Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO dục học XU THẾ PHÁT TRIỂN mới của GIÁO dục NHÂN CÁCH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.55 KB, 12 trang )

XU THẾ PHÁT TRIỂN MỚI CỦA GIÁO DỤC NHÂN CÁCH HIỆN NAY.

Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất để tồn tại con người phải lao động.
Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày con người nhận thức thế giới
xung quanh, dần dần tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao
động và chinh phục thiên nhiên, từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt những hiểu
biết ấy cho nhau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Lúc đầu, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra đơn
giản theo lối quan sát- bắt chước, về sau giáo dục trở thành một hoạt động có
ý thức. Con người dần dần biết xác định mục đích, cố gắng hoàn thiện về nội
dung và tìm ra các phương thức để tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng đặc biệt chỉ có ở xã hội loài người. Giáo
dục xuất hiện, phát triển gắn bó cùng loài người. Ở đâu có con người, ở đó có
giáo dục. Khi nào còn loài người lúc đó còn giáo dục. Bởi giáo dục là một
hình thái ý thức xã hội, là hiện tượng văn minh của xã hội loài người. Về bản
chất, giáo dục là sự truyền đạt và tiếp thu kinh nghiệm lịch sử xã hội của các
thế hệ, về mục đích giáo dục là sự định hướng của thế hệ trước cho sự phát
triển của thế hệ sau.
Ngày nay giáo dục có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống con
người. Giáo dục đã trở thành một hệ thống được tổ chức rộng khắp ở mọi
quốc gia, được tiến hành trên một cơ sở khoa học vững chắc. Giáo dục không
chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người được thể hiện trong chiến lược
phát triển đất nước của các quốc gia. Bởi nó xuất phát từ vị trí vai trò (chức
năng) của giáo dục đó là: Chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- xã
hội và chức năng tư tưởng- văn hoá. Các chức năng trên có mối quan hệ biện
chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo cho giáo dục được nhìn nhận


như là một con đường quan trọng nhất để phát triển xã hội. Giáo dục đã trở
thành quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam chúng ta.


Vì vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, loại đầu tư thông minh
nhất trong mọi loại đầu tư của các quốc gia.
Mặt khác, mục đích của giáo dục là nhằm hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách. Bởi con người vừa là một sản phẩm của tự nhiên đồng thời là
sản phẩm của lịch sử xã hội là một thực thể mang tính chất xã hội, là chủ thể
các hoạt động, là lực lượng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã
hội. Lịch sử đã chứng minh rằng: chính con người là chủ thể của lịch sử, của
mọi giá trị, của mọi nền văn minh, con người cũng sáng tạo ra chính bản thân
mình thông qua sự sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Như
vậy, nhân cách chính là tổ hợp những phẩm chất và năng lực, là đạo đức và tài
năng được kết tinh ở mỗi con người. Nhân cách thường bộc lộ qua thái độ,
hành vi, thói quen, được phản ánh trong những đặc điểm, những thuộc tính
tâm lý cá nhân, được thể hiện trong các mối quan hệ phức hợp của mỗi người
với thế giới xung quanh qua hoạt động và giao tiếp…
Sự hình thành và phát triển của nhân cách được thể hiện, con người khi
mới sinh ra chưa có nhân cách, nhân cách phản ánh bản chất xã hội của mỗi
cá nhân và chỉ được hình thành, phát triển trong hoạt động, giao lưu. Chính
trong quá trình sống, hoạt động, giao tiếp, học tập, vui chơi, giải trí…con
người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Thông qua những
hoạt động xã hội, con người ngay từ nhỏ đã dần dần lĩnh hội những kinh
nghiệm mà nhân loại đã tích luỹ trong các mối quan hệ có liên quan đến hoạt
động của họ. Vì thế, V.I.Lê Nin đã nhận xét: cùng với dòng sữa mẹ, con người
hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên. Chính trong quá trình
hoạt động, nhờ các mối quan hệ với thế giới tự nhiên, với thế giới đồ vật do
các thế hệ trước tạo ra và các quan hệ xã hội mà con người gắn bó bằng các
hoạt động, nhân cách của con người đã hình thành và phát triển.


