Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
MỤC LỤC
A. TÊN ĐỀ TÀI ……………………………...………………………………….2
B. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………...…………………..………… 2
I. Lí do chọn đề tài………………………………………………....……..……...2
II. Mục đích nghiên cứu…….……………………………....……….…………...2
III. Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………………….2
IV. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm …………………………………………....3
III. Phương pháp nghiên cứu……………………...…………….……….……....3
IV. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu...…….……...………………..…………....3
C. PHẦN NỘI DUNG………………………...…………………..…………….3
I. Hiện trạng……………………………...…………………………..…………..3
II. Giải pháp …………………………………….......………..……….................4
III. Kết quả………….………………………………………….…………….....10
D. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......………...………………………………11
Tài liệu tham khảo .……………………………………...….…..…………...12
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
1
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
A. TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2
HỌC TỐT MÔN TIẾNG VIỆT.
B. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Môn Tiếng Việt là môn học chủ đạo, là môn học công cụ; mang tính nhân
văn, góp phần hình thành nhân cách của con người lao động mới. Các kiến thức,
kĩ năng môn Tiếng Việt có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết
để học các môn học khác ở trường Tiểu học và học tiếp môn ngữ văn ở Trung
học. Đặc biệt lứa tuổi tiểu học: là giai đoạn chuyển tiếp từ hoạt động chơi là chủ
yếu ở mẫu giáo sang hoạt động học là chủ đạo ở Tiểu học, nó đóng vai trò cực kì
quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người Việt Nam. Môn Tiếng
Việt lớp 2 giúp học sinh hình thành và cũng cố 4 kĩ năng đã học ở lớp 1: Nghe,
nói, đọc, viết, nhưng chú ý hơn đến kĩ năng đọc và viết. Trên cơ sở dạy học sinh
đọc đúng và hiểu phù hợp với lứa tuổi, giáo viên giúp các em bước đầu mở tầm
nhìn rộng lớn ra thế giới xung quanh, rung cảm trước cái đẹp, cái xấu, trước
những niềm vui, nỗi buồn, thái độ yêu, ghét… của con người. Đồng thời hình
thành ở mức đơn giản trong các em những nhận thức tình cảm và thái độ đúng
đắn của con người Việt Nam hiện đại, biết phân biệt cái xấu, cái đẹp, thiện, ác,
đúng, sai, biết yêu trường lớp, thầy cô, bạn bè, yêu quê hương, đất nước, có lòng
nhân ái vị tha…
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thời gian này xã hội đang nói rất nhiều về giáo dục, về chất lượng
học sinh lên lớp, về những học sinh ngồi nhầm lớp từ khi có cuộc vận động Hai
không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục. Những người là giáo viên như tôi không
khỏi suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để “sản phẩm” của mình phải có chất
lượng, những lí do trên đã thôi thúc tôi cần phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể
góp phần đưa chất lượng học sinh của lớp mình đạt hiệu quả tốt. Là giáo viên
chủ nhiệm lớp 2 tôi nhận thấy lớp 2 là lớp rất quan trọng ở Tiểu học, nếu các em
không đọc thông viết thạo thì các em làm toán cũng rất khó khăn và học các
môn học khác cũng rất chậm, như vậy các em học lên các lớp trên sẽ bị hổng
kiến thức. Nhận thức được tầm quan trọng đó, thấy được những thuận lợi và khó
khăn cơ bản, tôi- giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2 đã tiến hành vận dụng một
số biện pháp nhằm giúp các em học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt.
Vì những lí do trên, tôi đã quyết định đi sâu, nghiên cứu đề tài:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2 HỌC TỐT MÔN
TIẾNG VIỆT.
II. Mục đích nghiên cứu
- Theo dõi và kiểm nghiệm kết quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh
qua những phương pháp mà giáo viên thực hiện.
- Tìm ra những giải pháp, phương pháp mới giúp học sinh học tốt hơn
môn Tiếng Việt lớp 2.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Hiện trạng học tập môn Tiếng Việt của học sinh.
