Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Tư tưởng đạo đức hồ chí minh với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.71 KB, 61 trang )

LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
A: PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội ra đời rất sớm cùng với sự xuất hiện của
loài người.
Khi đó con người đã là những cá nhân, những tập đoàn sản xuất, trong đó các tư
liệu sản xuất thuộc về tập thể và dựa trên nguyên tắc phân phối đều nhau, ngay từ trên
những quan hệ còn giản đơn của buổi bình minh lịch sử này, quy luật tất yếu là phải có
những quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp giữa những con người với nhau, để họ có thể
sinh tồn và phát triển.
Từ những quan hệ ban đầu đó, cùng với sự phát triển của xã hội thì quan hệ
giữa người với người ngày càng phức tạp hơn. Đặc biệt là khi tư hữu xuất hiện, chính
điều đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải lựa chọn cách giao tiếp, ứng xử, điều chỉnh thái độ,
hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của bản thân, của cộng đồng và xã hội.
Chính thế, đạo đức bao giờ cũng mang tính thời đại và giai cấp, một mặt nó gắn
liền với con người cụ thể, mặt khác nó cũng gắn với mỗi giai cấp, mỗi tập đoàn, mỗi
nghề nghiệp, với xã hội và dân tộc tạo nên nền tảng đạo đức của mỗi xã hội nhất định.
Đạo đức là một trong những lĩnh vực được chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt quan
tâm. Nội dung đạo đức được các nhà kinh điển bàn đến ở hầu hết trong tất cả những
bài viết, lời nói của họ.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu nền tảng đạo đức Mác-Lênin, trên cơ sở nền tảng
những chuẩn mực đạo đức dân tộc truyền thống và thời đại mà tạo ra hệ thống những
quan điểm về đạo đức mới của mình, nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng đưa Việt
Nam lên ngang tầm thời đại.
Hồ Chí Minh là một trong số hiếm các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đã
quan tâm đến vấn đề đạo đức một cách toàn diện và quy định cụ thể các chuẩn mực
đạo đức cách mạng đúng với từng đối tượng người, ngành nghề, giới tính.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Việt Nam đạt rất nhiều thành tựu to lớn,
nhưng cũng đang đứng trước một thách thức xuống cấp về đạo đức. Nền kinh tế thị
trường và sự mở cửa, giao lưu hội nhập mạnh mẽ với văn minh nhân loại, đã làm thay


đổi diện mạo đời sống đất nước theo cả hai xu hướng tích cực và tiêu cực.
Sự mở cửa mang đến cho sinh viên lối sống phương Tây không chỉ các yếu tố
tích cực, mà chủ yếu lẫn nhiều tiêu cực. Trong đó nhiều yếu tố, giá trị đạo đức không
phù hợp với đạo đức truyền thống dân tộc, làm băng hoại đạo lý truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Có không ít sinh viên tỏ ra giao động, mất phương hướng, lệch lạc về lý
tưởng đạo đức cách mạng, thậm chí suy đồi về đạo đức.
Chính vì điều đó, trong các trường Đại Học và Cao Đẳng, sinh viên không chỉ
học tập nghiên cứu chuyên môn, mà còn phải học tập và rèn luyện mình theo chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu tối cần thiết. Đặc biệt là rèn
luyện theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.
1
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Đề tài “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức cách mạng
cho sinh viên” là sự góp phần tích cực cho tính cấp thiết ấy.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Bàn về giáo dục đạo đức đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học nổi tiếng trong nước như sau:
- Nguyễn trọng Chuẩn, Nguyễn văn Phúc: "Những vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay". Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội -2003
- Phạm Quốc Thành với “Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cho cán
bộ đảng viên“. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội -2004
- GS.La Quốc Kiệt với “Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” Nxb.CTQG, Hà Nội
-2003
- Trần minh Đoàn: "Giáo dục đạo đức cho Thanh niên hoc sinh theo tưởng Hồ
Chí Minh ở nước ta hiện nay". Luận án tiến sĩ, học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2002
- Nguyễn chí Mỳ: "Sự biển đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quán lý ở nước ta hiện nay".
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội -1999

Nói chung vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng hiện đã và đang được Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội ta quan tâm. Nhưng mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh
khác nhau và là những vấn đề chung về đạo đức, chưa có đề tài nào nghiên cứu riêng
cho mảng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên. Đề tài “Tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên” là sự cố gắng dũng
cảm đi vào lĩnh vực riêng ấy.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
- Mục đích của đề tài là nêu được một cách khái quát những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin về đạo đức.
Nêu đựơc một cách khái quát những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo
đức.
Đề xuất những biện pháp và giải pháp vận dụng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh vào giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên.
- Nhiệm vụ của đề tài là từ những bài nói và viết và hoạt động chỉ đạo của
Người có liên quan đến đạo đức mà chỉ ra những tình cảm và tư tưởng chỉ đạo của
Người đối với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên.
Xác định nội dung giáo dục đạo đức cách mạng để đưa ra phương pháp giáo
dục thích hợp cho sinh viên.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh mà phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu của Người có liên quan đến
đạo đức.
2
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Đề tài cũng vận dụng kết quả của một số đề tài của các nhà khoa học lớn của
Việt Nam về lĩnh vực đạo đức mà làm rõ mục đích đề tài nêu ra.
5. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài thực hiện thành công sẽ là một tài liệu tham khảo tốt cho sinh viên và
những ai quan tâm đến lĩnh vực này. Đồng thời đề tài sẽ còn được phát triển thành

luận văn tốt nghiệp Đại Học sau này.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu
thành hai chương, 4 tiết.
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.
1.1. Một số quan điểm của Mác-Lênin về đạo đức.
1. 2. Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức.
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN.
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về các chuẩn mực và nguyên tắc rèn luyện
đạo đức cách mạng
2.2. Giáo dục về đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.
1.1. Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đạo đức.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự hình thành đạo đức.
Lao động là kết quả của sự phát triển của trí tuệ, nhưng chính trí tuệ lại phát
triển trong quá trình lao động. Ở đây những yếu tố xuất phát là thực tiễn và kinh
nghiệm được tích luỹ trên cơ sở trí nhớ và năng lực tập trung chú ý.
Sự loé sáng đầu tiên của tư duy trong ý thức con người là kết quả của việc nó
phát hiện được rằng hòn đá nhọn làm cho con thú bị thương nặng hơn là hòn đá tầy. Vì
vậy, nó đi tìm những viên đá nhọn, sau đó tự nó đánh nhọn và đi săn thì những hình
thức tư duy bắt đầu phát triển. Dần dần con người không những làm được những công
cụ bằng đá, mà nó còn chế tạo được những công cụ khác. Với sự mở rộng hoạt động
lao động của con người, trí tuệ cuả nó phát triển. Với trình độ này của sự phát triển,
con người khác với loài vật ở năng lực tư duy và hoạt động lao động có suy nghĩ.
Nhưng ở đây, chỉ mới là trình độ của tư duy thực hành.

Với thời gian, trong hoàn cảnh sống chung với nhau, ở con người năng lực trao
đổi tư tưởng phát triển - đó là ngôn ngữ . Với trình độ này của sự phát triển, con người
khác ở con vật không những ở lao động có suy nghĩ, nó còn khác ở hành động có mục
đích và được suy tính trước.
3
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Sự phát triển của tư duy và ngôn ngữ có ảnh hưởng tới cuộc sống chung của
những con người, tới quan hệ qua lại giữa họ với nhau. Chẳng những họ biết điều gì
làm họ vui mừng hoặc điều gì làm họ buồn phiền, họ còn truyền cho nhau những sự
vui buồn, tương quan này lại càng làm cho họ đoàn kết với nhau hơn trong đấu tranh
để sinh tồn.
Con người hành động có ý thức, nếu con người tự nguyện tự giác phục tùng cái
gì đó như là nguyên nhân thì nguyên nhân này không chỉ là nguyên nhân, nó còn là
mục đích và hành động. Như vậy, không chỉ có tính chất tất yếu, nó còn là hành động
được con người mong muốn. Hành động có mục đích và được mong muốn không bị
quy định bởi bản năng xã hội, nó còn được định bởi tình cảm xã hội.
Thực tiễn, kinh nghiệm rút ra được trong cuộc sống chung, trong đấu tranh và
lao động thuyết phục có hệ thống những con ngừơi về ưu thế của sự tương trợ, sự đồng
cảm và tinh thần đoàn kết. Tình cảm xã hội này khác về nguyên tắc với bản năng xã
hội của loài vật, và tình cảm đặc thù của con người, đó là tình cảm đạo đức, là tính
người.
Ngọn nguồn và cơ sở xã hội của đạo đức là lao động, tư duy và ngôn ngữ phát
triển trong quá trình lao động. Ngôn ngữ đã làm cho con người gần gũi với nhau, làm
cho bản năng xã hội mạnh hơn lên, còn tư duy thì đem lại cho những bản năng này
tính chất tự giác, con ngừơi càng ngày càng thấy đựơc sự cần thiết của tương trợ tự
nguyện được gọi là tự nguyện tình cảm đạo đức. Đặc trưng của tính người là sự khác
biệt của đời sống con người với sự tồn tại của loại vật ở chỗ này.
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-LêNin về bản chất của đạo đức.
Có thể coi nhận thức về một hiện tượng là thoả đáng nếu nó xác định vị trí của