Thực tế sự phát triển của nhân cách được biểu hiện qua những dấu hiệu
cơ bản sau:

-Sự phát triển về thể chất: sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, sự
phát triển cơ bắp và hoàn thiện các giác quan…
-Sự phát triển về mặt tâm lý: biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong
các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu, nếp sống, thói quen…đặc
biệt là các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách.
-Sự phát triển về mặt xã hội biểu hiện ở tính tích cực, năng động, sáng
tạo trong quá trình tham gia vào các lĩnh vực hoạt động, giao tiếp khác nhau
của đời sống muôn màu muôn vẻ xung quanh.
Như vậy, sự phát triển nhân cách là một quá trình cải biến toàn bộ các
sức mạnh thể chất và tinh thần cả về lượng và chất. Sự hình thành và phát
triển nhân cách đó bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan và những điều kiện
khách quan; các nhân tố sinh học và các nhân tố xã hội. Do vậy nhà giáo dục
trong quá trình giáo dục là phải phát huy những mặt tích cực, hạn chế những
tác động tiêu cực, hướng tới sự hoàn thiện nhân cách cho đối tượng giáo dục.
Sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng và bị chi phối bởi
các yếu tố: bẩm sinh- di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động của mỗi cá
nhân. Trong đó, các yếu tố sinh học là tiền đề, môi trường là điều kiện, giáo
dục giữ vai trò chủ đạo và hoạt động của cá nhân là yếu tố quyết định trực
tiếp đối với sự phát triển nhân cách. Vì vậy với quan điểm “sư phạm tương
tác”, trong quá trình giáo dục, người giáo viên, với tư cách là nhà giáo dục
cần phát huy vai trò chủ đạo của mình trong việc tổ chức, điều khiển hoạt
động giáo dục. Đối tượng giáo dục với tư cách là chủ thể tự giáo dục cần phát
huy tối đa những tư chất, những yếu tố tích cực, phát huy nội lực chủ quan
trong quá trình tự giáo dục và rèn luyện. Quan hệ biện chứng giữa chủ thể và
đối tượng được diễn ra trong mối quan hệ tương tác với môi trường- những


điều kiện khách quan nhằm thực hiện tốt mục đích giáo dục là hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách cho đối tượng giáo dục.
Quá trình giáo dục nhân cách trong các nhà trường được tổ chức gắn

liền và đan xen với các hoạt động dạy học. Với tư cách là một quá trình bộ
phận của quá trình sư phạm trong nhà trường, quá trình giáo dục nhân cách
cho các đối tượng giáo dục mang những nét chung, vận động và phát triển
theo tính quy luật chung của quá trình sư phạm tổng thể. Tuy nhiên, nó còn
vận động và phát triển theo các quy luật riêng của quá trình hình thành đạo
đức, nhân cách của các đối tượng giáo dục. điều đó, đòi hỏi những người làm
công tác giáo dục- đào tạo ở các nhà trường, phải nắm vững và vận dụng đúng
đắn những vấn đề lý luận cơ bản về quá trình giáo dục. Chính vì vậy, quá
trình giáo dục nhân cách ở nhà trường là quá trình định hướng giá trị và giáo
dục các giá trị xã hội chủ nghĩa cho người học. Điều này đã được Đảng ta xác
định: “Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân, có tri
thức, có sức khoẻ và lao động giỏi, sống có văn hoá và tình nghĩa, giàu lòng
yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính” 1. Hoặc: “Những con người và thế
hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo
đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân
tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy tiềm năng của
dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực
của cá nhân, làm chủ tri thức, khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng
tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp có tính tổ chức và
kỷ luật, có sức khoẻ là những người thừa kế xây dựng XHCN vừa “hồng” vừa
“chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”2.

1

Đảng cộng sản Việt Nam cương lĩnh xây dựng đất nước, Nxb Sự thật, H. 1991, Tr.19
Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai; Khoá VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, H.1997, Tr. 28- 29.
2



Hiện nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ có bước tiến
nhảy vọt đi vào chiều sâu, làm cho các khoa học phát triển trong đó có khoa
học xã hội và nhân văn mở ra triển vọng mới cho sự phát triển về nhân cách.
Cùng với đó tình hình chính trị thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức
tạp, đối với nước ta kết quả của quá trình đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi tình
trạng khủng hoảng hinh tế- xã hội, văn hoá xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt
làm cho đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện tạo nên một diện
mạo mới trong xã hội của nước ta tác động đến việc phát triển nhân cách;
trong khi đó các thế lực thù địch quốc tế đã và đang tiếp tục kích động các
vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo trong nước hòng gây mất
ổn định chính trị- xã hội và tạo cớ can thiệp. Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế khi nước ta đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO), mở cửa hội nhập giao lưu văn hoá, khoa học và công nghệ đang đem
lại cả thời cơ và thách thức cho việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và giải quyết những vấn đề xã hội. Những tiêu cực, tệ
nạn xã hội chưa được đẩy lùi, ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường đã tác
động khá sâu sắc đến việc định hướng giá trị, xây dựng nhân cách. Đề cập vấn
đề này Đại hội X chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người
Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn
hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống,
năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” 3. Cũng
như quá trình dạy học, chính bản thân các nhân tố của quá trình giáo dục đã
tạo nên xu thế phát triển của nhân cách, bởi thực tiễn chỉ ra rằng muốn giáo
dục con người phải hiểu sâu sắc về con người, phải có tri thức và phương
pháp khoa học làm việc với con người. Bản thân đối tượng giáo dục có tính
3

. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị

quốc gia, H. 2006, Tr. 106.


năng động, tính chủ thể cao và có sự phát triển về trí tuệ đòi hỏi các lực lượng
giáo dục (nhà giáo dục) phải hiểu biết sâu sắc, phải nhìn thấy các mâu thuẫn
nảy sinh trong quá trình giáo dục thì mới tạo ra các điều kiện và phương tiện
giúp họ giải quyết có hiệu quả. Như vậy, xu thế phát triển mới của giáo dục
nhân cách hiện nay cần tập trung vào các nội dung sau:
1.Giáo dục chính trị- tư tưởng.
Giữ vai trò chủ đạo và có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi giáo dục chính
trị- tư tưởng là nền tảng, cốt lõi của quá trình hình thành bản lĩnh chính trị,
xây dựng thế giới quan khoa học, niềm tin XHCN, nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, đấu tranh chống lại mọi âm mưu, chống phá CNXH của các
thế lực phản động. Nội dung giáo dục chính trị- tư tưởng trong nhà trường
được xác định là:
-Giáo dục, xây dựng cho người học có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
niềm tin vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng. Kiên định lập
trường của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
-Giúp cho người học nắm và hiểu sâu sắc thân thế, sự nghiệp và những
tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam.
- Giáo dục truyền thống yêu nước và bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng
ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá đó.
- Giáo dục cho người học hiểu rõ âm mưu thủ đoạn chống phá của các
thế lực thù địch, nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đập tan mọi âm mưu
thủ đoạn đó.
2. Giáo dục tinh thần trách nhiệm trong lao động và lựa chọn nghề nghiệp.
Lao động là phương thức tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là
điều kiện thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Thông
qua lao động có tác dụng rất to lớn đến việc củng cố và hình thành phẩm chất
nhân cách cho người học. C.Mác viết: “Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên

ngoài, thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng


đồng thời làm thay đổi bản tính của chính mình” 4. Cùng với giáo dục tinh
thần lao động nhà giáo dục cần phải quan tâm giáo dục tinh thần yêu nghề và
lựa chọn nghề nghiệp cho người học, bởi chỉ có xác định tốt nghề nghiệp mà
mình lựa chọn người học mới xây dựng được động cơ phấn đấu đúng đắn và
biến động cơ đó thành nhu cầu phát triển. Nội dung giáo dục gồm:
- Giáo dục các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước về lao động.
- Giáo dục những nội dung cơ bản của xu hướng nghề nghiệp như:
Động cơ nhu cầu, sự hứng thú, niềm tin và tình cảm của người học về nghề
nghiệp mà mình yêu thích.
3. Giáo dục đạo đức.
Đạo đức là một hệ thống những quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Giáo dục
đạo đức có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục nhân cách cho
người học. Nó vừa là nhu cầu tất yếu khách quan vừa là vấn đề có tính lịch
sử. Đạo đức là những nguyên tắc sống để con người tự nguyện tuân theo
nhằm bình ổn trật tự xã hội, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội và của
mỗi cá nhân. Trong chiến lược con người, Đảng và Nhà nước ta đề cao vai trò
của giáo dục đạo đức và nó là thành phần quan trọng của nội dung giáo dục
nhân cách con người Việt Nam. Nội dung giáo dục đạo đức cho người học
gồm:
- Làm cho người học nắm và hiểu được các quy tắc, chuẩn mực đạo
đức dưới chế độ XHCN, biểu hiện của nó là xây dựng một xã hội công bằng,
dân chủ văn minh, hạnh phúc cho mọi nhà và cho mọi người.
- Giáo dục ý trí, lý tưởng và tinh thần khắc phục khó khăn cho người
học.


4

. Các Mác, Tư bản tập 1, phần 1, Nxb Sự thật, H. 1984, Tr. 230.