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
2
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
- Các phương pháp dạy học Tiếng Việt mới.
IV. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
- Học sinh lớp 2B trường Tiểu học Hướng Phùng.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành tìm hiểu nội dung của đề tài bản thân tôi đã kết hợp nhiều
phương pháp, cụ thể là:
+ Phương pháp điều tra: điều tra thực trạng đọc, viết của học sinh, điều tra
hoàn cảnh gia đình của từng học sinh.
+ Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện tìm hiểu nguyện vọng, sở thích,
thói quen, tâm lý của học sinh.
+ Phương pháp thống kê: thống kê kết quả học tập của các em theo từng
tháng.
+ Phương pháp thực hành luyện tập: thực hành các phương pháp dạy học
mới trên đối tượng khảo sát.
+ Nghiên cứu tài liệu …
VI. Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của tôi tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
- Hoàn cảnh, tâm lí của học sinh lớp 2.
- Năng lực học tập của học sinh vùng Bản.
- Phương pháp dạy học Tiếng Việt lớp 2
5.2. Kế hoạch nghiên cứu
- Kế hoạch này được tiến hành từ tháng 9/2015 đến hết tháng 3/2016.
C. PHẦN NỘI DUNG
I. Hiện trạng
Học sinh lớp 2 là đối tượng đang còn rất nhỏ, lứa tuổi còn rất hiếu động, ham
chơi, trong thời gian học các em được học những gì và được dạy gì phụ thuộc
phần lớn vào thầy cô ở trường. Trong quá trình dạy giáo viên là người tổ chức
và học sinh là trung tâm quá trình dạy học. Thiết kế những tiết dạy phải mang
tính khoa học, thẩm mĩ, lo-gic, phải phù hợp với tâm sinh lí học sinh. Và hơn
nữa Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ 2 của đối tượng học sinh dân tộc thiểu số nên
các em nắm bắt chậm và cách phát âm của người bản xứ dễ nhầm lẫn dấu thanh.
Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp, tôi đã
tiến hành khảo sát học sinh: về nhận diện con chữ, về tìm hiểu môi trường xung
quanh, về nhận diện các số...kết quả như sau:
*Tổng số học sinh toàn lớp: 36 em(14 nữ, 22 nam; tất cả 36 em đều là
học sinh dân tộc Vân Kiều), trong đó:
Số học sinh đọc, viết theo chuẩn: 10 em
Số học sinh đọc, viết chậm so với chuẩn: 11 em
Số học sinh chưa đọc, viết được: 15em.
Tôi phát hiện ở các em có một số lỗ hổng về kiến thức như sau:
- Trường hợp 1: Em hãy đánh vần : vần an
Kết quả: Một số em không đánh vần được, một số em đọc được a nhưng
chưa biết ráp a- nờ - an, một số em lại đánh vần a – nờ - nờ - a – na...
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
3
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
- Trường hợp 2: Em hãy đánh vần tiếng : năm
Kết quả: một số em đánh vần: ắ - mờ - ăm, nờ - ăm – năm, một số em lại
đánh vần: nờ - ă – ná – mờ - ăm, nờ - ăm – năm, năm.
- Trường hợp 3: đa số học sinh viết sai dấu thanh( đặc trưng của học sinh
dân tộc thiểu số) và xác định vần sai .
- Trường hợp 4: Một số em chưa thuộc bảng chữ cái.
- Trường hợp 5: Một số em đọc được nhưng chưa viết được.
II. Giải pháp thực hiện
* Về tập đọc: Tôi nắm kĩ lại các kĩ năng đọc trong tập đọc gồm:
-Phát âm từng âm, nhận diện chữ/ dấu ghi âm/ thanh điệu.
-Ghép âm, ghép vần ( gọi “đánh vần”)
-Đọc trơn từng tiếng.
-Đọc trơn từng chữ, từng câu.