hiện tượng này trong hệ thống khái quát các đối tượng, xác lập được bản chất của đặc
thù của nó, nghiên cứu những quy luật phát sinh và phát triển của nó. Sự nhận thức
yêu cầu một sự nghiên cứu toàn diện, ta chỉ có thể đạt tới dần dần chân lý tuyệt đối
bằng quá trình tích luỹ vô cùng vô tận những chân lý cụ thể và tương đối.
Để làm rõ bản chất đạo đức nhất thiết phải sơ bộ nhất trí với nhau về ý nghĩa
của những thuật ngữ: ”đạo đức”, “vô đạo đức”, “phi đạo đức”, hoặc “luân lý”,
Những thuật ngữ này là những vị ngữ có thể đem gắn cho người, hành vi của con
người và động cơ hành vi. Nếu như động cơ hành vi của con người là xu hướng đem
lại lợi ích cho xã hội thì chúng ta nói rằng động cơ này là một động cơ có đạo đức và
chủ thể của hành vi này là người có đạo đức. Nếu như động cơ của hành vi là xu
hướng cho xã hội hoặc một người nào đó, thì động cơ này, hành vi tương ứng và bản
thân chủ thể của nó bị coi là vô đạo đức. Còn nếu những hành vi không làm lợi và
cũng không làm hại cho ai thì động cơ hành vi đó chẳng mang giá trị đạo đức nào.
Trong ngôn ngữ hàng ngày từ “phi đạo đức“ thường được đồng nhất với từ “vô
đạo đức”. Khi nhận định về một người nào đó người ta nói rằng nó “cử xử phi đạo
đức” hoặc “không cư xử theo đạo đức”, thì đa số trường hợp người ta muốn nói rằng
4
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
nó cư xử vô đạo đức, tồi tệ. Nói đến giá trị đạo đức theo đúng nghĩa của nó thì nó chỉ
có thể tích cực, hoặc tiêu cực mà không có giá trị đạo đức trung hoà.
Những hành động đơn nhất, riêng biệt một con người cũng như toàn bộ bản
chất, tính cách cá nhân của nó có thể có đạo đức và vô đạo đức. Thường vẫn có những
trường hợp: có người bản chất vô đạo đức hoặc trong lĩnh vực nhất định nào đó bao
giờ cũng những lẻ tẻ làm những hành động cư xử có đạo đức, và ngược lại, có người
bản chất là có đạo đức nhưng lại làm hành đông vô đạo đức hoặc một trong những lĩnh
vực nhất định bào giờ cũng cư xử vô đạo đức.
Bản chất đạo đức theo Kant, đó là sự việc khác biệt giữa “tính luân lý “ và “tính
hợp pháp”.
Hêghen có sự phân biệt rất rõ hai thuật ngữ “luân lý “ và thuật ngữ “đạo đức“.

Hêghen gọi “luân lý” là phương tiện chủ quan của đạo đức, còn đạo đức là phương
diện khách quan của luân lý. Khái niệm luân lý là thái độ bên trong của ý chí đối với
chính nó, tức là quan niệm chủ quan về điều thiện và đều ác. Đạo đức, đó là nội dung
khách quan của cái thiện và cái ác được tạo thành trong gia đình, xã hội và quốc gia.
Hêghen cũng cho rằng “luân lý’’ và “đạo đức” thường được dùng với ý nghĩa như
nhau và có từ nguyên chung, nhưng ông vẫn thấy rằng có thể sử dụng hai từ này để chỉ
những bậc “hoàn toàn khách nhau” trong sự phát triển của tư tưởng pháp lý.
Có thể nói nhìn nhận luân lý là phương diện khách quan của hành vi, đạo đức là
phương diện chủ quan hành vi của Hêghen đều không đúng những thuật ngữ “hợp luân
lý”, “phi luân lý” và “vô luân lý” hoàn toàn tương ứng với “đạo đức”, “phi đạo đức”
và “vô đạo đức”.
Vậy đạo đức là gì?
Theo quan niệm đạo đức học Mác-xít, đạo đức là hệ thống những chuẩn mực
biểu hiện sự quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau
và trong quan hệ của xã hội nói chung.
Bản chất của đạo đức là sự quan tâm tự giác của con người đến lợi ích của
nhau, với lợi ích của xã hội.
1.2. Một số quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức.
1.2.1. Nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho nghèo, yêu nước, Hồ Chí Minh
sớm tiếp thu được những giá trị đạo đức truyền thống quan trọng, thôi thúc Hồ Chí
Minh ra đi tìm đướng cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ tiêu biểu của nhân loại quan tâm một
cách toàn diện đến vấn đề đạo đức và nêu cao tấm gương đạo đức.
Người không để lại tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của
Ngừơi về đạo đức đã nằm trong những bài nói, bài viết ngắn gọn, diễn đạt rất cô động,
theo phong cách Phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam. Bản thân
5
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Người lại thực hiện trước nhất và nhiều nhất những tư tưởng ấy, thực hiện nhiều hơn
cả những điều Người đã nói, đã viết về đạo đức.
Khi bàn về nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh, thường có những ý kiến khác nhau. Có người cho rằng đạo đức Hồ Chí Minh đã
xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin.
Điều đó là không sai, nhưng hình như không hoàn toàn như thế. Hồ Chí Minh
đã tiếp thu những nội dung tư tưởng cơ bản đạo đức chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng
Người đã vận dụng một cách sáng tạo và quan trọng là Người đã cải tạo nó thành
những quan niệm đạo đức có sắc thái riêng phù hợp với yêu cầu cách mạng Việt Nam
trong thời đại mới.
Có người chỉ căn cứ vào những phạm trù đạo đức Nho giáo mà Hồ Chí Minh đã
sử dụng để nói rằng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ Nho giáo, có nguồn
gốc từ Nho giáo. Rõ ràng điều đó là không đúng.
Có thể nói, quá trình hình thành nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng
phản ánh phương pháp tư duy mới rất biện chứng về sự tiếp nhận các nguồn giá trị văn
hoá của dân tộc và nhân loại, bất kể đó là thuộc nguồn gốc nào, là Nho giáo, Lão giáo,
Phật giáo hay Thiên chúa giáo, là chủ nghĩa Mác-Lênin hay truyền thống văn hóa đạo
đức dân tộc.
Hồ Chí Minh đã từng nói: ”Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng, chủ nghĩa Tôn Dật
Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-
su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ điều muốn mưu cầu
hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên
đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất
hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các
vị ấy“[1] Câu nói nổi tiếng này của Hồ Chí Minh chẳng những phản ảnh rõ thái độ của
Người đối với các giá trị đạo đức truyền thống và tinh hoa đạo đức nhân loại, mà còn
thể hiện một quan điểm bao dung trân trọng đối với những di sản văn hoá đạo đức có

nguồn gốc và khuynh hướng tư tưởng khác nhau.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu, phát
triển nhiều nguồn tư tưởng đạo đức, chủ yếu là tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác-
Lênin, nhưng đối với Người nền đạo đức truyền thống, đặt biệt là các hệ tư tưởng đạo
đức của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo đã được dân tộc hoá cũng có vị trí hết sức quan
trọng.
Trong quá trình chuyển hoá tư tưởng đạo đức cũ thành đạo đức mới, Hồ Chí
Minh đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn tư duy biện chứng khi nhìn nhận các mặt
đối lập trong xã hội, trong mỗi người và trong các phạm trù đạo đức, để gạt bỏ đi
những mặt cần gạt bỏ, cải tạo lại những gì có thể cải tạo được và nhất là thấy rõ vị trí
của mỗi mặt.
6
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Chẳng hạn khi nói đến đức và tài, Người luôn luôn coi trọng tài và có thể nói
không ai quan tâm đến việc đi tìm người tài hơn Hồ Chí Minh, nhưng đồng thời Người
coi đức vẫn là cái gốc. Cũng như vậy, khi nói đến đạo đức cũ và đạo đức mới, đến cá
nhân và tập thể, Người không tuyệt đối hoá mặt này hay mặt khác, mà bao giờ cũng
có sự nhìn nhận đúng mực, đúng độ. Do đó có thể nói, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
chẳng những đã đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và
chắc chắn còn là nền tảng của việc xây dựng nền đạo đức xã hội mới.
Do hệ thống những vấn đề đạo đức khá rộng, bao quát gần như toàn bộ tư
tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc và nhân loại, cả Cổ, Kim, Đông, Tây, cho nên
những nội dung tư tưởng đạo đức có liên quan đến việc hình thành tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh thật bao la, phong phú và cũng rất đa dạng, phức tạp. Nhưng có thể thấy
quá trình hình thành hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là xuất phát tư ba nguồn
cơ bản sau đây.
a, Nền tảng đạo đức truyền thống dân tộc, kể cả đạo đức Nho giáo, Phật giáo,
Lão giáo đã được dân tộc hoá. Trong nền tảng đạo đức truyền thống của dân tộc, trước
hết phải nói đến chủ nghĩa yêu nước và lòng nhân ái là đặc trưng bản chất đạo đức

