Trường………………….
Khoa………………
[\[\
ĐỀ ÁN
Việt Nam trong xu thế hội
nhập và phát triển dưới con
mắt triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950), sự
phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên
phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất cả các quốc gia
không phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau.
Đường
biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực
và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các tổ chức lớn như WTO, APEC,
NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu vực đồng tiền chung Euro đã là ví dụ
điển hình trong thiên niên kỉ mới này, cuộc cách mạng công nghệ tiếp tục đi sâu, mở
rộng ứng dụng công nghệ tin họ
c sẽ là động lực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội
nhập kinh tế, toàn cầu hoá.
Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước ta
không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh tế của đất
nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi
nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị
trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế
giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ chức quốc tế đang là vấn đề được
quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ” và “là bạn của
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức
quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập PECC (01/1995), ASEAN
(07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh tế với EU (7/1995), tham gia
APEC (11/1998), và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Việt Nam từng bước vững ch
ắc hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội
lần thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, b
ảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trường”.
Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huyết, rất quan tâm và
đó cũng là lí do, là sự thôi thúc em chọn đề tài: “Việt Nam trong xu thế hội nhập và
phát triển dưới con mắt triết học”.
Và em hi vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về vấn đề
hội
nhập và toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
PHẦN 1
CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý luận triết học
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác
nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và cũng đồng
thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ đó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có
đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn
tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau
theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng
định rằng, mố
i liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện
tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên hệ đều mang tính khách quan, là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến. Bởi
lẽ, bấ
t cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có
sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một
quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt
của đời sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu
hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của
đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và
đang trở thành vấn đề toàn cầu như : đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh
thái, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bình…Ngoài ra, mối liên hệ
được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định Song,
dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhấ
t,
chung nhất.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt
của sự vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không ngừng
theo nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang tính đa dạng. Và
trong mỗi sự vật hiệ
n tượng có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không
phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong
giai đoạn hiện nay
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà
trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn
150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo
ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường,
phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao
động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương th
ức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực
lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng
hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên chưa có
thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức sản xuất TBCN ra đời,
đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời s
ống kinh tế các nước có
sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan toả cảng của các địa
phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính
quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn
là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược
và bạo l
ực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ hàng
hoá. Trong đó, mỗi nước đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân công lao
động và quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu không thoát
khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật,
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng.
Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân
công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống
phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát
triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc
gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản
xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy
của khoa h
ọc, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển
sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao
động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ
giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn
cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là k
ết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã
tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa,
khu vực hoá đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là
một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất
chi phối.
Và trong đó đặc trưng n
ổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới
tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có
quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn
cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các
chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đườ
ng phát triển của mình. Toàn
cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật,
công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều
quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và
hoạt động [ Thẩm Kỳ Như – Trung Quốc không làm bất tiên sinh…Viện TTKH, Học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
viện CTQG HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới chưa từng có. Lịch sử
đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản
xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm
về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt.
Thành tựu có đượ
c như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế
này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những quốc
gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng
vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra
ngoài lề của sự phát triển.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
II. CƠ SỞ THỰC TẾ :
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội
nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế
nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao
độ nội lực, đồ
ng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra
trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó
lường trước được, với những
đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều.
Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng
hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi
theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến
2002 bắt đầu suy giảm; kinh t
ế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập
kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và
nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng
tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn mục; Đông Nam á và Đông á
phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua
đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục; Nam Á và Châu Phi vẫ
n chưa thoát khỏi
tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước
trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho
nhân loại và những hậu quả xã hộ
i hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân
lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản
phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo
ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con
người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệ
u công nghiệp thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng
lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ … mở ra một tiềm năng mới cho loài người
chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải
phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm
phục vụ xã hội.