-Đọc trơn một bài.
Trong tháng đầu tiên của năm học tôi tập trung vào ôn tập cho các em
phần học vần, luyện kĩ năng nói, đọc và viết.
Khi học sinh đọc trơn được một tiếng tôi kiểm tra xem em đã nắm vững
cấu trúc của tiếng ấy chưa, hay là em chỉ làm một sự liên hệ giữa cách đọc chữ
ấy với chỗ của nó trên trang bài học. Để kiểm tra học sinh xem các em đã đọc
chắc chắn hay chưa, ta có thể đảo lộn trật tự các từ trong câu để học sinh đọc
thành câu mới
Đối với các em nhanh chóng đọc trơn được một âm tiết thì tôi kiểm tra
khả năng phân tích âm tiết của em đó. Hay khi dạy học sinh tập nói ở giai đoạn
học vần, tôi dựa vào tranh vẽ, dựa vào những câu hỏi hướng dẫn, hướng học
sinh tìm ra chủ điểm của bài tập. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc
nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt thì các em mới có thể tiếp
thu các môn học khác một cách chắc chắn.
*Về luyện nói: Các kĩ năng luyện nói:
- Nói rõ từng tiếng, không ngọng.
- Nói to, đủ nghe trong lớp.
- Nói thành câu có sự trợ giúp của tranh vẽ hoặc câu hỏi, câu mẫu.
- Nói với ngữ điệu tự nhiên.
Ở phần luyện nói tôi đưa ra kế hoạch cụ thể sau: Trong vòng 1 – 2 tuần
mỗi học sinh trong lớp phải được luyện nói ít nhất một lần. Luôn động viên
những em nhút nhát, không dám nói hoặc chỉ nói lí nhí. Đối với những em
chậm, yếu không nghĩ ra ý gì để nói, tôi đưa ra câu hỏi cho các em trả lời. Để
phát huy trí tưởng tượng của các em khi dùng kênh hình. Cùng nhìn vào một
hình vẽ gợi ý , các em có thể có những câu nói khác nhau. Tôi luôn để các em
nói tự nhiên, phát âm rõ, to, đủ cho cả lớp nghe và đặc biệt lưu ý cho các em về
thanh điệu...
Sau đây là một số ví dụ khi dạy học sinh luyện nói mà bản thân tôi đã áp
dụng:
Trước khi cho các em quan sát tranh, tôi giới thiệu về bức tranh, sau đó
cho học sinh quan sát rồi nói.
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
4
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
Khi nói tôi cho học sinh đứng trên bảng để học sinh nói to cho cả lớp
cùng nghe.
Gọi các bạn nhận xét phần nói của bạn.
Nhận xét, sửa sai cho từng em và tuyên dương kịp thời các em nói tốt.
* Về tập viết: Các kĩ năng tập viết:
-Ngồi đúng tư thế, cầm bút đúng kiểu.
-Viết đúng mẫu chữ.
-Viết liền nét trước khi đánh dấu phụ trong mỗi chữ.
-Tập viết chữ hoa.
Tập viết không những có những quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các
môn học khác mà còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh
những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỉ luật và óc thẩm mĩ.
Tôi thiết nghĩ luyện cho học sinh tư thế ngồi và cách cầm bút viết cho
đúng không phải chỉ là việc làm ở lớp 1, lớp 2 mà là việc làm thường xuyên của
giáo viên trong tất cả các lớp Tiểu học. Vì thế tôi đặc biệt quan tâm tới hai thao
tác quan trọng sau:
Một là tư thế ngồi viết: lưng thẳng, tay trái chặn giấy, tay phải cầm bút và
đầu chỉ hơi cúi để cách mặt giấy một khoảng vừa phải.
Hai là tay cầm bút: ngón cái và ngón trỏ đặt ở phía trên và ngón giữa ở
phía dưới quản bút, ngón áp út và ngón út chặn giấy lấy điểm tựa cho động tác
di chuyển ngòi bút. Bài viết phải đảm bảo yêu cầu, ánh sáng và thuận chiều khi
viết đưa đúng bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới không ấn ngòi bút mạnh
vào mặt giấy.