cách mạng đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Chính nó là nguồn động lực thôi thúc
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân và sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ
nhằm dành bằng đựơc độc lập cho dân tộc, thống nhất cho tổ quốc, tự do hạnh phúc
cho đồng bào mình. Cũng chính từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống và lòng nhân ái
bao la của dân tộc, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp nhận học
thuyết khoa học và cách mạng cũng như tinh thần đạo đức vô sản nhằm cải tạo nền
đạo đức cũ, xây dựng nên đạo đức mới.
b, Những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức chủ nghĩa Mác-Lênin tuy
không phải là cội nguồn mở đầu cho việc hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,
nhưng lại có giá trị định hướng cho sự phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh theo
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, được xem là hạt nhân của tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ
Chí Minh. Cho nên thật khó nói giữa hai cội nguồn đạo đức truyền thống và đạo đức
chủ nghĩa Mác-Lênin mặt nào quan trọng hơn mặt nào. Cả hai đều có vị trí quan trọng
ngang nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên nền tảng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
c, Ngoài hai nguồn gốc đạo đức cơ bản trên, phải nói đến những tinh hoa đạo
đức thế giới mà nhân loại đạt được từ xưa cho đến thế kỷ XX, trong đó có di sản đạo
đức mang ý thức hệ tư sản, những quan niệm chân chính về tự do, bình đẳng, bác ái,
dân chủ, nhân quyền nhân đạo Đây là một nguồn gốc tuy không giữ vai trò quyết
định như hai nguồn gốc đạo đức nêu trên nhưng lại hết sức quan trọng ở chỗ: Nó giúp
Hồ Chí Minh động lực sáng tạo cái mới, tìm thấy mặt hợp lý cũng như các giá trị nhân
đạo, tinh thần dân chủ trong những di sản đạo đức hình thành trong thời đại cách mạng
tư sản, nhằm bổ sung đồng thời phát triển hệ tư tưởng đạo đức mới.
7
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Cũng như các nhà kinh điển Mác-xít, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nhận những
tinh hoa đạo đức hình thành trong thời đại cách mạng tư sản, mà Người còn vận dụng
nó rất sáng tạo trong điều kiện và trong hoàn cảnh cách mạng nước ta. Nếu chú ý đến
ý nghĩa và tính chất kết hợp giữa dân tộc và quốc tế, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội, giữa truyền thống và hiện đại, chúng ta sẽ thấy rất rõ tinh thần sáng tạo của
Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực đạo đức. Hồ Chí Minh không
chỉ tiếp nhận các khái niệm tự do, bình đăng, bác ái vốn là khẩu hiệu của giai cấp tư
sản trong thời đại cách mạng tư sản đang phát triển, mà Người còn tìm cách giữ lại,
đồng thời phát triển nội dung các phạm trù cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
trong hệ thống đạo đức truyền thống.
Tất cả những hiện tượng nói lên rằng nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
là kết quả hội tụ của rất nhiều nguồn, nhiều học thuyết đạo đức cổ kim, Đông Tây của
Việt Nam và Thế Giới, nhưng nổi bật nhất vẫn là phương pháp làm việc biện chứng
của chủ nghĩa Mác mà Hồ Chí Minh tránh được những giáo điều trong nhận thức và
hành vi đạo đức, đồng thời phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới,
tạo cho mình một hệ thống tư tưởng đạo đức phù hợp với điều kiện cách mạng Việt
Nam .
1.2.2. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là qua các tác phẩm, bài viết
bài nói của người trong thời kỳ 1945 -1954, chúng ta thấy Người đề ra những chuẩn
mục đạo đức cụ thể đối với từng đối tượng: cán bộ, đảng viên, công nhân, nông dân,
phụ nữ, thanh niên đó là những lời khen ngợi, biểu dương hay phê bình nhắc nhở, hay
đó là những lời khuyên nên tránh hay nên làm, cần xây hay cần chống. Bao giờ Người
cũng phân biệt mặt tốt với mặt xấu, cái thiện với cái ác trong động cơ cũng như trong
hành động của mỗi con người, trong mối quan hệ xã hội vô cùng đa dạng, để làm rõ
những vấn đề đạo đức cần phải xây dựng. Người làm công việc ấy rất thường xuyên,
gần như một ngừơi làm vườn cần mẫn, hàng ngày bắt sâu, nhặt cỏ, tỉa lá cắt cành, vun
xới cho những mầm cây.
Những phẩm chất cần tu dưỡng, những định hướng để vươn tới cái chân, cái
thiện, cái mỹ của cuộc sống con người - Đó là những vấn đề đạo đức Người rút ra từ
cuộc đời thực của con người và xã hội Việt Nam, khái quát thành tư tưởng, lí luận đạo
đức, từ đó trở lại cải tạo con người, làm biến đổi hiện thực xã hội. Có thể nêu những
chuẩn mực đạo đức cơ bản sau đây:
a. Trung với nước - hiếu với dân:

Từ xưa đến nay ở Việt Nam, trong quan hệ văn hoá - đạo đức, thì mối quan hệ
giữa dân và nước, giữa nhân dân và tổ quốc là mối quan hệ lớn nhất, có vai trò chi
phối mọi quan hệ khác. Do đó, trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức
hàng đầu. Trung - hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống. Trước
kia, đạo đức Phong kiến dạy người ta phải ”trung với Vua, hiếu với Cha Mẹ”. Đó là
hai điều lớn trong đạo ngũ luân, mà điều lớn nhất là trung với Vua.
8
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, Hồ
Chí Minh nói: trung với nước, hiếu với dân. Ở đây, Hồ Chí Minh không chỉ dùng từ
“trung - hiếu” với ý nghĩa một trách nhiệm, bổn phận của con người, mà với khái niệm
mang tính truyền thống lịch sử, Người đã đưa vào đó một nội dung, mang tính cách
mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn. Người viết: “Đạo đức, ngày trước thì trung với
Vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với
nước, phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”[2]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, trung là
trung với nước, với đảng, với lý tưởng cách mạng, còn hiếu không chỉ đối với cha mẹ
mà còn bao hàm một nội dung sâu rộng hơn là hiếu với dân, với đồng bào.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người viết: ”Đạo đức cũ như
người đầu ngược xuống đất, chân chống lên trời. Đạo đức mới như người hai chân
đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”[3]. Theo Hồ Chí Minh, ”trung với
nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội, thể hiện trách nhiệm
đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước. Ở đây,
nước là của nhân dân và nhân dân là chủ nhân của đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, hiếu với dân nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân; chính quyền từ xã đến chính phủ
Trung Ương do dân cử ra: “Đoàn thể từ Trung Ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói
tóm lại, quyền hành và lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận
kém việc gì cũng kém. Dân vận khéo việc gì cũng thành công”[4]. Từ đó, Người luôn

nhắc nhở cán bộ, đảng viên: ”phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, khi sắp tới dân
mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân
không ủng hộ”[5].
Mặt khác, ở Hồ Chí Minh, hiếu với dân không chỉ thể hiện ở chỗ thương dân,
mà chủ yếu là ở chỗ tin dân dựa vào dân, giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của nhân dân
ngày càng tốt hơn. Ngừơi khuyên cán bộ, đảng viên phải gắn bó với dân, phải gần dân,
thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, bởi có biết làm học trò dân, mới làm được thầy
học dân. Người xác định, cán bộ các cấp đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
việc chung cho dân. Cán bộ phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công
việc rõ rệt, cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đạt kế hoạch tổ
chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết
những khó khăn.
Cán bộ phải đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân: “việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”[6]. Trong bài 6 điều không
nên và 6 điều nên làm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “nước lấy dân làm gốc, gốc có
vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[7]. Đó là một sự tổng kết
mang tính chân lý về mối quan hệ giữa nước với dân.
Trung với nước, hiếu với dân là hạt nhân cơ bản nhất của tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh, là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với mọi thế hệ.
9
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
b. Lòng yêu thương đối với con người.
Các Mác đã từng nhấn mạnh rằng: người hạnh phúc nhất là người đem lại hạnh
phúc cho nhiều người nhất.
Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ,
cùng với việc thể hiện của chính bản thân mình qua thực tiễn hoạt động cách mạng,
Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất
cao đẹp nhất.

1. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa yêu cầu phải thông cảm với mỗi người lao động
lương thiện, cái gắn bó ta với người này là thái độ yêu lao động, thiện tâm và tình
người. Thái độ tốt và tình yêu với con người - đó là chủ nghĩa nhân đạo.
Chủ nghĩa Mác hiểu chủ nghĩa nhân đạo là tình yêu thương, đây là tình yêu đối
với người lao động, đối với người lương thiện và chân chính. Chủ nghĩa nhân đạo xã
hội chủ nghĩa có căn cứ ở sự lương thiện, sự công bằng và lương tâm. Nó yêu cầu quí
trọng ở con người tất cả những gì tốt đẹp và lên án tất cả những gì xấu ở con người.
Tình yêu với con người là tiêu chuẩn cuối cùng là bản chất của đạo đức. Tất cả
vì con người, vì sự no ấm và hạnh phúc của nó, đây là phương châm được nêu lên
trong cương lĩnh đảng cộng sản Liên Xô.
Nếu như mục đích và ý nghĩa cao nhất của cuộc sống con người là đấu tranh
cho hạnh phúc của con người, thì điều này không thể thực hiện bằng những biện pháp
rời rạc, lẽ tẻ, bằng con đường của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa ích kỷ, phải tổ chức
bằng sự tổ chức hợp lý, thống nhất và có kế hoạch, bằng con đường của chủ nghĩa tập
thể.
Con người phải yêu những con người - Kalinin nói - nếu nó yêu những con
người thì nó sẽ sống tốt hơn, cuộc đời phải vui hơn, vì không có kẻ nào trên đời này lại
sống khốn khổ như kẻ yếm thế, kẻ có tư tưởng thù ghét con người.
2. Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn. Trước hết dành cho những người
cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được thể
hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được
tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Khi thực hiện nghĩa vụ của mình đối với mọi người, đối với xã hội mà con
người cảm thấy thoải mái yên ổn trong lòng chính là lúc bản thân họ cảm thấy hạnh
phúc, thấy sự thanh thản của lương tâm. Bao giờ cũng vậy, việc hoàn thành nghĩa vụ
đạo đức không những đem lại hạnh phúc cho chính chủ thể hành động. Chính điều này
càng thôi thúc con người hành động tốt hơn, hướng đến điều thiện nhiều hơn và mong
muốn đem lại hạnh phúc cho người nhiều hơn.
Một nhà văn Nga đã từng nói: “người ta nghiêng mình trước tài năng, nhưng
người ta bái phục trước thánh thiện” (Gornốp). Bởi lương tâm trong sạch khiến người

ta ý thức được nhân phẩm của mình, cảm thấy sự khoan khoái trong tâm hồn và làm
10
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
cho tình cảm đạo đức càng trở nên mãnh liệt hơn. Sự phát triển đó là chỉ bảo xác nhận
đức hạnh, góp phần hình thành tình cảm nhân cách ở mỗi con người.
- Tình yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng
chí với mọi người bình thường, trong quan hệ hàng ngày, nó đòi hỏi mọi người phải
luôn luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi độ lượng với người khác. Nó đòi
hỏi thái độ tôn trọng con ngừơi phải biết cách nâng con người lên, chứ không phải hạ
thấp, càng không vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những
người ở cương vị lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.
- Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh ở thế kỷ XX, các thế hệ người Việt
Nam đã thể hiện mãnh liệt nhất tình cảm của mình đối với nghĩa vụ, đối với trách nhiệm
của một người dân mất nước. Cả dân tộc đã từng “nếm mật, nằm gai”, đã từng phải
“khoét núi, ngủ hầm”, đã từng chịu đựng ”mưa dầm, cơm vắt”, đến nỗi ”máu trộn bùn
non”. Nhưng kỳ lạ thay ”gan không núng, chí không mòn”. Với tinh thần đó, với tình
cảm thiêng liêng giành cho Tổ quốc, cả dân tộc Việt Nam đã vượt lên, đã chiến thắng
tất cả mọi kẻ thù và đã không cảm thấy hổ thẹn với truyền thống chống giặc của cha
ông.
- Tình yêu thương con người, còn được thể hiện đối với những người có sai lầm
khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ những khuyết điểm và sai lầm, cố gắng sữa chữa, kể cả
những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với những kẻ thù đã bị thương, bị
bắt hoặc đã chịu quỳ hàng. Chính tình yêu thương rộng lớn đó mà Hồ Chí Minh đã
đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi người, và Người tin rằng ai cũng đều có, cũng
theo.
- Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau. Đây chính là điều nhắc nhở cán bộ đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm
chất yêu thương con người. Đây là tình yêu trên nguyên tắc tự phê bình một cách chân
thành, nghiêm túc giữa con ngừơi cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp

chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hoà vi quý, bao che sai lầm khuyết điểm cho
nhau, càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những
tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.
c. Cần kiên liêm chính, chí công vô tư.
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là nét đặc trưng của đạo đức theo quan
niệm của Hồ Chí Minh. Đó là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng, việc tu
dưỡng, rèn luyện nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt gia đình, xã
hội, ở mọi không gian, thời gian, và nhìn chung là lấy chính bản thân mình làm đối
tượng. Phẩm chất này là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với
dân”, bởi vì ”cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” sẽ tạo khả năng giữ vững độc lập,
xây dựng đất nước.
Đây cũng là những khái niệm đạo đức truyền thống được Hồ Chí Minh vận
dụng, đưa vào những nội dung và yêu cầu mới, Người viết ”bọn phong kiến ngày xưa
nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm, mà lại bắt nhân dân phải tuân
11
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay chúng ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính
cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”[8].
Ngay trong tác phẩm “Đường kách mệnh” viết năm 1927, ”cần kiệm” đã được
Hồ Chí Minh nhắc tới và coi như là yêu cầu số 1 của tư cách một ngừơi cách mạng.
Ngừơi mong mỏi tha thiết mỗi người Việt Nam, nhất là cán bộ, đảng viên phải lấy
”cần kiệm liêm chính” là phương châm sống trong cuộc sống mới.
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: Trong dịp lễ sinh nhật của Người (19 - 5-
1946), các đại biểu trong ban vận động đời sống mới đến chúc thọ Người và đề nghị
Người như trong cuộc vận động, hãy ra một khẩu hiệu.
Hồ Chí Minh nói các chú muốn có khẩu hiệu thì Bác cho khẩu hiệu: Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư.
Khẩu hiệu đó - một đại biểu thưa với Bác - khẩu hiệu này đã quá quen thuộc,
xin Bác phải nêu khẩu hiệu mới để phù hợp cuộc sống vận động đời sồng mới.

Bác cười và nói: ”hàng ngày ta phải ăn cơm, uống nước, phải thở khí trời để
sống. Những việc đó ngày xưa ông cha ta làm, bây giờ chúng ta phải làm, con cháu ta
sau này cũng phải làm. Vậy ăn cơm thở khí trời để đem lại cuộc sống cho con người
thì đó là những việc không bao giờ cũ cả. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư đối với
đời sống đó cũng vậy”[9].
Đến tháng 3- 1947, do nhu cầu cuả cuộc sống kháng chiến kiến quốc, Chủ
Tịch Hồ Chí Minh kêu gọi thi đua xây dựng ”đời sống mới, cần, kiệm, liêm, chính”.
Người giải thích cần, kiệm, liêm, chính một cách thiết thực và dễ hiểu:
- Cần: làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ và về sớm. Làm cho chóng, cho
chu đáo. Việc ngày nào nên làm trong ngày ấy, chớ để chờ ngày mai.
Cần trong lao động là cần cù, siêng năng lao động có kế hoạch, tự lực cánh
sinh, sáng tạo, có năng suất cao, lao động có tinh thần trách nhiệm. Người nói:
Người siêng năng thì mau tiến bộ
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no
Cả nhà siêng năng thì là phồn vinh
Cả nước siêng năng thì nước giàu mạnh.
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nhưng không
phải quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc cho
lâu dài.
- Nói về kiệm, Người nói: kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi. Cần với kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người
Hồ Chí Minh nói kiệm đối với cán bộ: giấy bút vật liệu đều tốn tiền của chính
phủ, tất là của dân; tức là ta cần phải tiết kiệm. Nếu một miếng giấy nhỏ đủ viết thì
chớ dùng một tờ to. Một cái phong bì có thể dùng hai, ba lần. Mỗi ngày, công sở cả
nước dùng hàng mấy vạn tờ giấy và phong bì. Nơi nào cũng tiết kiệm một chút thì
trong một năm đỡ được hàng vạn tấn giấy, tức là hàng triệu đồng bạc
12
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
- Liêm: tức là ”luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân” và ”không xâm

