thu, tham khảo, làm định hướng cho đề tài
nghiên cứu của mình. Tuy nhiên qua tìm hiểu thì cho đến nay chúng tôi thấy
vấn đề Tư tưởng y đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục y đức cho sinh viên
ngành y trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chưa có một công trình khoa học
nào đề cập tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích


8

Trên cơ sở hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức, luận văn có
mục đích làm rõ nội dung giáo dục y đức cho sinh viên ngành y trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức của người cán bộ y tế.
Phân tích thực trạng công tác giáo dục y đức cho sinh viên ngành y
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2006 đến năm 2009.
- Làm rõ phương hướng, nội dung và giải pháp giáo dục y đức theo tư
tưởng y đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức.
- Giáo dục y đức (thực trạng và vận dụng) ở các trường đào tạo sinh
viên ngành y ở thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức.
- Y đức của sinh viên ngành y trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm
2006 đến 2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu



9

Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgic,
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa những nội dung cơ bản tư tưởng y đức Hồ Chí Minh.
- Đánh giá đúng đắn, khách quan về công tác giáo dục y đức ở các
trường đào tạo sinh viên ngành y ở Đà Nẵng.
- Đề xuất những nhóm giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công
tác giáo dục y đức ở các trường đào tạo sinh viên ngành y ở Đà Nẵng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp Ban giám
hiệu, phòng đào tạo, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên… ở các trường đào tạo
sinh viên ngành y ở Đà Nẵng trong việc tổ chức thực hiện các chương trình
đào tạo và chương trình hành động cho sinh viên của mình.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng
dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, dùng trong các lớp tập huấn công tác đoàn và
công tác sinh viên về các hoạt động tiếp lửa truyền thống, tình nguyện hè…
- Luận văn góp phần tích cực vào cuộc vận động "Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dụng của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


10


Chương 1
TƯ TƯỞNG Y ĐỨC HỒ CHÍ MINH

1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH Y

Y học là ngành khoa học (cơ bản, tự nhiên, xã hội) và kỹ thuật ứng
dụng, hướng phát triển vào việc bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người, dự
phòng và chữa các bệnh tật, tạo tiền đề để kéo dài tuổi thọ một cách tích cực,
sáng tạo và bảo vệ sự khang kiện của giống nòi.
Khi loài người xuất hiện trên trái đất là khi y học ra đời để đáp ứng
nhu cầu sinh tồn của con người. Để có sức khỏe lao động, sản xuất, duy trì
giống nòi... y học ra đời như một đòi hỏi tất yếu từ buổi sơ khai của xã hội
loài người cho đến thời đại văn minh sau này.
1.1.1. Y học - nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý
Y học là khoa học về con người, là khoa học và nghệ thuật chữa bệnh,
bao gồm nhiều phương pháp chăm sóc sức khỏe nhằm duy trì, hồi phục cơ thể
từ việc phòng ngừa và chữa bệnh.
Lịch sử y học là lịch sử của chủ nghĩa nhân đạo, y học không chỉ
nhằm vào đối tượng người bệnh mà còn nhằm vào đối tượng người khỏe,
phòng bệnh trước hết là phòng bệnh cho người khỏe. Y học không chỉ phục
vụ cho một số người mà phục vụ cho mọi người và toàn xã hội.
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người và toàn xã hội, là nhân tố đặc
biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi quốc
gia. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người là sứ mệnh vô cùng quan trọng
của ngành y tế. Nghề y đã thâm nhập vào đời sống con người một cách sâu
sắc qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội; người cán bộ y tế suốt cuộc đời là
sự cống hiến không mệt mỏi vì hạnh phúc của mỗi người và toàn xã hội mà