Xu th
ế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất
cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ
và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản
xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt tới trình độ ngày
càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giớ
i làm nhà máy của mình, lấy các nước
làm phân xưởng của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng ưu thế
kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy quá trình quốc
tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá,
nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức
kinh tế
và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu
(EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)…
Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi
chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn như Trung
Quốc, Nga, ấn Độ
, Mỹ…và cả một số nước vốn khép kín, theo mô hình tự cung tự
cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà
không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm
nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ,
do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế
phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp
đặt điều kiện với
những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây
cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát
triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu
tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của Mỹ để bả
o vệ lợi ích của mình
vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua
cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song vẫn
là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế của mình,
dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo tố
t,
có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói chung
và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ
đang chứng kiến những
đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần
xã hội. Toàn cầu hoá nổi lên như một trong những xu hướng chủ đạo chi phối hệ
thống quan hệ quốc tế hiện đại. Xét trên phương diện sản xuất vật chất xã hội, một
giai đoạn mới củ
a lịch sử nhân loại đang từng bước quá độ từ xẫ hội gắn với nền văn
minh công nghiệp lên nấc thang phát triển cao hơn. Nấc thang phát triển này được
đặc trưng bởi công nghệ và cơ cấu kinh tế mới – kinh tế tri thức, trên cơ sở áp dụng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
rộng rãi các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, các phương tiện truyền tin hiện
đại và máy tính.
Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phổ biến theo hướng
nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động, những
mô hình – cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và cả khoa học, kỹ thuật. Trong đó các
nước đang phát triển tham gia với động lực cơ bản là nhằm mở rộng th
ị trường xuất
khẩu, tạo mối liên kết thương mại giữa các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức
phong phú, hoạt động có hiệu quả. Và cho đến nay, một số các quốc gia đang phát
triển đã đạt được những tiến bộ vượt bậc ví như : ở khu vực Đông Nam á có Thái
Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh sang kinh tế hướng về xuất khẩu và thu
được những thành quả tố
t.
Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thương mại thì chính sách tỷ
giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan
đã làm cho hoạt động thương mại tại các nước mở rộng thị trường và tăng khối lượng
hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế,điều chúng ta thấy rõ là thị trường
vốn có mố
i liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ hội hội nhập
với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với đồng
vốn chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch
thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã làm
cho
đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc ổn
định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn,
một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải thiện mức thâm
hụt ngân sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo ni
ềm tin cho các chương
trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế và mở
cửa.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức
thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to
lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào.
Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại v
ới ưu thế về vốn và công
nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hoá nói chung và
toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do hoá kinh tế và áp đặt chính trị
theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nước, nhất là các nước đang phát
triển, đều phải tìm kiếm các đối sách để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình
diện và đầy nghịch lý.
Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành được độc lập
dân tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế – xã hội của các nước chậm phát
triển và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt
hậu so v
ới trình độ của các nước phát triển. Khoảng cách ấy không những không
được khắc phục, rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới làm hai
nửa khác biệt: vài chục quốc gia tiên tiến đã vượt hơn 100 quốc gia thuộc “thế giới
thứ ba” hàng vài thập niên phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu nhập bình
quân GDP tính theo đầu người.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đ
ó là một thành quả vô cùng quan
trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ vẫn
bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai thác – sử dụng tài
nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công nghệ đến thị trường tiêu thụ cũng
như phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát triển đang phải đối diện tr
ước
thách thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn
nhiều bất hợp lý, trong đó tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập
quốc dân, cộng thêm với trình độ thấp kém về năng suất lao động, cho nên tốc độ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
phát triển kinh tế của đa số các nước đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập
niên 60, các nước đang phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3%
thì đến thập niên 80 là 2% và những năm vừa qua của thập niên 90 tuy tình hình có
được cải thiện, song cũng chỉ đạt mức trên 4% trong khi tỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở
mức trên 2%/năm.