phạm một đồng xu, hạt thóc cuả nhà nước, của dân”, phải ”trong sạch, không tham
lam” và không tham địa vị, không tham tiền tài, không ham sung sướng. Không ham
người tâng bốc mình. Vì vậy mà phải quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ
Người chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như: ” cậy quyền thế mà đục
khoét dân, ăn của đút, họăc trộm của công làm của tư ”[10]
- Chính: Người viết: ”Một ngừơi phải cần kiệm, nhưng còn phải chính mới là
người hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người, trong số người ấy có thể chia
làm hai hạng: người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công nghìn việc.
Trong những công việc ấy có thể chia làm hai thứ việc chính và việc tà”[11].
Như vậy chính “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đúng đắn”. Với mình. Không tự
cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển đều hay,
sửa đổi điều dở của bản thân mình
Đối với người - không nịnh hót ngừơi trên, không xem khinh người dưới; luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với công việc - để việc công lên trên, lên trước việc tư. Đối với việc dân,
đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho bằng được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó
khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù mấy nhỏ cũng vẫn
tránh. Mỗi ngày càng làm một việc lợi cho nước, cho dân
- Chí công vô tư: Người nói: Đem lòng chí công vô tư mà đối với ngừơi với
việc. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ mình nên
đi sau; phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ
Chí công vô tư, thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Người giải thích:
”trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì
quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn
của đút, có dịp không chí công vô tư”[12]
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Cần mà
không kiệm thì chẳng khác nào ”gió vào nhà trống”, “ nước đổ vào chiếc thùng không
đáy”, “làm chừng nào xài chừng ấy”, rốt cuộc ”không lại hoàn không”. Còn kiệm mà
không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát

triển. Ngừơi coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức chủ yếu của một con người, như bốn
mùa của trời (xuân, hạ, thu, đông), như bốn phương của đất (đông, tây, nam, bắc) và
kết luận: Thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất,
thiếu một đức thì không thành người
Hồ Chí Minh còn chỉ ra mối quan hệ giữa bốn điều đó rằng: cần, kiệm, liêm là
gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là
hoàn toàn.
- Mặc dù mỗi đức tính có những nội dung riêng, nhưng chúng lại liên quan mật
thiết với nhau và tạo thành một chính thể, là thước đo văn minh tiến bộ của dân tộc.
13
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, chính là một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Ngoài ra, nó còn
là một đặc điểm của một xã hội hưng thịnh và những điều đó trái lại là những đặc điểm
của một xã hội suy vong.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cái cần để ”làm việc, làm người, làm
cán bộ phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại”.
d. Có tinh thần quốc tế vô sản.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa không những yêu cầu tôn trọng dân tộc mình, văn
hóa và truyền thống của nhân dân mình, mà đối với những dân tộc khác, đối với mọi
nhân dân nói chung, nó cũng đặt ra yêu cầu ấy.
Cương lĩnh của đảng đề xướng nguyên tắc đoàn kết anh em với những người
lao động của mọi nứơc, với nhân dân của mọi nước. Nguyên tắc này dựa trên quy luật
phát triển lịch sử hợp tự nhiên của nhân loại, quy luật phát triển lịch sử của văn hoá và
văn minh nhân loại.
Người nào muốn tổ quốc mình có nhiều người bạn, có nhiều người thân thiết có
thiện chí, người ấy phải có tinh thần quốc tế. Như vậy, tinh thần quốc tế, không những
tự nó là một điều hay, điều tốt, như là sự biểu hiện những xu hướng tự nhiên của con
người, đồng thời nó là còn một phương tiện biểu hiện lòng yêu nước. Người nào yêu

tổ quốc thì người ấy phải cố gắng tranh thủ thật nhiều bạn cho nhân dân mình. Người
nào không tìm bạn cho mình thì người ấy thù địch với bản thân mình.
Tinh thần quốc tế vô sản đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí
Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Đó là tinh thần
đoàn kết các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động mà Hồ Chí Minh đã dày công
vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc.
Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ
trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục
tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước,
hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính là chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có
thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, so sánh biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ
nghĩa bành trướng bá quyền, như thế giới thường nói hiện nay. Tất cả những khuynh
hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ cả một quốc gia dân tộc hay một liên
bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung,
thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu, đối địch.
Hồ Chí Minh viết: Quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh
em. Chỗ khác Hồ Chí Minh dạy “họ là thân thích ruột rà, cộng đồng thế giới là đều
14
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
anh em”. Hồ Chí Minh lại viết rằng: ”tứ hải giai huynh đệ” - tức là bốn biển đều là anh
em. Quan điểm của Người về chính sách đối ngoại của nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà năm 1946 - 1947: “ nước Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước dân chủ,
không gây thù oán với một ai”. Tuỳ vào những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể mà đề ra
những chính sách phù hợp.

Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm
vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Không phải đối với
bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có hay không, trong
sáng hay không trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá
nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Trong thời kỳ đổi mới việc
đoàn kết quốc tế là một việc làm rất cần thiết để vừa học hỏi kinh nghiệm của các
nước trên thế giới vừa hợp tác và cạnh tranh lạnh mạnh và tích cực.
1.2.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới của Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu các tác phẩm cuả Hồ Chí Minh để lại, chúng ta thấy Người không
chỉ nêu ra những chuẩn mực cơ bản về đạo đức, mà còn chỉ ra những nguyên tắc để
rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng cho tốt. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức
mới đó là:
a, Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức: Có thể nói lý luận đi liền với
thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Điều này được Hồ Chí Minh nói rất nhiều, trong
suốt cuộc đời của mình, Người đã giáo dục mọi người và chính bản thân Người thực
hiện điều đó có một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Hơn nữa chúng ta còn thấy
Người nói ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người làm mà không nói.
Phải đi sâu vào hành vi đạo đức của Người, chúng ta mới khám phá ra được từng bản
chất sâu xa của những tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả
thiết thưc cho bản thân mình, có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít,
nói mà không làm, hơn nữa nói một đàng, làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả
phản tác dụng. “Hãy làm theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm”, thói đạo đức giả ấy là
đặc trưng đạo đức của các giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử xã hội loài
người, trong mỗi quốc gia dân tộc; nó hoàn toàn xa lạ với đạo đức cách mạng, với nền
đạo đức mới mà chúng ta cần xây dựng. Chúng ta cần phấn đấu để làm sao trong xã
hội ta không còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép những kẻ đạo đức giả
vẫn đi dạy dỗ người khác về đạo đức. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chủ
nghĩa xã hội một phần quan trọng phụ thuộc vào vấn đề này.
Từ đó chúng ta thấy rằng không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được

đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của bố mẹ đối
với con cái, của anh chị đối với những người em; Trong nhà trường thì là tấm gương
của thầy cô giáo đối với học sinh; Trong tổ chức, tập thể Đảng, nhà nước là tấm gương
của những người phụ trách, lãnh đạo của cấp trên đối với cấp dưới; Trong xã hôị đó là
15
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
tấm gương của người này đối với người khác, những “gương người tốt việc tốt” mà
Hồ Chí Minh đã phát hiện để mọi người học tập và noi theo.
Nêu gương đạo đức là một nguyên tắc cơ bản trong giáo dục đạo đức mới. Đạo
đức cách mạng. Điều này đã được Hồ Chí Minh đề cập từ rất sớm. Từ giữa thế kỷ XX,
ngay trên trang nhất của tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh đã nêu 23 điều
của tư cách một người cách mạng.
Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sáng - điều mà Hồ Chí
Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ
bản là sự nêu gương về đạo đức trong sáng, tuyệt vời với một cuộc đời trọn vẹn.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ sau là đặc biệt
quan trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ trước bao giờ cũng
có trách nhiệm rất nặng nề đối với thế hệ sau trong việc giáo dưỡng, nhất là trong việc
bồi dưỡng, về đạo đức. Đương nhiên, trong cuộc sống không phải bao giờ cũng chỉ
diễn ra một chiều ảnh hưởng, tác động như vậy. Do đó, Hồ Chí Minh cũng đã nói đến
việc người già có thể học tập người trẻ không ngừng hoàn thiện đạo đức của minh.
Người lấy gương quần chúng giáo dục quần chúng là phương châm rất sinh động và có
sức thuyết phục rất lớn.
Đặt biệt, Hồ Chí Minh đã tự nêu tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt với, tiêu
biểu cho tinh hoa và khí phách dân tộc, được toàn dân tin yêu theo, thế giới ngưỡng
mộ. Đó là tấm gương suốt đời hy sinh phấn đấu cho lý tưởng cứu nước, cứu dân; hết
lòng thương yêu nhân dân theo tinh thần “nước lấy dân làm gốc”, suốt đời không
ngừng học tập và rèn luyện, thực hiện cần, kiêm, liêm, chính, chí công, vô tư, sống
giản dị, khiêm tốn, thanh cao.

Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm quan trọng:
“trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ ”Cộng sản” mà ta được họ
yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[13]. Luận điểm ấy đã
khăng định rất rõ vấn đề noi gương có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống đạo đức,
nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, Đảng viên.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, với cương vị chủ tịch nước, Hồ Chí Minh
kêu gọi đồng bào sẻ cơm nhường áo. Chính Người gương mẫu thực hiện nghĩa cử cao
đẹp đó. Người nói “từ tháng giêng đến tháng 7 năm nay, ở Bắc bộ đã có hai triệu
người chết đói, kề đó lại bị nước lụt, nạn đói lại càng tăng thêm, nhân dân càng khốn
khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi
xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó
để cứu dân nghèo ”[14].
Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tấm gương chung cả dân tộc, cho các thế hệ
người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của những người tiêu
biểu trong từng ngành, từng tập thể, những tấm gương ”người tốt việc tốt” rất gần gũi
trong đời thường, Hồ Chí Minh đã từng nói: “từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất,
16
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại
mới thành biển cả. Một pho tượng một lầu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới
đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhin thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý
đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc.
Người tốt việc tốt nhiều lắm. Ơ đâu cũng có. Ngành giới nào, địa phương nào,
lứa tuổi nào cũng có”[15]
Những tấm gương đạo đức đã được hiểu theo một nghĩa rộng. Có những tấm
gương chung và riêng, lớn và nhỏ, xa và gần, một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng
trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực
đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội, mà những

tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa
thúc đẩy cho quá trình đó.
b, Xây đi đối với chống.
Xã hội mới Việt Nam thoát thai từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, do vậy
nhiều tàn dư của văn hoá nô dịch thực dân vẫn còn ăn sâu, bén rễ trong xã hội. Vả lại,
trong mỗi con người, vì những lý do khác nhau, không phải người nào cũng tốt, người
nào cũng hay. Mỗi người đều có cái thiện, cái ác trong lòng. Hồ Chí Minh khẳng
định:” tất cả chúng ta đều sinh trưởng trong xã hội cũ, dưới sự thống trị của đế quốc
phong kiến. Mọi người chúng ta dù muốn hay không muốn đều bị thói xấu của đế
quốc phong kiến truyền vào người”[16].
Vì vậy, một trong những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo quan điểm của
Người là phải kết hợp xây đi đôi với chồng. Điều đó có nghĩa là, một mặt, phải không
ngừng trau dồi, xây đắp, phát triển đạo đức mới. Đạo đức cách mạng, tăng cường cái
đúng, cái tốt. Cái tốt được tăng cường, phát triển thì cái xấu thì bị đẩy lùi. Măt khác,
cũng với việc xây cái thiện phải đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu trong bản thân mỗi
con người.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trừơng và
ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể - nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi
người gắn bó bằng hoặt động thực tiễn của mình. Những phẩm chất chung nhất, cơ
bản nhất lại được cụ thể hoá cho sát hợp với từng giai tầng, từng lớp đối tượng khách
nhau. Đó là điều Hồ Chí Minh đã làm công việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, Đảng
viên, cho công nhân, nông dân, phụ nữ, tri thức, sau khi dành được chính quyền,
trong quá trình hình thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, chuẩn bị điều kiện
tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã nhận thấy và chỉ ra những suy thoái, những bệnh đã nảy sinh
ra và xuất hiện trong cán bộ, Đảng viên. Người coi những suy thoái, những bệnh ấy là
“giặc ở trong lòng”, “giặc nội xâm”, là ”đồng minh của thực dân phong kiến, là “tội
ác” đối với độc lập dân tộc của chủ nghĩa xã hội. Những kẻ địch ấy rất nguy hiểm
đối với cách mạng, bởi vì “việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằn

17
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch ở trong con người, trong nội bộ, trong
tinh thần, là một khó khăn, đau xót”[17]
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh ở mỗi người. Mọi người tự giác nhận thức được tránh nhiệm đạo đức của
mình đã nói, cảm nhận thật sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm “sung
sướng vẻ vang nhất trên đời này”.
Tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề cấp thiết không thể thiếu được, nhưng
sự tự giác giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn nhiều. Sức
mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là khơi dậy sự tự giác của mỗi
người nhằm đấu tranh tự loại bỏ cái thấp hèn để vươn tới caí cao đẹp, loại bỏ caí ác,
cái phi đạo đức để vươn tới cái thiện, cái đạo đức.
Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới, phải đồng thời
chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan trọng là phải
phát hiện sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch lành mạnh về
đạo đức. Hơn nữa còn phải thấy trước những gì có thể xảy ra để đề phòng, ngăn chặn.
Đối với những cán bộ, đảng viên.
Người đã dẫn lời Khổng tử để giải thích rõ hơn luận điểm này: ”Khổng tử nói:
”mình phải chính tâm tu thân” là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc
bình thiên hạ“ được. Trị quốc bình thiên hạ đây tức là ta kháng chiến đánh Pháp, kiến
quốc xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình thế giới. Muốn cải tạo xã hội thì lòng
mình phải cải tạo. Nếu lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao
được. Người đã trích dẫn khá dài những ý kiến rất quyết liệt của Lênin về vấn đề này:
”Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải
đuổi họ ra khỏi Đảng Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ.
Ít nhất cũng phải phạt 10 năm giam cầm và 10 năm khổ sai”[18].
Người đã vạch rõ nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, đó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ tệ nạn. Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại là

phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân.
Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Hồ
Chí Minh đã phát động nhiều phong trào mới như: phong trào vận động “nâng cao ý
thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật”, gọi tắt là
cuộc vận động “3 xây, 3 chống”. Có phong trào, có cuộc vận động chung cho toàn
Đảng, toàn dân. Có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới.
Qua đó lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây dựng, xây gì, chống gì rất cụ
thể, rõ ràng, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn đấu tự bồi
dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
c, Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:
Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu
dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày. Đây cũng là công việc phải làm kiên trì
bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn.
18
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Người thường nhắc lại luận điểm ”chính tâm, tu thân ” của Khổng tử, từ đó rút
ra ý nghĩa tích cực để vận dụng vào việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của
mỗi người. Người cũng thường nêu lại tấm gương của người xưa, mỗi tối đều tự kiểm
điểm để bỏ đỗ đen, độ trắng vào hai cái lọ, để cứ nhìn vào đó để biết mình tốt xấu ra
sao.
Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời
sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[19]. Do không chú ý điều
này, nên: Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái trung thành, không sự nguy
hiểm, không sự cực khổ, không sợ thù địch, nghĩa là có công với cách mạng, song đến
khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí
quan liêu, không tự giác mà biến thành người xấu. Người ngày hôm qua là vĩ đại, có
sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên

trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn
minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để
lại trong xã hội và trong mỗi con người”[20].
Đó là điều chúng ta vẫn thấy diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Có những
người phấn đấu gần hết cuộc đời, có nhiều công lao, nhưng cuối đời lại không giữ
được tấm lòng trong sáng, nên sự nghiệp đã đỗ vỡ. Kết luận của Hồ Chí Minh cũng
đúng với sự đổ vỡ của một số Đảng ở cuối thế kỷ XX. Điều này cũng đúng như Lênin
trước kia đã nhận định: Cái chết về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới cái chết về chính trị.
Theo Hồ Chí Minh: “tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự
nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Đã là người thì
ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ xấu chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong bản thân
mình. Vấn đề là giám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, thấy rõ cái
hay, caí tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.
Nhất là đối với cán bộ, Đảng viên, việc phải luôn luôn học tập, tu dưỡng để
hoàn thiện bản thân là việc làm thường xuyên, nó không phải là vấn đề một sớm một
chiều mà làm được. Do đó, tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ mọi lúc,
mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, vì đá đi lâu cũng mòn, sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng
sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng viên và cán
bộ ngày càng trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ngày càng phát triển.
Như vậy, rèn luyện đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh không giống như
sự “tu thân dưỡng tính” trong Nho giáo hay Phật giáo. Theo Hồ Chí Minh, biện pháp
rèn luyện là dựa vào nhận thức khoa học, chứ không phải dựa vào niềm tin mù quáng;
là phải trao dồi thử thách trong mọi quan hệ và công tác hàng ngày, phải rèn luyện bền
bỉ, thường xuyên.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức bao giờ cũng mang tính thời
đại và giai cấp. Những quan điểm về đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
19
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
Hồ Chí Minh là nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, mang bản chất giai