11

hoàn toàn không phải là việc trao đổi, mua bán. Lịch sử y học đã chứng minh
thực hành y khoa là để đáp lại lòng mong mỏi của cả bệnh nhân và cả kỳ vọng
sâu xa nhất của người thầy thuốc khi thực hành y nghiệp. Người thầy thuốc
mang trong mình tính chất cao cả của ngành y đi cứu nhân độ thế; mang đến
sức khỏe và sự sống cho rất nhiều người, "đi tìm sự sống từ cõi chết". Với bàn
tay khéo léo, lòng yêu thương con người, khối óc thông minh của mình người
thầy thuốc đã cứu sống nhiều người, đưa họ ra khỏi cơn thập tử nhất sinh. Để
thực hiện nhiệm vụ đặc biệt đó, người cán bộ y tế luôn mang trong mình tình
cảm "thương người như thể thương thân" mà không hề màng đến danh lợi, họ
là những chiến sĩ áo trắng trên mặt trận chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Từ xưa đến nay, trên khắp thế giới người ta đều coi nghề y, mang tính
nhân đạo cao cả vì nó liên quan không chỉ đến sức khỏe, đời sống, tính mạng
của con người mà còn đến hạnh phúc của từng gia đình, nòi giống của tương
lai và sự cường thịnh của một đất nước, một dân tộc, toàn xã hội. Vì vậy,
"nghề y là nghề luôn luôn được xã hội đề cao, trân trọng, đồng thời nó cũng
không tránh khỏi rủi ro nghề nghiệp rình rập" [26, tr. 24].
1.1.2. Y học - nghề quan trọng đặc biệt
Trong rất nhiều nghề nghiệp của xã hội, hầu như không có nghề nào
phục vụ một cách tuyệt đối, bao trùm, toàn diện, liên tục ngày và đêm như
ngành y tế. Vì cuộc sống mà xuất hiện, tồn tại và phát triển, nghề y nhất thiết
phải vì cuộc sống mà phục vụ.
Y học là nghề phòng bệnh cho người khỏe, chữa bệnh cho người ốm
yếu, cứu sống cho những người đã, đang cận kề với cái chết. Đối tượng của
người cán bộ y tế rất đa dạng và phong phú. Trách nhiệm của họ rất nặng nề:
Đối với những người ốm yếu, bệnh tật - những con người cụ thể đang đau đớn
về thể xác, nao núng, suy sụp về tinh thần, họ đang rất cần, ngày đêm kỳ vọng
vào người thầy thuốc và sự phát triển của y học.



12

Mang trong mình truyền thống "bầu ơi, thương lấy bí cùng", các thế
hệ cán bộ y tế Việt Nam đã không quản khó khăn phát huy hết khả năng của
mình để chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo vệ tính mạng cho người bệnh.
Trong quá trình thực hành y nghiệp họ luôn lấy người bệnh làm trung tâm, lấy
sinh mạng của con người làm mục tiêu phấn đấu. Niềm vui lớn nhất của người
thầy thuốc là phòng được bệnh tật cho mọi người, chữa lành bệnh cho người
bệnh, nâng cao thể trạng cho người ốm yếu, cứu được bệnh nhân nặng thoát khỏi
sự chết cho dù khó khăn, gian khổ. Người thầy thuốc cần phải thấy trước mắt
mình không chỉ đơn thuần là một người bệnh mà là một con người với tất cả
những đặc điểm của tính tình với những cảm xúc do bệnh tật và do cả cuộc đời
chi phối. Hơn nữa, người cán bộ y tế thường tiếp xúc với những người khi họ
gặp phải rủi ro. Đó là bệnh tật và những đau đớn thể xác. Vì vậy, không có nghề
nào như nghề y mà mỗi lỗi lầm hay một thiếu sót dù nhỏ đến thế nào đi chăng
nữa cũng có thể gây nên những tác hại rất lớn đến sức khỏe và tính mạng của
con người. Thật vậy, mục đích của y khoa là tranh đấu và chiến thắng sự chết.
1.1.3. Y học - nghề cần những phẩm chất đạo đức nghiêm ngặt
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đạo đức không nảy sinh từ bên ngoài
xã hội. Sự xuất hiện ý thức đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự phát
triển nhận thức, của đời sống xã hội mà trước hết là do nhu cầu phối hợp hành
động trong lao động sản xuất trong việc phân phối sản phẩm xã hội trong đấu
tranh. Khi xã hội phân chia thành giai cấp thì đạo đức cũng mang tính giai cấp
sâu sắc, mỗi giai cấp đều có một ý thức đạo đức và nền đạo đức riêng của
mình. Mặt khác, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội cơ bản nên khi điều
kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì đời sống đạo đức xã hội cũng thay đổi theo
nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. Trong tác phẩm Chống Đuy Rinh,
Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng: Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ
trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ.