Để thực hiện được hai thao tác này tôi luôn kiên nhẫn và nhẹ nhàng, làm
đi làm lại nhiều lần khi nào học sinh nắm bắt được mới thôi. Tôi giảng mẫu chữ
trong sách giáo khoa, treo mẫu chữ lên bảng, viết mẫu trên bảng, viết mẫu trên
từng trang vở học trò. Cho các em tập viết nhiều lần ở bảng con, đi đến từng em
hướng dẫn, nắm tay các em hướng dẫn cách viết đúng, cứ như thế khi nào các
em viết đúng, đẹp thì mới cho học sinh viết vào Vở tập viết 2. Bởi vì sự nhiệt
tâm, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công
của giờ dạy tập viết.
Ngoài ra tôi còn tổ chức các hình thức như thi viết đẹp, viết nhanh trong
lớp, có tác dụng động viên, khuyến khích các em tập viết. Tạo phong trào thi
đua giữ vở sạch viết chữ đẹp.
Sau khi đã nắm bắt được tình hình học sinh trong lớp, tôi đi vào vận dụng
các giải pháp:
1.Giải pháp thứ nhất: Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt phương pháp dạy
phù hợp với từng đối tượng học sinh; giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ
học sinh.
1.1 Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng:
Tôi phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng như sau:
Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, yếu
Nhóm 2: Gồm những học sinh trung bình
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
5
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
Nhóm 3: Gồm những học sinh khá, giỏi
Tôi có thể thay tên nhóm 1, 2, 3 thành tên khác như tên các loài hoa, quả,
con vật… Trong quá trình dạy tôi vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo nhưng ở
các tiết ôn tập, các giờ phụ đạo tôi yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 3
mức khác nhau trong cùng một giờ học.
Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 3 .
Ví dụ: bài Có công mài sắt, có ngày nên kim, các em chỉ cần đọc một
đoạn ngắn, có thể cho các em tập chép chứ không nghe viết như các nhóm còn
lại.
Các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu cầu cao hơn, tức là nghe viết
nhưng giáo viên đọc chậm hơn, cho các em tập đọc nhiều hơn.
Còn các em ở nhóm 3 thì có thể cho các em tổ chức tự đọc theo nhóm.
Cho các em nghe viết ở mức độ chuẩn hoặc cao hơn.
Để khắc phục tình trạng học sinh chậm, yếu tôi phải tăng cường phụ đạo,
giúp đỡ riêng các học sinh yếu, chậm (ngoài giờ chính khóa). Bởi vì trong lớp
học đồng loạt, bản thân người giáo viên có cố gắng giảng dạy sát ba đối tượng
đến đâu đi nữa thì việc truyền thụ kiến thức cũng cần phải được tiến hành theo
trình độ và nhịp độ chung của cả lớp, nếu quá chú ý đến đối tượng học sinh
chậm, yếu thì các em khá, giỏi, trung bình sẽ buồn chán, không muốn học. Để
mọi học sinh trong lớp đều hứng thú, tự tin trong giờ học. Tôi đưa ra những yêu
cầu, nhiệm vụ khác nhau để học sinh tự chọn. Trong khi học sinh thực hiện, tôi
theo dõi, kiểm tra từng cá nhân, từng nhóm. Sau đó tôi tiến hành đánh giá và
nhận xét kết quả theo yêu cầu đã đặt ra. Chính vì lẽ đó mà tôi đã đưa ra một quy
trình giảng dạy (phụ đạo) ở nhóm học sinh chậm, yếu:
Bước 1: Tôi cho các em ôn tập lại các kiến thức và kĩ năng có liên quan
đến bài học sắp tới.
Bước 2: Cho các em đọc lại cả bài học ở trong sách giáo khoa. Đánh vần
lại những tiếng chưa đọc thông.