cấp công nhân, vì sự thắng lợi của CNXH trên phạm vi toàn cầu. Những chuẩn mực
đạo đức và những nguyên tắc rèn luyện đạo đức mà Người đưa ra - yêu thương con
người, trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần
quốc tế trong sáng, lời nói đi đôi với việc làm, xây đi đôi với chống, tu dưỡng rèn
luyện đạo đức suốt đời - có ý nghĩa rất to lớn và đúng cho mọi đối tượng.
Chương 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức cách mạng trước hết đòi hỏi mỗi người chúng ta
phải có lòng yêu nước nồng nàn, tuyệt đối trung thành với tổ quốc với giai cấp; phải
căm thù sâu sắc lũ giắc cướp nước và bè lũ phản động bán nước; phải quyết tâm phấn
đấu vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc, đặt lợi ích của Đảng và
của dân tộc lên trên hết, trước hết.
Hồ Chí Minh đã từng nói học tập đạo đức cách mạng đó mọi lúc mọi nơi,
không chỉ phải tại trường, có lên lớp mới học tập, tu dưỡng rèn luyện, mà tự cải tạo.
Thời kỳ hoạt động bí mật, thời kỳ khởi nghĩa, thời kỳ kháng chiến và ngày nay công
việc xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà
đều là những trường học rất tốt cho chúng ta rèn luỵện đạo đức cách mạng.
Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt,
rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc
và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình.
Khi cần thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của minh cũng không tiếc. Đó là biểu hiện
rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng.
Khi gặp thuận lợi và thành công cũng như khi gặp khó khăn, thất bại đều luôn
giữ vững tinh thần kiên định, chất phát, khiêm tốn ”lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”,
lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, chứ không còn kèn cựa về mặt hưởng thụ. Không
công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá. Đó cũng là biểu hiện của
đạo đức cách mạng.

Đạo đức cách mạng là:
- Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt
nhất.
- Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối
chính sách của Đảng.
20
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
- Đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá
nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng vì dân và đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi việc.
- Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình
để nâng cao tư tưởng và cái tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ.
Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Ngoài lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chúng ta không có lợi ích gì khác. Vì
vậy, mục đích trước mắt của Đảng là đấu tranh để đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội và thực hiện thống nhất nước nhà.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh anh dũng, đánh đổ ách
thống trị của thực dân và phong kiến, giải phóng hoàn toàn miền Bắc nước ta. Đó là
một thắng lợi to lớn. Nhưng cách mạng chưa phải đã thành công hoàn toàn, vì mục
tiêu hiện nay của Đảng ta là đấu tranh thống nhất thống nước nhà, để thực hiện nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh, làm cho cả nước không
còn ai bị bóc lột, xây dựng một hệ thống mới, trong đó mọi người được sung sướng
ấm no.
Đạo đức cách mạng là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức
trung thành phục vụ giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tuyệt đối không thể
lưng chừng.
Ngừơi nói: Số đông đảng viên, đoàn viên và cán bộ ta làm đúng như thế, nhưng
cũng có một số không làm đúng, do đó mà để chủ nghĩa cá nhân chớm nở, họ yêu cầu
hưởng thụ, nghỉ ngơi, họ muốn chọn công tác theo ý thích của cá nhân mình, không

muốn làm công tác mà đoàn thể giao phó cho họ. Họ muốn địa vị cao, nhưng lại sợ
trách nhiệm nặng. Dần dần tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút. Chí
khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng. Những thắng lợi mà chúng ta đã đạt được mới chỉ là
bước đầu trên đường đi muôn dặm. Vì vậy, đạo đức cách mạng là trong hoàn cảnh
nào, cũng quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến
đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu, có như thế mới thực hiện được
nhiệm vụ cách mạng.
Sỡ dĩ Đảng ta có thể lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tiến lên chủ nghĩa
xã hội, là vì Đảng ta có chính sách đúng đắn và lãnh đạo thống nhất. Nếu đảng viên tư
tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào một mớ cắt rời,”trống đồng xuôi, kèn
thối ngược”. Như vậy thì không thể lãnh đạo quần chúng, không thể làm cách mạng.
Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân, vì vậy,
đạo đức cách mạng của người đảng viên là cực kỳ khó
2.2. Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới:
Hồ Chí Minh luôn coi thanh niên sinh viên là lực lượng nòng cốt của đất nước,
tương lai của dân tộc và hạnh phúc của mỗi gia đình. Mỗi lần nói, viết về thanh niên -
21
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
sinh viên, Người thường nói và viết rất ngắn ngọn, đơn giản, nhưng rất sâu sắc; mục
đích là làm cho mọi ngừơi đều có thể hiểu và thấy được trách nhiệm của mình để tham
gia vào công cuộc xây dựng đất nước.
Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên là lớp người trẻ tuổi có hoài bão, ước mơ,
giàu nghị lực và rất khát khao với lý tưởng cao đẹp, có đức xả thân vì nghĩa lớn và
lòng vị tha sâu sắc. Đó là lứa tuổi đang ở thời kỳ sung sức, vươn lên và đón nhận ham
hiểu biết, khám phá, tự thể nghiệm mình, có khả năng tiềm ẩn trong công việc thực
hiện lý tưởng, niềm tin và mục tiêu cao quý của xã hội. Đó là lứa tuổi có tính nhạy
cảm nhanh với cái mới, cái đẹp và cái tiến bộ, mà ít chịu ảnh hưởng của những tiêu

cực và thành kiến của quá khứ. Do vậy, nếu được giáo dục tốt , phù hợp với tính cách
và tâm lý, một sự giáo dục tiến hành trên cơ sở tạo ra những điều kiện vật chất, tinh
thần cho sự phát triển tính cách, tâm lý đó, và biết định hướng, động viên đúng mực,
thanh niên sẽ say sưa với lý tưởng sống cao đẹp, phát huy tài năng, tính sáng tạo, sẵn
sàng hy sinh vì đại nghĩa.
Hồ Chí Minh đã nói một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi
trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội. Ơ đây, Ngừơi đã chỉ ra tuổi thanh niên là thời kỳ
đẹp nhất, sống động nhất, như mùa xuân trăm hoa đua nở, tràn đầy nhựa sống. Đó là
hình ảnh và xã hội luôn kỳ vọng, tin yêu.
Hơn nữa, sinh viên là lớp người trẻ tuổi, có sức khoẻ, năng động, sáng tạo,
nhưng còn thiếu kinh nghiệm do chưa từng trải, cần phải được xã hội quan tâm chăm
sóc, vun trồng để họ trở thành ngừơi công dân hữu ích cho đất nước.
Sinh viên là một lực lượng năng động, sáng tạo giàu nghị lực có lý tưởng cao
đẹp, có thể đảm trách và hoàn thành tốt các nhiệm vụ khó khăn, nặng nề khi cách
mạng giao phó.
Đánh giá đúng vị trí vai trò và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên là rất quan trọng.
Nhìn nhận và đánh giá đúng sinh viên trước hết phải xác định vị trí và vai trò
của sinh viên trong tiến trình phát triển xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng có tác dụng chỉ đạo và định hướng cho công tác giáo dục và chuẩn bị hành trang
cho sinh viên bước vào đời. Khi đánh giá về vị trí vai trò của thanh niên cần khẳng
định họ là một bộ phận quan trọng của dân tộc, là người chủ tương lai của đất nước.
Thực tiễn cho thấy, muốn giáo dục thanh niên thành lớp người kế thừa trung
thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của đảng, trước tiên phải đánh giá
một cách đúng đắn, khách quan, khoa học về họ.
Các bậc tiền bối yêu nước ở Việt Nam cũng có sự quan tâm đến thanh niên.
Song, do điều kiện lịch sử hạn chế, do lập trường giai cấp khác nhau nên cách đánh giá
và giải quyết vấn đề này đều có sự khác nhau.
Đến đầu thế kỷ XX, đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, kế thừa và
phát triển sáng tạo di sản tư tưởng tiến bộ của dân tộc và thời đại, với tầm nhìn chiến

22
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
lược và phương pháp khoa học, Hồ Chí Minh đã đánh giá một cách đúng đắn, khách
quan toàn diện về thanh niên - sinh viên.
Thanh niên - sinh viên là lực lượng xung kích của cách mạng là cánh tay đắc
lực, đội hậu bị tin cậy của Đảng.
Họ sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh, đảm nhận những nhiệm vụ nặng
nề, khó khăn nhất trên mặt trận chiến đấu cũng như phát triển kinh tế. Người chỉ rõ:
thanh niên - sinh viên là những đội quân xung kích trên các mặt trận là đại biểu cái
tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, là ”chủ lực quân” là lực
lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự trị
an bảo vệ Tổ Quốc
Thanh niên sinh viên không chỉ là bộ phận của dân tộc, là lực lượng xung kích
của cách mạng, mà còn là cánh tay đắc lực của Đảng. Luôn đi sâu trong việc thực hiện
đường lối do Đảng đề ra và là nguồn lực bổ sung đội ngũ của Đảng những người trẻ,
khoẻ ngày càng đông, càng mạnh
Với nhiều thế mạnh như thế, hiện nay để sinh viên có được lập trường và thế
giới quan duy vật, khoa học, cách mạng và có niềm tin để có những suy nghĩ và hành
động đúng đắn thì vẫn rất cần phải giáo dục đạo đức cách mạng cho họ.
2.2.1.Thưc trạng đạo đức của sinh viên Viêt nam hiện nay
- Về số lượng:
Sinh viên là một bộ phận quan trọng của xã hội. Cùng với sự phát triển của đất
nước lực lượng sinh viên hiện nay ở nước ta ngày càng tăng lên về số lượng. Theo số
liệu báo cáo thống kê của ngành Giáo dục và đào tạo, Ban trường học Trung ương
Đoàn thanh niên, hiện nay cả nước có khoảng 11,8 triệu thanh niên có trình độ học vấn
tiểu học, 7,7 triệu có trình độ học vấn trung học cơ sở, 2,8 triệu có trình độ học vấn
trung học phổ thông, 24 vạn có trình độ đại học và hàng trăm ngàn thanh niên có trình
độ công nhân kỹ thuật. Đây là nguồn lực xã hội, là nguồn lực to lớn thúc đấy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ nhân tương lai của đất nước.