Đạo đức gắn liền với cuộc sống hàng ngày của con người, từ tồn tại xã hội, từ
cuộc đấu tranh chống thiên tai và lao động sản xuất của con người; nó không


13

phải là cái có sẵn hoặc bất di bất dịch, nó bao hàm cả cảm xúc, trách nhiệm
của con người trước đồng loại và trước những điều kiện sống.
Khi bàn về đạo đức, Ph. Ăngghen đã cho rằng: "Trong thực tế mỗi giai
cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình" [52, tr. 425].
Trong xã hội có bao nhiều nghề nghiệp thì có bấy nhiêu đạo đức nghề nghiệp
tương ứng với nội dung của các loại đạo đức này là khác nhau, phụ thuộc vào
tính chất của nghề nghiệp đó.
1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ Y ĐỨC

1.2.1. Khái quát vị trí, vai trò của đạo đức trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội trong đó con người tự điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính
người trong các quan hệ tự nhiên, xã hội và con người.
Đạo đức là một bộ phận của thế giới quan chi phối toàn bộ nhận thức và
hành động của con người. Hồ Chí Minh là một trong những nhà lãnh đạo cách
mạng trên thế giới bàn nhiều đến vấn đề đạo đức, đặc biệt chú ý vấn đề giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại, trong đó có đạo đức vô
sản. Đó là nền đạo đức mà yếu tố nhân đạo vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
hầu hết các giá trị đạo đức mang tính phổ quát, được mọi người thừa nhận
một cách tự giác vì những nhu cầu tồn tại, phát triển và tiến bộ của nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của đạo đức

cách mạng, coi đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng, như nguồn của
sông, gốc của cây. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người đã không
ngừng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân ta. Người cho rằng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,


14

không có nước thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân" [57, tr. 252-253].
Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là luôn coi trọng đạo đức,
với ý nghĩa là một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi to lớn của cách
mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội..
Đạo đức là một sức mạnh tinh thần to lớn, là một bộ phận năng động
nhất của thế giới quan, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, có tác dụng chỉ đạo
mọi hành vi ứng xử của con người trong mọi hoàn cảnh. Hồ Chí Minh nói:
"Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang" [61, tr. 283].
Chính lòng yêu nước thương dân, đạo đức trong sáng đã góp phần làm
nên sự nghiệp cách mạng lớn lao của Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm Đường
cách mệnh, đầu tiên Hồ Chí Minh đề cập đến "tư cách người cách mệnh"
trong đó nhấn mạnh phải cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh, không
kiêu ngạo, giàu lòng hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất... Từ lý luận và
thực tiễn hoạt động cách mạng chúng ta thấy rằng, Hồ Chí Minh là con người
giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không
thể khuất phục. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư" [64, tr. 510].

Đi lên từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến với xuất phát điểm thấp,
chúng ta phải thực hiện cuộc cách mạng chống đói nghèo, lạc hậu và bệnh tật
để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của hai mươi năm đổi mới:
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế thị trường định


15

hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng
lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp [23, tr. 67-68].
Đó chính là thành quả của sức mạnh lý tưởng, sức mạnh tinh thần, sức
mạnh của đạo đức của nhiều thế hệ người Việt Nam tận trung với nước, tận
hiếu với dân.
Đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Mỗi
người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và
gia đình. Sống trong một dân tộc có bề dày truyền thống đạo đức, mỗi con người
Việt Nam thực sự ý thức được vị trí của mình. Vị trí ấy vừa mang đậm truyền
thống nhân ái, lòng yêu thương con người vừa thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ,
chiến đấu kiên trì, không nhân nhượng với cái xấu, cái ác. "Mỗi người trong xã
hội có công việc, tài năng, địa vị khác nhau, nhưng theo Hồ Chí Minh, điều
đó không liên quan tới lòng cao thượng của con người. Điều quan trọng là ai
giữ được đạo đức cách mạng thì người đó có lòng cao thượng" [69, tr. 375].
Người "có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại

cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước [61, tr. 284], đồng thời "khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ" [61, tr. 284] và "không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không
công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa" [61, tr. 284].
Hồ Chí Minh bàn về đạo đức một cách toàn diện, với nhiều đối tượng
từ công nhân, nông dân, đến trí thức, thầy thuốc, văn nghệ sĩ; từ các cụ phụ
lão đến phụ nữ, thanh thiếu niên, nhi đồng; từ đồng bào các dân tộc đến đồng