Bước 3: Giáo viên đọc mẫu lại toàn bài theo các bước và tổ chức cho học
sinh ghi nhớ lại các bước .
Lớp học của tôi học theo chế độ học 1 buổi/ngày . Đó là một khó khăn
cho tôi khi thực hiện kế hoạch phụ đạo cho những em học sinh chậm, yếu. Khi
tôi lên kế hoạch phụ đạo trái buổi thì vấp phải một số vấn đề đó là các em tham
gia không đầy đủ, và một số em tham gia phụ đạo buổi sáng thì buổi chiều các
em không tham gia buổi học chính nữa. Nhận thấy tình hình bất cập cho nên tôi
quyết định lên kế hoạch phụ đạo cho các em vào 15p đầu giờ và sau khi các em
hoàn thành buổi học để đảm bảo các em đều được tham gia học phụ đạo đầy đủ,
có hiệu quả cao.
1.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật….cho
học sinh học chậm.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp 2 khả năng tư duy trừu
tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do
vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không
thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
6
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn
luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của
học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho
học sinh học tập.
Ví dụ: Ở những bài học Luyện từ và câu. Dùng trang vẽ (hoặc vật thật) để
học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau khi các em đã nhận diện được vật thật.
Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và
các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của bài học.
Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh
nhớ vần và từ tốt hơn.
Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết
Tiếng Việt lớp 2 .
Ví dụ: Trong phân môn Tập làm văn, bài: Đáp lời cảm ơn – Trang 30
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 tập II – Phần luyện nói: Em đáp lại lời cảm ơn sau
như thế nào?
Giáo viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói nội dung bức
tranh, động viên các em học chậm nói trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói
được như: Cậu bé đưa bà cụ qua đường, bà cụ nói lời cám ơn cậu bé, và cậu bé
đáp lời cảm ơn.
Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo
tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại
vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm.
1.3. Giáo viên tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng.
Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học
sinh do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi
hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, đo đó giảm tính chất căng thẳng
của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức lý thuyết mới. Trò chơi có nhiều học
sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác cho học sinh.
Trong phân môn Tập đọc có thể tổ chức cho học sinh thi đọc giữa các
nhóm hay thi đọc tiếp sức.
Ví dụ: Tập đọc: Vè chim- Trang 28 sgk Tiếng Việt 2 tập II, từng nhóm thi đọc
tiếp sức lần lượt lên đứng thành hàng ngang, quay mặt về phía các bạn; mỗi
người cầm một quyêt sách giáo khoa đã mở sắn trang có bài Vè chim sẽ thi đọc.
Giáo viên tính thời gian và ghi lại kết quả số phút đọc xong toàn bài của từng
nhóm. Nhóm đọc ít hoặc không mắc lỗi và có thời gian đọc nhanh nhất là nhóm
giành phần thắng trong cuộc thi "đọc tiếp sức" theo sách.
Qua các trò chơi tôi nhận thấy các em rất hứng thú học tập, ghi nhớ nội
dung bài và có ý chí cố gắng đọc tốt hơn.
1.4. Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ học sinh.
Tôi luôn hiểu rằng các em học sinh lớp 2 mới từ lứa tuổi còn ham chơi
chuyển lên nên việc tiếp thu kiến thức thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi
mà học, giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em luôn tạo không khí
thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em giúp các em
thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát mắng
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
7
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Giáo viên phải đi xuống bên học
sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các em, chỉ
cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay bắt tay các em
để các em viết cho đúng. Giáo viên phải gần gũi với học sinh thì mới hiểu được
về học sinh của mình, để hình ảnh ân cần của cô luôn là hình ảnh đẹp trong ánh
mắt của các em, bản thân các em cũng thấy cô giáo như người thân trong gia
đình sẵn sàng kể cho cô nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình
trong học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cô giúp đỡ.