- Về chất lượng:
Trong giai đoạn hiên nay, đất nước ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Với tính năng động, sáng tạo và tự quyết trong công việc, sinh viên
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Họ có mặt trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, từ sản xuất kinh doanh, khoa học, công nghệ, quốc
phòng, an ninh, trên tất cả các lĩnh vực đó họ đều là những người tiên phong, phát
huy các khả năng và nổ lực của mình để góp phần vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội.
Trong điều kiện mở cửa tiếp xúc với nhiều luồng văn hoá bên ngoài, mặc dù có
sự biến động chính trị sâu sắc ở nhiều nước trên Thế giới và tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường, nhưng đa số sinh viên vẫn giữ dược phong cách, truyền thống dân
tộc và lối sống lành mạnh. Có phẩm chất đạo đức cao đẹp, có thái độ học tập, lao động
23
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
đúng đắn, sống có lý tưởng, yêu quê hương đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có tinh
thần quốc tế vô sản trong sáng.
Từ năm 1994 đến nay, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên có
bước chuyển biển tích cực. Đoàn thanh niên các cấp đã tiến hành nhiều đợt sinh hoạt
chính trị, hội thảo diễn đàn để giáo dục lý tưởng cho sinh viên đã góp phần quan trọng
làm cho sinh viên ngày càng tin tưởng vào công cuộc đối mới đất nước do Đảng lãnh
đạo.
Kinh tế thị trường cùng với quá trình giao lưu hội nhập, bên cạnh những yếu tố
tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội, thì cũng hàm chứa không ít yếu tố tiêu cực làm
ảnh hướng đến trật tự xã hội và đời sống con người.Việc du nhập lối sống phương Tây
và các loại văn hoá phẩm đồi truỵ đã làm ảnh hưởng đến thế hệ trẻ Việt nam.
Trong học tập thì trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của sinh viên còn
thấp. Định hướng nghề nghiệp, động cơ học tập còn chưa phù hợp với thị trường lao
động, với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Không ít sinh viên học
tập chỉ vì mục đích kiếm tiền, cố gắng thi vào những trường, những nghành để sau này

có thể kiếm được nhiều tiền. Như vậy, do chạy theo đồng tiền nên động cơ học tập,
cũng như thái độ học tập của họ không đúng đắn, họ chỉ học tập côt sao cho qua, hoặc
bằng mọi hình thức để xin mua điểm Trình độ, kiến thức, kỹ năng thực hành,
phương pháp tư duy khoa học của sinh viên khi ra trường còn hạn chế.
Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp bứơc vào thị trường lao động bộc lộ nhiều
yếu kém, chưa có tác phong và thói quen công nghiệp, thiếu kiến thức về kinh tế thị
trường mà đặc trưng chủ yếu là thiếu tính năng động, sáng tạo, nhạy ben với thời cuộc.
Một trong những hạn chế của một bộ phận không nhỏ sinh viên khi ra trường,
là họ không muốn trở về quê hương để cống hiến, phục vụ, không chịu lên các vùng xa
xôi hẻo lãnh để công tác mà phần lớn đều do tâm lý muốn ở lại thủ đô hoặc các thành
phố để kiếm việc làm .
Hiện nay, dưới sự tác động của cơ chế thị trường, ý thức chấp hành kỷ luật lao
động và chấp hành pháp luật của một bộ phận sinh viên còn thấp, không ít sinh viên
mất nhân cách,lười biếng
2.2.2. Ảnh hưởng kinh tế thị trường đến sự hình thành đạo đức cách mạng
do sinh viên.
Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ
bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nền
kinh tế mở mới đang ngày càng dẫn dắt dần những bước chân mạnh mẽ vào quá trình
toàn cầu hoá và nội nhập quốc tế và đã bộc lộ tính hai mặt (tích cực và tiêu cực), tác
động đến các giá trị tinh thần, đặt biệt là giá trị đạo đức của con người trong nền kinh
tế chuyển đổi.
Chúng ta có thể thấy rằng, giới trẻ, trong đó có sinh viên, những người sinh ra
và lớn lên trong thời kỳ đổi mới, là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến đổi vô
cùng nhanh chóng, của đất nước và trên thế giới. Họ trước hết mang đầy đủ những đặc
24
LƯƠNG THỊ HẢO – TRIẾT K26 - TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
điểm chung của con người Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó, họ còn mang những đặc
điểm riêng: trẻ, có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với vấn đề chính trị xã hội,

theo học tập trung tại các trường Đại học và Cao Đẳng nên sinh hoạt trong một cộng
đồng với những quan hệ khá gần gủi (trường lớp ). Với những đặc điểm trẻ tuổi, có
trình độ và năng lực sáng tạo, khả năng tiếp cận cái mới nhanh và linh hoạt, thích ghi
kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, nên toàn cầu hoá tác động
không nhỏ tới đối tượng này.
Một trong những tác động tích cực nổi bật nhất là kinh tế thị trường cũng với ý
thức đề cao tính cá nhân, là việc soi chiếu các giá trị đạo đức dưới goc độ cá nhân,
phẩm chất cá nhân. Tính cá nhân được coi như một trong những thước đo của hành
động, đạo đức hay phi đạo đức chỉ phụ thuộc một phần vào di sản tinh thần mà cộng
đồng trước để lại, còn chủ yếu phụ thuộc vào mỗi cá nhân tạo thành cộng đồng mới
hôm nay.
Quan điểm đạo đức xuất phát từ thước đo cá nhân này là một sức mạnh lớn
trong quá trình ly khai với những quan điểm đạo đức truyền thống không còn phù hợp
trong thời kỳ mới. Từ ý thức cá nhân, ít chịu ảnh hưởng bởi dư luận như trước đã tạo
điều kiện phát huy sức sáng tạo cá nhân làm cho cá nhân chủ động và nhanh chóng
tiếp cận với những cái mới trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ, chịu khó học hỏi
kiến thức phục vụ cho nghề nghiệp và công việc.
Thực ra, việc để lại đàng sau bước đi của chúng ta những di sản quá khứ đã lỗi
thời không phải là chuyện đơn giản, vì nó đã ăn sâu vào ý thức cộng đồng qua thời
gian khá dài. Chính sự phát triển của kinh tế thị trường là chất xúc tác, là đòn bẩy,
cũng là yêu cầu của việc rời bỏ triệt để những mảnh quá khứ đã lỗi thời một cách nhẹ
nhàng.
Làm được điều ấy một cách triệt để nhất, rõ ràng nhất không ai khác ngoài sinh
viên - đối tượng trẻ có tri thức, lớn lên trong môi trường mới, có điều kiện rời bỏ quá
khứ một cách ít luyến tiếc hơn cả. Đây là đối tượng mà sự liên hệ với truyền thống
chưa thật sâu đậm nên dễ dàng để những giá trị truyền thống lỗi thời lại đằng sau, để
tiếp thu cái mới, chấp nhận những giá trị mới trong một môi trường năng động liên
tục.
Tác động tích cực, tiếp theo của kinh tế thị trường đối với đạo đức sinh viên là
tạo ra sự đồng nhất tương đối giữa quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của một cộng

đồng với các quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế.
Như đã phân tích ở trên, với đặc điểm cơ bản là trẻ, có tri thức và dễ tiếp thu cái
mới, lại được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin
hiện đại và việc mở rộng, đa dạng hoá và giao lưu quốc tế, sinh viên ngày nay đã hoà
hợp vào dòng chảy mới trong quá trình hội nhập. Điều đó tạo ra sự xích lại gần nhau
các giá trị đạo đức trong một tinh thần cảm thông và cởi mở.
Có thể thấy những biểu hiện này trong các quan niệm đạo đức có liên quan đến
các lĩnh vực đặc trưng của tuổi trẻ: tình bạn, tinh yêu, những quan điểm về tốt xấu,
25

×