16

bào các tôn giáo, các nhà tu hành trong đó Người quan tâm nhiều đến ngành
y, đến đạo đức của người cán bộ y tế và rèn luyện y đức.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi thành viên xã hội phải lấy tình yêu cương vị
công tác, yêu nghề, chân thành giữ chữ tín, làm việc hợp đạo lý, phục vụ nhân
dân, cống hiến cho xã hội làm nội dung chủ yếu của đạo đức nghề nghiệp.
Thông qua thái độ phục vụ nhân dân, thái độ chức nghiệp và hành vi chức
nghiệp, yêu nghề, vui với nghề, chuyên cần hành nghề và tinh xảo trong nghề
mà đánh giá đạo đức nghề nghiệp ở mỗi người. Thật vậy, đạo đức rất cần thiết
đối với mọi người, mọi nghề, đặc biệt đối với những người làm công tác y tế
thì càng quan trọng và cần thiết hơn. Trong di sản Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo
đức cách mạng là một nội dung lớn, bao gồm cả hệ thống chuẩn mực đạo đức,
nguyên tắc đạo đức và tấm gương đạo đức của Người. Trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh, Người quan tâm nhiều đến đạo đức của ngành y - một nền đạo
đức đã được tích tụ nhiều giá trị nhân đạo cao cả. Ngoài những phẩm chất đạo
đức của một công dân như: Trung với nước, hiếu với dân; cần liệm liêm chính,
chí công vô tư; lòng yêu thương con người; tinh thần quốc tế trong sáng thủy
chung, những người làm công tác y tế còn phải thực hiện tốt y đức - đạo đức
của nghề y. Là những người thật sự có lối sống lành mạnh, trong sạch, ít lòng
ham muốn về vật chất, hưởng thụ thành quả lao động từ sự cống hiến của chính

mình đồng thời biết quan tâm đến cuộc sống, lợi ích của người khác, biết chia sẻ
với những người gặp khó khăn... một lòng vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân.
Những người từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Họ phải thường
xuyên trau dồi đạo đức, y đức của mình. "Y đức của người thầy thuốc là lương
tâm đạo đức, là trách nhiệm bổn phận của người thầy thuốc" [26, tr. 22]. Đạo
đức nghề y là điều cốt lõi của người thầy thuốc; khi đã hành nghề y thì ai
cũng phải quan tâm đến y đức, tính vị tha, một lòng một dạ vì người bệnh. Vì
thế, mà ngành y đặt đạo đức ngành nghề làm mục tiêu tối thượng.
1.2.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng y đức Hồ Chí Minh


17

Tư tưởng y đức Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở truyền thống
y đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống y đức của gia đình, tinh hoa y đức
nhân loại, chủ nghĩa nhân văn cộng sản và tấm gương đạo đức của Người.
1.2.2.1. Truyền thống y đức của dân tộc Việt Nam
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra nhiều
danh y nổi tiếng như: Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác),... Trong
suốt cuộc đời thực hành y nghiệp của mình với mục đích chữa bệnh cứu
người họ đã để lại cho hậu thế một di sản phong phú về y lý, y thuật, y đức...
đặc biệt là những tấm gương cao đẹp tài năng, trí tuệ, đạo đức nhân cách, tinh
thần và thái độ phục vụ người bệnh, lòng thương yêu quý trọng con người.
- Di huấn của Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV).
Tuệ Tĩnh (sinh vào thời Trần), tên là Nguyễn Bá Tĩnh, đi tu lấy pháp
hiệu là Tuệ Tĩnh (cũng gọi là Huệ Tĩnh). Người làng Nghĩa Phú (tục gọi làng
Xưa) thuộc tổng Văn Thai, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương (nay là thôn
Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, Huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương).
Lên 6 tuổi, vì cha mẹ đều mất nên ông vào sống ở chùa, ở đó ông
được học chữ và học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.