- Giáo dục thái độ trung thực, tính khiêm tốn, lòng dũng cảm, tinh thần
học tập và tình yêu lao động cho người học. Đồng thời giáo dục tinh thần
đoàn kết, lối sống và nếp sống văn minh cho người học.
4. Giáo dục pháp luật.
Luật pháp là một hệ thống những quy tắc, chuẩn mực của một chế độ
xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá. Luật pháp có vai
trò rất quan trọng vì nó là công cụ của giai cấp cầm quyền trong việc duy trì
sự ổn định và trật tự xã hội, nó bắt buộc mọi công dân và tổ chức xã hội thực
hiện nghiêm chỉnh. Nội dung giáo dục cần tập trung vào: Giáo dục hiến pháp
và những bộ luật cơ bản của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
như: Bộ luật dân sự, bộ luật lao động, luật hôn nhân gia đình, luật đầu tư, luật
nghĩa vụ quân sự, luật thực hành tiết kiệm; luật phòng, chống tham nhũng…
5. Giáo dục thẩm mỹ.
Thẩm mỹ là phạm trù triết học nói về cái đẹp khách quan của các đối
tượng trong tự nhiên, trong cuộc sống xã hội và trong mỗi con người. Giáo
dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của quá trình nhân cách cho người
học, nó nhằm hình thành và phát triển ở họ về ý thức, tình cảm và hành vi
thẩm mỹ đó là những thuộc tính cần thiết của nhân cách. Nội dung giáo dục
tập trung: Giáo dục cho người học những quan điểm thẩm mỹ mác xít, khả
năng nhận biết và phân biệt cái đẹp trong lao động, trong giao tiếp, trong lối
sống; giáo dục cho người học nhu cầu hưởng thụ cái đẹp, thị hiếu thẩm mỹ
lành mạnh. Đồng thời phê phán, khắc phục nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ tầm
thường, thấp kém.
6. Giáo dục thể chất.
Giáo dục thể chất là một trong những bộ phận hợp thành quan trọng

của quá trình giáo dục phát triển nhân cách cho người học. Giáo dục thể chất
hướng vào việc phát triển và hoàn thiện con người về mặt hình thể, về mặt
chức năng, hình thành các kỹ xảo, kỹ năng vận động, phát triển các phẩm chất


về thể lực về sự sáng tạo của tư duy con người. Nội dung giáo dục thể chất
bao gồm:
- Giáo dục vị trí, vai trò, ý nghĩa, mục đích của phát triển thể chất, củng
cố và bảo vệ sức khoẻ.
- Giáo dục cho người học những tri thức về thể thao, về vệ sinh phòng
bệnh trong học tập, trong lao động và trong sinh hoạt
- Giáo dục hoàn thiện các kỹ xảo, kỹ năng trong luyện tập thể thao, xây
dựng nhu cầu thói quen tập luyện thường xuyên và có hệ thống.
Xu thế phát triển mới giáo dục nhân cách không chỉ có các nội dung
trên mà nó còn bao gồm các đối tượng giáo dục được các nhà trường giáo dục
giá trị nhân văn quốc tế để đáp ứng với đòi hỏi của xã hội và của thời đại hiện
nay; đối tượng giáo dục phải được gia đình, xã hội giáo dục và bản thân cá
nhân tự giáo dục. Tự giáo dục là bước tiếp theo nhưng quyết định kết quả của
toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Tự giáo dục, tự tu dưỡng là hoạt động có ý thức,
là giai đoạn phát triển cao của nhân cách. Như vậy, giáo dục là nhân tố chủ
đạo trong quá trình phát triển nhân cách. Một nền giáo dục mạnh, được tổ
chức tốt bằng các hình thức hoạt động và giao lưu phong phú và đa dạng với
những phương pháp khoa học có thể làm cho con người đạt tới sự phát triển
toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Đối với các đơn vị, nhà trường Quân đội trong quá trình đào tạo, bồi
dưỡng nhân cách cho quân nhân ngoài giáo dục các nội dung trên, dự kiến mô
hình nhân cách gồm:
Phẩm chất chính trị- đạo đức: Trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, có tinh thần yêu nước nồng nàn, ý thức dân tộc cao, lòng
căm thù giặc sâu sắc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc,

vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân.
Giác ngộ chính trị cao, quan điểm tư tưởng, lập trường kiên định vững
vàng, chiến đấu không điều hoà chống hệ tư tưởng tư sản, xét lại, giáo điều và


chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc; kiên trì đấu tranh bảo
vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn.
Có ý thức trách nhiệm cao trong công việc, trọng danh dự, nhất quán
trong tính cách.
Dũng cảm, gan dạ trong công tác, chiến đấu, không sợ hy sinh gian
khổ, ác liệt, vượt qua mọi khó khăn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Có lối sống trong sạch, lành mạnh, giàu lòng nhân nghĩa, đức tính vị
tha, trung thực, tận tâm với công việc.
Có ý thức tập thể cao, khiêm tốn, giản dị, tôn trọng nhân cách đồng
đội.
Kỷ luật tự giác nghiêm minh; chấp hành nghiêm pháp luật, điều lệnh,
điều lệ , chế độ quy định và mệnh lệnh của cấp trên.
Có tính độc lập sáng tạo, biết tự chủ, tự kiềm chế, kiên trì bền bỉ, ý chí
quyết tâm cao để đạt mục đích đặt ra.
Có niềm tin vững chắc vào thắng lợi của đơn vị và của cách mạng.
Về năng lực và kiến thức: Phải là người có học vấn; trí tuệ phát triển cao,
hiểu biết toàn diện; nắm vững những vấn đề về khoa học quân sự, đặc biệt là
khoa học nghệ thuật quân sự, CTĐ,CTCT; đồng thời làm chủ và sử dụng
thành thạo, có hiệu quả các loại vũ khí trang bị và phương tiện kỹ thuật quân
sự.
Có năng lực tổ chức chỉ huy giỏi, biết phát huy sức mạnh của tập thể,
biết hướng dẫn, thuyết phục mọi người toàn tâm, toàn ý thực hiện nhiệm vụ
chung.
Có khả năng sử dụng các phương pháp công tác, học tập tối ưu và

thường xuyên đổi mới chúng.
Có khả năng ghi nhớ, tiếp thu nhanh vấn đề, xử lý chính xác các thông
tin về địch, ta, về tình hình mọi mặt của đơn vị.


Có tư duy lô gíc chặt chẽ, nhanh nhạy, mềm dẻo, có tính độc lập, sáng
tạo và phê phán cao.
Giàu trí tưởng tượng, có khả năng dự kiến đúng sự phát triển của tình
hình và có quyết định chính xác, kịp thời trong mọi tình huống.
Có tố chất thể lực: Đó là sự nhanh nhạy, bền vững của các giác quan và hệ
thần kinh trung ương. Tri giác phát triển, có trí nhớ và tư duy tốt. Nhanh nhẹn
và mạnh mẽ về thể lực, bền bỉ dẻo dai, có sức chịu đựng vượt qua khó khăn
gian khổ, căng thẳng về thể xác và tinh thần. Có khả năng làm việc liên tục
kéo dài trong điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt và chiến đấu ác liệt.
Tóm lại, Trong mô hình nhân cách của người quân nhân tương lai,
phẩm chất chính trị, đạo đức giữ vị trí hàng đầu. Nó quyết định bản chất giai
cấp, phương hướng phát triển nhân cách của người quân nhân. Phẩm chất
chính trị- đạo đức là cơ sở đảm bảo cho năng lực, trí tuệ phát triển đồng thời
quy định tính chất, nội dung hoạt động, hướng hoạt động vào thực hiện tốt các
nhiệm vụ được giao. Năng lực trí tuệ được xem như là một điều kiện quan
trọng nhất quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động nhân cách của người
quân nhân. Tố chất thể lực là cơ sở tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân
cách.
Trên đây là toàn bộ nội dung giáo dục nhân cách theo xu thế phát triển
mới. Những nội dung giáo dục nhân cách nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ,
thống nhất, biện chứng với nhau và cùng tồn tại trong quá trình giáo dục- đào
tạo nhằm xây dựng cho người học những phẩm chất, năng lực cần thiết để đáp
ứng với sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN trong tình hình hiện nay. Những người làm công tác giáo dục, những
nhà sư phạm thực hiện có kết quả các nội dung giáo dục trên sẽ góp phần tích

cực vào quá trình phát triển bền vững nguồn lực con người cho thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


Tóm lại, sự phát triển của con người là toàn bộ sự phát triển, hoàn
thiện về thể chất và tinh thần, nó bị chi phối bởi hàng loạt những yếu tố chủ
quan và khách quan. Nhân cách con người là tổ hợp những phẩm chất xã hội.
Sự phát triển nhân cách được thực hiện dưới ảnh hưởng của hệ thống các
quan hệ xã hội mà con người sống hoạt động và giao lưu. Giáo dục với tư
cách là một hoạt động đặc biệt có vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng quyết định
trong sự phát triển nhân cách. Một nhân cách tốt đẹp không thể phát triển
ngoài giáo dục và một nền giáo dục tiên tiến không thể tạo ra những con
người hư hỏng.



×