- Ví dụ: Em Thành, em Vũ, em Giáo viết còn hay sai, không đúng cỡ chữ,
không ngay hàng, một số chữ hay lẫn lộn trong các tháng đầu năm học. Nhưng
cứ đến tiết tập viết là tôi luôn đến tận nơi khi bắt tay, khi chỉ hàng cho em cùng
với lời khen dù chỉ là tiến bộ nhỏ nhất, tôi theo dõi hàng tháng để xem em đó
tiến bộ như thế nào, quả thật đến nay em Thành, em Vũ, Giáo đã tiến bộ rõ rệt,
chữ viết đã đúng, rõ ràng, thẳng hàng.
2. Giải pháp thứ 2: Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức
chậm, hay quên; học sinh có hoàn cảnh gia đình học tốt hơn.
2.1. Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên.
Với công tác chủ nhiệm công việc của tôi là phải phân loại và nắm được
số lượng dạng học sinh này,sau đó là tôi đưa ra một phương pháp dạy và dạy
một lượng kiến thức phù hợp cho các em.
Trước hết là tôi sắp xếp chỗ ngồi cho các em phù hợp và có tác dụng thúc
đẩy.
Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ
bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói,
được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em
hoạt động nhóm đôi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi
cuối cùng của lớp, cần tạo điều kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy
những ưu điểm của bạn.
Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: Về viết chỉ yêu cầu các em viết
một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể viết nhiều dòng trở lên.
Ví dụ: Tiết Chính tả(nghe- viết): Cây dừa - Tiếng Việt 2 tập II, yêu cầu
chuẩn học sinh nghe- viết 8 dòng thơ đầu, nhưng đối với học sinh chậm chỉ yêu
cầu các em nghe- viết 4 dòng, bên cạnh đó giáo viên phải theo dõi sát các em,
uốn nắn và hướng dẫn cụ thể cho các em.
Về đọc tăng cường gọi các em nhắc lại nhiều lần nếu là vần, đọc nhiều lần
nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ.
Ngoài ra bản thân tôi còn lập kế hoạch về thời gian để kèm cặp, phụ đạo
cho những học sinh này, mỗi tuần tôi sắp xếp thời gian cho phù hợp và phụ đạo
cho học sinh có chất lượng, cụ thể các tiết ôn tập buổi chiều các em học giỏi,
khá tự làm các yêu cầu giáo viên giao và các em ngồi cùng bàn theo dõi lẫn
nhau, khi đó giáo viên phải quan tâm đặc biệt tới những em học chậm theo dõi
sát khi các em đọc, viết, cho các em đọc nhiều hơn, động viên các em mỗi khi
các em đọc tốt. Vào các tiết hoạt động tập thể có thể cho các em này ngồi tại lớp
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
8
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
để hướng dẫn các em viết cho đúng và đẹp cũng như luyện cho các em đọc
nhiều lần.
2.2 Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như mồ côi, cha mẹ bất
hoà, cuộc sống khó khăn.
Trong quá trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết
bài, ngồi ngơ ngác có khi còn ngủ gật, không chú ý cô giảng bài… Đối tượng
học sinh này cần được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn
các học sinh này học tốt giáo viên phải nắm được hoàn cảnh thực tế của các em
từ đó mới có biện pháp cụ thể để dạy các em.
Để giúp tôi có biện pháp dạy và tạo điều kiện tốt cho các em học tập, tôi
bàn với Ban giám hiệu trường chủ động tham mưu với hội phụ huynh học sinh,
các cơ quan đóng trên địa bàn giúp đỡ về vật chất như tặng cho các em sách vở,
quần áo, đồ dùng học tập.