Trong suốt cuộc đời của mình, về y học ông đã soạn nhiều cuốn sách
như: "Nam dược thần hiệu", "Nam dược chính bản" (Hồng nghĩa giác tư y thư).
Là người đặt nền móng xây dựng y học Việt Nam với truyền thống
chữa bệnh bằng thuốc nam với phương châm: "Thuốc nam chữa người Việt
Nam" (Nam dược trị Nam nhân) nhằm mở rộng việc chữa bệnh cho nhân dân
và nêu cao tinh thần dân tộc tự lực cánh sinh. Đối với sự nghiệp y học, Tuệ
Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa làm nơi chữa bệnh cho nhân dân. Người đã
gây phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn đền chùa đồng thời thu trữ thuốc
theo thời vụ để khi có bệnh thì sẵn có thuốc chữa kịp thời. Không những thế,


18

Ông còn tuyên truyền vệ sinh trong nhân dân, chú ý cách ăn ở và sinh hoạt,
Ông viết:
"Bế tinh dưỡng khí tồn thần
Thanh tâm quả dục thủ chân luyện hình".
Câu thơ trên thể hiện phương thức bảo vệ sức khỏe, rèn luyện cơ thể,
suy nghĩ thanh sạch, tư tưởng ung dung, trong đó, Tuệ Tĩnh đã đề cao việc
phòng bệnh hơn chữa bệnh với phương pháp rèn luyện sức khỏe, trí lực.
Tuệ Tĩnh là một đại danh y Việt Nam đã mở đường cho sự nghiệp
nghiên cứu thuốc nam, ông đã tổng hợp và để lại cho hậu thế những bài thuốc
kinh nghiệm quý báu để chữa một số bệnh - là một tài liệu có giá trị lớn cho
sự kế thừa và phát huy vốn cũ y dược của nhân dân ta. Đồng thời, ông để lại
cho chúng ta một tấm gương sáng về đạo đức, sự say mê nghề nghiệp của
người thầy thuốc. Ông căn dặn:
Cõi trời Nam gấm vóc
Nước sông Hồng chảy dài
Vườn hạnh phúc nghĩa nhân
Gió mùa Xuân áp rộng

Thương nhân dân chết chóc
Chọn hiền triết phương thang [47, tr. 70].
Truyền thống y học và gương sáng về y đức của Tuệ Tĩnh đã phục vụ
đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ông có vai
trò to lớn và giữ một vị trí trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam.
- Di huấn của Hải Thượng Lãn Ông (1720 - 1791).
Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác, sinh ngày 12 tháng 11
năm Canh Tý (tức ngày 11 tháng 12 năm 1720), nguyên quán: Thôn Văn Xá,


19

huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hưng Yên (nay là xã Liêu Xá,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông được tôn xưng là Y tổ của nền y học cổ
truyền dân tộc Việt Nam. Là người đầu tiên trong lịch sử y học Việt Nam đặt
nền móng xây dựng y thuật. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác mất ngày rằm
tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại quê mẹ, thọ 71 tuổi.
Trong quá trình làm thuốc của mình, Hải Thượng Lãn Ông rất đề cao
y đức, là người tài cao đức rộng. Ông không coi việc làm thuốc là một nghề
để kiếm kế sinh nhai, cũng không phải là để làm phúc ban ơn mà với mục
đích cao cả là cứu người, giúp đời và "đạo làm thuốc là một nhân thuật, có
nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người ta, phải lo cái lo của người và vui cái vui
của người, chỉ lấy việc giúp người làm phận sự của mình mà không cầu lợi kể
công" [47, tr. 72]. Hơn thế nghề thuốc là thanh cao cho nên càng phải giữ khí
tiết trong sạch. Là một đại danh y của nước ta thời hậu Lê, ông chủ trương
phải dạy y đức cho thầy thuốc trước khi dạy họ làm thuốc. Theo ông, thầy
thuốc là người có nhiệm vụ bảo vệ sinh mạng con người; lẽ sống chết, điều
phúc họa đều ở trong tay họ, lẽ nào người có trí tuệ không đầy đủ, hành động
không chu đáo, tâm hồn không thoáng đạt, trí quả cảm không thận trọng mà
dám theo đòi bắt chước học nghề y.

Để giáo dục lớp người kế nhiệm nâng cao tinh thần phục vụ bệnh
nhân, Hải Thượng Lãn Ông nêu lên 9 điều y huấn sâu sắc và đầy đủ như sau:
1. Phàm người học thuốc, tất phải hiểu thấu lý luận đạo nho,
có thông lý luận đạo nho, thì học thuốc mới dễ. Khi có chút thời giờ
nhàn rỗi, nên luôn luôn nghiên cứu các sách thuốc xưa nay, luôn
luôn phát huy biến hóa thâu nhập được vào tâm, thấy rõ được ở
mắt, thì tự nhiên ứng vào việc làm mà không phạm sai lầm.
2. Phàm người mời đi thăm bệnh, nên tùy bệnh cần kíp hay
không mà sắp đặt thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hay


20

nghèo hèn mà nơi đến trước chỗ tới sau hoặc bốc thuốc lại phân
biệt hơn kém. Khi lòng mình không thành thật, thì khó mong thu
được hiệu quả.
3. Khi xem bệnh cho đàn bà con gái và đàn bà góa, ni cô cần phải có người nhà của họ ở bên cạnh mới bước vào phòng mà
thăm bệnh, để tránh mọi sự nghi ngờ; dù cho đến con hát, nhà thổ
cũng vậy, phải coi họ như con nhà tử tế, chớ nên đùa cợt mà mang
tiếng bất chính, sẽ bị hậu quả về tà dâm.
4. Phàm thầy thuốc nên nghĩ đến việc giúp đỡ người không
nên tự ý cầu vui, như mang rượu lên núi, chơi bời ngắm cảnh, vắng
nhà chốc lát, nhỡ có bệnh cấp cứu, làm cho người ta sốt ruột mong
chờ nguy hại đến tánh mệnh con người. Vì vậy, cần phải biết nhiệm
vụ mình là quan trọng như thế nào?
5. Phàm gặp phải chứng bệnh nguy cấp, muốn hết sức mình
để cứu chữa, tuy đó là lòng tốt, song phải nói rõ cho gia đình người
ốm biết trước rồi mới cho thuốc; lại có khi phải không cho cả thuốc,
như thế thì thuốc uống nếu có công hiệu người ta sẽ biết cảm phục
mình: dù không khỏi bệnh, cũng không có sự oán trách và tự mình

cũng không bị hổ thẹn.
6. Phàm chuẩn thuốc men thì nên mua giá cao, để được thứ
tốt. Theo sách Lôi Công mà bào chế và cất giữ cho cẩn thận, hoặc y
theo từng phương mà bào chế, hoặc tùy thời tùy bệnh mà gia giảm.
Khi lập ra phương mới, phải phỏng theo ý nghĩa của người xưa, chớ
nên tự lập ra những phương bừa bãi để thử bệnh. Thuốc thang và
thuốc tán có đủ. Thuốc hoàn và thuốc đạn nên chế sẵn. Có như thế
mới ứng dụng được kịp thời khi gặp bệnh, khỏi phải bó tay.


21

7. Khi gặp bạn đồng nghiệp, cần nên khiêm tốn hòa nhã, giữ
gìn thái độ kính cẩn không nên khinh nhờn. Người hơn tuổi mình
thì kính trọng, người học giỏi thì coi như bậc thầy, người kiêu ngạo
thì mình nhân nhượng, người kém mình thì dìu dắt họ. Giữ được
lòng đức hậu như thế, sẽ đem lại nhiều hạnh phúc cho mình.
8. Khi đến xem bệnh ở những nhà nghèo túng, hay những
người mồ côi, góa bụa hiếm hoi, càng nên chăm sóc đặc biệt; vì
những người giàu sang, không lo không có người chữa; song những
người nghèo hèn, thì không đủ sức đón được thầy giỏi, vậy ta để
tâm một chút, họ sẽ được sống một đời. Còn những người con thảo,
vợ hiền nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc, lại tùy sức mình
chu cấp cho họ nữa, vì có thuốc mà không có ăn, thì vẫn đi đến chỗ
chết. Cần phải cho họ được sống toàn diện, mới đáng gọi là nhân
thuật. Còn những kẻ vì chơi bời phóng đãng mà nghèo và mắc
bệnh, thì không đáng thương tiếc lắm.
9. Khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì
những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang,
huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí thất thường mà mình