Ví dụ: Trong lớp có em Đới do nhà ở khá xa trường, bố thì hay say xỉn
đánh đập vợ con nên em hay nghỉ học, đến lớp ngồi một mình không tham gia
hoạt động cùng với các bạn, em học yếu, hay quên tập vở. Tôi luôn luôn gần
gũi, động viên em, khi thấy em nghỉ học không lí do cần đến nhà gặp gia đình
của em, giúp em cùng chơi và hoà nhập với các bạn. Đồng thời tôi cho em để
một số sách vở ở lớp để em khỏi quên như tập hát, tự nhiên xã hội, vở bài tập
các loại. Một vài lần kiểm tra, tôi thấy em cũng đã tiến bộ nhiều, em vui hơn
khi tham gia chơi cùng bạn bè và không còn ngồi buồn nữa.
3. Giải pháp thứ 3: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình
không khoán trắng cho nhà trường và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và
gia đình là rất cần thiết.
Từ thực tế cho thấy đa số cha mẹ học sinh đối tượng dân tộc Vân Kiều ở
đây cho con đến trường là xong nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con
mình là phần thầy cô giáo, có những em bị bệnh nhưng cha mẹ không hề biết
vẫn cho con đi học có khi các em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi
các em bị ốm mà phụ huynh cũng không quan tâm tới các em. Với các trường
hợp này đòi hỏi giáo viên cần phải thường xuyên liên lạc với phụ huynh, trao
đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập của các em có tốt là phải có
sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường. Yêu cầu quan tâm tối thiểu
như cha mẹ các em cần kiểm tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở trường
xem con mình đã học những môn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp các
em soạn sách vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc
soạn sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần ở
nhà, chuẩn bị cho bài mới.
Ví dụ: Ở lớp có một số em thường xuyên quên mang tập vở, không học
bài ở nhà, lần họp phụ huynh đầu tiên cha mẹ của các em không đi. Sau nhiều
lần như thế tôi phải liên lạc trực tiếp với phụ huynh, đến tận nhà thông báo tình
hình học tập của các em và nhờ phụ huynh bắt tay với nhà trường, giúp phụ
huynh hiểu được vai trò của gia đình trong việc dạy các em là rất quan trọng,
mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình không thể tách rời nhau. Thời gian sau
cha mẹ các em đó đã quan tâm tới các em hơn và thường xuyên liên lạc với giáo
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
9
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
viên chủ nhiệm, kì họp phụ huynh lần sau cha mẹ các em đi đầy đủ. Sau một
thời gian đến nay các em học sinh đó có tiến bộ rõ rệt.
III. Kết quả thực nghiệm
Với những biện pháp nêu trên, tôi đã rèn học sinh trong suốt gần một học
kì. Qua các tiết dạy, tôi nhận thấy học sinh hứng thú hơn, tích cực hơn và tiến bộ
nhiều hơn... Không khí lớp học dường như có một chất xúc tác vô hình nào đấy
làm cho các em đọc hay hơn, chính xác hơn và dĩ nhiên tiết dạy đạt hiệu quả
cao. Điều đó làm tôi cũng vui lây với niềm vui của các em. Đó là một thực tế mà
tôi đã trải qua.
Sau gần hai học kì giảng dạy nói chung và dạy môn Tiếng Việt nói riêng,
tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt đã được nâng lên.
Kết quả giữa học kì II so với đầu năm ( cuối tháng 2/2016) cụ thể như sau:
Đầu năm
Cuối học kì II
Phân loại học sinh
Tổng số học sinh Tổng số học sinh
36
36
2
10
Học sinh đọc, viết tốt
10
17
Học sinh đọc, viết theo chuẩn
9
3
Học sinh đọc, viết chậm so với chuẩn
15
6
Học sinh chưa đọc/viết được
Ngoài số liệu trên tôi còn nhận thấy rõ kết quả cụ thể của bản thân và học
sinh.
*Bản thân tôi biết vận dụng khéo léo và vận dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp.
*Tìm hiểu rõ được nguyên nhân và hoàn cảnh của các em, tôi chủ động
bàn bạc với Ban giám hiệu nhà trường với các thành viên trong tổ khối tìm giải
pháp hợp lí, sẵn sàng nhiệt tình giúp đỡ các em .
*Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác học và có rất
nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt, các em có bệnh lí đồng thời
các em còn cảm nhận được sự gần gũi, yêu thương của thầy cô, biết hoà đồng
cùng các bạn, biết chia sẻ những vui, buồn, khó khăn với bạn bè, thầy cô. Các
em tự tin trong học tập và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
*Làm nền móng tốt cho các em học lên lớp trên, tạo đà để chất lượng học
tập ngày một tốt hơn.
*Một số phụ huynh nhận thấy rõ vai trò của gia đình trong quá trình giáo
dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các em nhiều hơn, thường
xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu được tầm quan trọng của sự kết hợp
giữa nhà trường và gia đình.
Trên đây là một số kết quả mà tôi đã đạt được. Tôi tin tưởng rằng với
những biện pháp nêu trên thì chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 trong
những năm tới sẽ đạt kết quả tốt hơn.
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
10
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
D. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Chất lượng dạy và học chính là thước đo giá trị của nhà trường, để mục
đích cuối cùng tạo một nguồn nhân lực bao gồm những con người có đức có tài,
ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được chuẩn bị tốt về văn hoá. Để hoàn thành
nhiệm vụ này người đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề, luôn tìm
tòi và có biện pháp phù hợp trong quá trình dạy học, luôn luôn tìm ra giải pháp
hợp lí, vận dụng các phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm
nâng cao chất lượng dạy học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng, tạo tiền đề
tốt cho các em học lên các lớp trên.
Dạy học Tiếng Việt theo quy trình trên là dạy theo quan điểm giao tiếp và
tích cực hóa hoạt động của học sinh. Trong giờ học mọi học sinh đều được tham
gia học tập một cách tích cực. Như vậy, các kĩ năng phục vụ học tập như: nghe,
nói, đọc, viết, tính toán, quan sát, đối chiếu, so sánh, lập luận, trao đổi, chia sẻ,
hợp tác... sẽ dần hình thành. Đó chính là làm nền cho phương pháp tự học sau
này.
Nhờ những biện pháp giảng dạy tích cực trên tôi đã dần hình thành ở học
sinh thói quen ham học và thích học Tiếng Việt.
II. Kiến nghị
Nhà trường cần có các biện pháp:
- Động viên kịp thời sự cố gắng vươn lên của các em, tạo cho các em có niềm tự
hào làm gương cho những em khác noi theo.
- Cần tổ chức thường xuyên các chuyên đề về dạy học Tiếng Việt cho giáo viên
học tập kinh nghiệm.
- Có hình thức khuyến khích động viên kịp thời, có sự đầu tư trong công tác
giảng dạy.
Trên đây là một vài kinh nghiệm đúc rút ra được từ thực tế giảng dạy
Tiếng Việt lớp 2. Tôi hi vọng với kết quả đạt được ở trên sẽ góp phần nhỏ bé
nâng dần chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt của lớp 2 nói riêng và nhà
trường Tiểu học nói chung ngày một tốt hơn.
Đề tài này được hoàn thành đó chính là nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban
giám hiệu nhà trường, các đồng chí giáo viên trong trường và các em học sinh
lớp 2B.
Do điều kiện thời gian và năng lực bản thân còn hạn chế nên đề tài này
còn nhiều điều chưa khai thác hết, không tránh khỏi những khuyết điểm, sai sót.
Kính mong sự góp ý của quý cấp lãnh đạo, các anh chị em đồng nghiệp để đề tài
này được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
11
Một số phương pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Tiếng Việt
Hướng Phùng, ngày 30 tháng 3 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Nguyễn Lệ Trinh
Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 - Nhà xuất bản Giáo Dục.
2. Sách giáo viên Tiếng Việt 2 - Nhà xuất bản Giáo Dục.
3.Các trang web: ; ;
/>Giáo viên: Nguyễn Lệ Trinh
Trường Tiểu học Hướng Phùng
12