cầu cạnh, thường hay bị khinh rẻ. Còn việc tâng bốc người ta để cầu
lợi, thường hay sinh chuyện; cho nên nghề thuốc là thanh cao, ta càng
phải giữ khí tiết cho trong sạch. Tôi xét lời dạy bảo của các bậc tiên
hiền về lòng tử tế và đức hàm dục, rèn luyện cho mình rất chặt chẽ và
đầy đủ. Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng
con người, phải lo cái lo của người và vui cái vui của người, chỉ lấy
việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi
kể công, tuy không có sự báo ứng ngay nhưng để lại âm đức về sau.
Phương ngôn có câu: "Ba đời làm thuốc có đức, thì đời sau con cháu
tất có người làm nên khanh tướng" đó phải chăng là do có công vun


22

trồng từ trước chăng? Thường thấy kẻ làm thuốc, hoặc nhân bệnh cha
mẹ người ta ngặt nghèo, hoặc bắt bí người ta lúc đêm tối trời mưa có
bệnh nguy cấp; bệnh dễ chữa bảo là khó chữa, bệnh khó chữa bảo là
không chữa được, giở lối quỷ quyệt ấy để thỏa mãn yêu cầu rắp tâm
như thế là bất lương. Chữa cho người giàu sang, thì tỏ tình sốt sắng
mong được lợi nhiều, chữa cho nhà nghèo hèn thì ra ý lạnh nhạt, sống
chết mặc bay. Than ôi! Đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng
nhân đổi ra lòng buôn bán, như thế thì người sống trách móc, người
chết oán hờn không thể tha thứ được [47, tr. 71-73].
Trong phần Y lý thâu nhàn lý ngôn phụ chí tức là trong lúc hành y tìm
thú nhàn, mượn lời quê nói lên ý chí của mình.
Học y mấy chục năm trời,
Đông qua hạ lại chẳng rời sách hay,
Những lo họa phúc trong tay,
Mà trong ứng biến mình nay kém tài,
Thuốc thang may có giúp đời,

Dám đâu nghĩ chuyện mong người báo ân
Công danh là bệnh khó khăn,
Sửa mình đạo đức dần dần khỏe vui [47, tr. 73].
Hải Thượng Lãn Ông tự đặt ra cho người thầy thuốc chân chính tám
chữ: "Nhân - Minh - Đức - Trí - Lượng - Thành - Khiêm - Cần" có nghĩa là:
Nhân ái, sáng suốt, đức độ, hiểu biết, rộng lượng, thành thực, khiêm tốn,
cần cù.
Trong quá trình hành nghề, Hải Thượng Lãn Ông đã tổng kết được những
khuyết điểm của những người thầy thuốc, quy lại thành tám tội để răn dạy hậu


23

thế như: lười biếng, bủn xỉn, tham lam, lừa dối, bất nhân, hẹp hòi, thất đức,
dốt nát.
Cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là hiện thân của những gì
cao đẹp nhất của người thầy thuốc, bên cạnh khối kiến thức nghề nghiệp uyên
thâm là tấm gương sáng về đạo đức, tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh, kiên
nhẫn và lòng thương yêu quý trọng con người vô hạn của người thầy thuốc.
Ông thật sự xứng đáng là người đã dựng "ngọn cờ đỏ thắm" trong nền y học
Việt Nam, là ngọn đuốc sáng về y đức, y đạo, y thuật dẫn đường cho hậu thế.
- Di huấn của Nguyễn Đình Chiểu trong Ngư tiều y thuật vấn đáp phần
Y khoa là âm công cho rằng:
Xưa rằng: Thầy thuốc học thông,
Thề theo trời đất một lòng hiếu sinh,
Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,
Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghẻ tài,
Biết không, không biết mặc ai,
Chuyện nghề làm phải, chẳng nài thiệt hơn,
Trọn mình nơi nghĩa ở nhơn (nhân).

Bo bo giữ việc ra ơn, làm lành,
Bệnh nào cho thuốc chẳng lành,
Nhỏ lòng lo sợ, xét minh phải chăng,
Vốn không theo thói tham nhăng,
Nhân khi bệnh ngặt, đòi ăn của nhiều,
Cũng không ghé mắt coi dèo,
Chỗ giàu trân trọng, chỗ nghèo đảo điên,
Đời nhiều thầy thuốc bất thiên,


24

Đủ tiền đủ vị, thiếu tiền hốt vơ,
Mở coi trong sách y thư,
Nêu thiên Âm chất chỗ nhờ sinh linh,
Phong, lao, các chứng thiên hình,
Gặp thời thương xót, bệnh tình không toan,
Chẳng nên láu táu khoe khoang,
Lấy tiền ăn trước, cuốn đàn chạy sau,
Thấy người đau, giống mình đau,
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành,
Ăn mày cũng đứa trời sinh,
Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không,
Tổ xưa thuốc điểm mắt rồng,
Thuốc châm môi cọp, khổ công dường nào,
Chữ Kinh "ngô dữ ngô bào".
Nghĩ dân cùng vật lẽ sao cũng đồng,
Nhớ câu "Y tích âm công",
Ta nên chứa phúc để dùng lâu thay!
Hỡi ai có bụng như vầy,

Đạo y ngày sáng, tiếng thầy nào hư [47, tr. 74-75].
Như vậy, con người là một sinh vật trong vũ trụ (nhân thân tiểu thiên
địa), chịu mọi ảnh hưởng và chi phối bởi vũ trụ. Con người muốn tồn tại với
một sức khỏe, thể trạng tốt thì phải biết hòa hợp với thiên nhiên và môi
trường sống. Từ thực tiễn đó và đặc biệt là qua lời răn dạy của các đại danh y
chúng ta thấy người thầy thuốc khi tiếp xúc với người bệnh và chữa bệnh
không chỉ nhìn thấy cái bệnh của họ mà phải thấy tổng thể con người của họ


25

về tâm lý, trạng thái tinh thần, hoàn cành gia đình… có như thế mới chữa được
lành bệnh cho bệnh nhân. Vì thế, "thầy thuốc nào mang lại niềm tin cho người
bệnh, người đó có y đức nhất" [71, tr. 5].
Như vậy, tuy ở các hoàn cảnh lịch sử khác nhau, cách diễn đạt khác
nhau khi nói về người thầy thuốc cả Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu
Trác và Nguyễn Đình Chiểu đều tập trung nói rất nhiều về đạo đức và tài
năng, trong đó đạo đức là gốc, là yếu tố tiên quyết nhất.
1.2.2.2. Truyền thống y đức của gia đình
Là một gia đình nhà Nho cấp tiến, các thành viên trong gia đình Hồ
Chí Minh đều thể hiện lòng yêu thương con người, mong muốn giúp đỡ con
người. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là người cần cù, chịu khó, học rộng, tài
cao, đức độ, khi rời bỏ quan trường, Cụ đi vào Sài Gòn chọn nghề thầy thuốc
chữa bệnh cứu người. "Ông Sắc làm việc bắt mạch, kê đơn thuốc cho người
bệnh và rất có uy tín trong nghề nghiệp của mình. Dân phố quý mến gọi ông
là ông thầy Huế. Ông ngồi ở nơi nào, dù là góc phố hay vỉa hè cũng có đông
người tìm đến" [46, tr. 43]. Với tấm lòng nhân ái cao cả, cụ Nguyễn Sinh Sắc
luôn coi y đức là cái quý giá nhất của người thầy thuốc. Vì vậy, "hai hiệu
thuốc bắc lớn là Phúc Thiên Đường ở phố Galiêni (đường Trần Hưng Đạo,
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay) và Tế Thiên Đường ở phố La Grăngđie

(đường Điện Biên Phủ, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay) cùng muốn được
ông đến ngồi kê đơn ở cạnh cửa hiệu của mình. Nể lòng cả hai, ông Sắc chia
ra, cách nhau, ngồi ở mỗi bên một bữa" [46, tr. 43]. Ông đã nêu tấm gương
tận tụy với công việc chữa bệnh cứu người.
Từ mồ côi thất học vươn lên thành một trí thức khoa bảng, làm quan
mà không hại dân, làm dân chỉ biết sống có ích cho người khác, làm thầy
thuốc chỉ mong chữa bệnh cứu người, khi mình mất đi thì không làm phiền
cho những người ở lại, cụ Nguyễn Sinh Sắc là một nhân cách cao cả, đáng
quý, suốt cả cuộc đời yêu nước, thương dân.


×