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài c
ũng trở thành gánh nặng đối với các
nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước ngoài
của các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6 tỉ năm 1995 lên
trên 2000 tỉ đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số nợ đã vượt xa so với
tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các nướ
c đang phát
triển không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nước
không có khả năng thanh toán dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi dó tốc độ của các
khoản vay vẫn gia tăng và không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương
mại giữa các nước đang phát triển và phát triể
n. Chỉ tính riêng qua trao đổi không
ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm của
các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua con
đường đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường quốc tư bản không chỉ
thu lợi do bán các thiết bị công nghệ lạc h
ậu và gây ô nhiễm mà còn khống chế nhiều
huyết mạch kinh tế quan trọng của các nước đang phát triển. Còn các nước đang phát
triển, do áp lực bức bách của nhu cầu cải thiện đời sống kinh tế, đã dễ dàng chấp
nhận “chào đón” bất kỳ sự cải tiến kỹ thuật – công nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản
nào. Sự đơn giản dễ dãi này, mặ
c dù trước mắt có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
song rất có thể phải trả giá đắt bởi các hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa
chọn kỹ thuật – công nghệ, cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế – xã hội đang đặt ra
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
những tiêu chuẩn phức tạp hơn để có thể tận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày
mai, không chỉ vì những cái lợi tức thời trước mắt.
Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và
các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì sao?
Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nướ
c này đều có sự tương đồng về
trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và thị
trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công nghệ và tri thức quản lý hiện
đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ và toàn cầu hoá hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật như các
thập niên trước
đây. Điều đó cho thấy, các nước đang phát triển cần thiết phải có cách
tiếp cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ có như vậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác
mới thực sự trở nên hữu ích và thiết thực đối với các nước đang phát triển. Đồng thời,
nó đóng góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các nước đang phát triển nhằm
từng bướ
c khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu cực của toàn cầu hoá cũng như
trong quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhưng đó cũng
là một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển, thôi
thúc họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và k
ết hợp với
chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện tiên quyết –
chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay.
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát tri
ển đất nước
không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế
thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những
luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác
những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên
môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công
cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN
1995, tr74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế k
ỷ trước,
nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào
không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho
một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng
đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với
các nước tư bản chủ nghĩa mặ
c dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách
bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ
VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi x
ướng công cuộc đổi mới nhằm
đưa nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai Nghị
Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh
chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước này, Liên
bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho vi
ệc thực
hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các
Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII
tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải
pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính
sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối v
ới nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế.
Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài
với những quy định khá thông thoáng.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua
Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm,
đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách
đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồ
ng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển”. Hội nghị
Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó
nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng
thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể của n
ước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù
hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn
phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự l
ực tự
cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai
mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời
mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng
một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hộ
i nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội
nghị Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mở
rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định
thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực
hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
4. Nhận
định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con
đường hội nhập kinh tế quốc tế.
4.1. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh
nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ
phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học, kỹ thuật công
nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Tiếp đó hộ
i nhập kinh tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước
ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và
toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước, bởi chúng ta
có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu không hội nhập thì việc sử dụng trong nước sẽ
bị lãng phí, kém hiệu quả. Thông qua h
ội nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua hợp
đồng gia công hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật
cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Mặt khác, mở cửa và
hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã
hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt động c
ủa hệ thống chính trị, về thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong
nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế để tham gia ngày càng nhiều hơn vào phân
công lao động quốc tế và mở rộng quá trình dân chủ hoá xã hội. Với một nền kinh tế
yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hộ
i do toàn cầu hoá mang lại – dù là
toàn cầu hoá đang do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể xây dựng
chủ nghĩa xã hội được. Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói đến
tranh thủ những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách
quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây d
ựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm
phát triển và đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã
nói : “chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa
xã hội dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu
được” ( V.I Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, M, 1977, tr334).
4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hộ
i nhập
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vô cùng
phức tạp. Nó không chỉ đem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà còn có cả
những thách thức và khó khăn mới nảy sinh.
Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế, khoảng
cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên thế giới còn rất
xa. Học thuyết tự do mới về
toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải mở toang cửa nền
kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để tự do hoá thị trường bên trong và bên ngoài,
phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải giảm mạnh vai trò kiểm soát của Nhà nước
theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”. Vì vậy các doanh nghiệp trong
nước phải chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang b
ằng các nước khác. Mà xu
hướng tự do hoá thương mại quốc tế càng phát triển thì cạnh tranh quốc tế ngày càng
khốc liệt. Điểm đặc biệt là ta phải cạnh tranh ngay từ đầu, trên tất cả các mặt trận, với
những thế lực mạnh hơn nhiều về thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khoá XI, Thủ tướng Phan Văn Khả
i cũng nhiều lần nhấn mạnh : “Sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua kém nhiều nước xung
quanh là điều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế” Hội nhập kinh tế quốc tế,
chúng ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư theo chiều sâu để
nền kinh tế đủ sức cạnh tranh trên th
ị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng
trước khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
làm sao vừa bảo đảm cho đổi mới thành công, nền kinh tế phát triển bền vững; vừa
phù hợp với cam kết quốc tế; lại có khả năng khắc phục những tiêu cực, rủi ro do hội
nhập đem lại. Nhìn chung, nế
u không vượt qua được những thách thức này, chúng ta
không thể có chủ nghĩa xã hội trong thực tế. Mặt khác, toàn cầu hoá đang bị chủ
nghĩa tư bản chi phối trên các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ và vốn.
Các nước tư bản đang mưu toan ding những lợi thế này để gây sức ép đối với chúng
ta. Thực tế này đe doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mòn các giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc, đe doạ sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
Hơn bao giờ hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội nhập, cần phân tích tính
hai mặt của toàn cầu hoá để nhận thức được những mặt, những xu hướng, những tác
động, những quy luật vận động của nó. Trên cơ sở đó chủ động tìm ra con đường,
cách thức biện pháp phù hợp trong từng bước hội nhập để tiếp tục con đường phát
triển theo định hướng xã hộ
i chủ nghĩa trong bối cảnh mới.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
5. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước
ta :
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số quan
điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta như
sau :
Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX – trang 120)
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là s
ự nghiệp của toàn dân; trong quá trình
hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế của toàn xã
hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thứ ba, hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh,
vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh
hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối t
ượng, vấn đề, trường
hợp, thời điểm cụ thể; đồng thời vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa
phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợ
p với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp
ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ
những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển
đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để tăng cường
sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình”
với nước ta.
PHẦN 2
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. CÁC BƯỚC ĐI CỦA TA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc
tế như IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ trợ cho ta thông qua Chương trình tín dụng
trung han; Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và chương trình điều
chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn
bó mật thi
ết với những yêu cầu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quan
hệ với các tổ chức này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ
không trái với đường lối chính sách của ta; có năm điều kiện họ đưa ra vi phạm chủ
quyền và lợi ích của ta nên ta không nhận.
Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia
khu vực m
ậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt đầu thực
hiện nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEFT) của AFTA. Cụ thể, khi tham gia vào AFTA, Việt Nam có nghĩa vụ giảm thuế
suất xuống còn 0 – 5 % vào năm 2006 và sau đó tiếp tục giảm thuế xuống 0% vào
năm 2015. Bên cạnh đó Việt Nam phải thực hiện lộ trình loại bỏ các hạn chế về định
l
ượng và hàng rào phi thuế quan khác; xây dựng một danh mục biểu thuế quan chung
ASEAN; xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan theo GATT/WTO và xây dựng hệ
thống luồng xanh hải quan nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại. Ngoài ra chúng
ta còn tham gia đàm phán hiệp định thương mại dịch vụ, tham gia chương trình hợp
tác công nghiệp (AICO) và khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng như các chương trình
hợp tác trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải…của ASEAN.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
Tháng 3/1996 nước ta tham gia diễn đàn hợp tác á - âu (ASEM) với tư cách là
thành viên sáng lập. Nội dung chủ yếu tập trung vào thuân lợi hoá thương mại, đầu tư
và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp á - âu. Cam kết về tự do hoá thương mại đầu tư
chưa được đặt ra.
Ngày 15/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu á - thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998 đã được công nhận là thành viên
chính thức của tổ chức này. APEC quyết
định thực hiện hội nhập đầy đủ vào năm
2010 đối với thành viên là các nước phát triển và vào năm 2020 đối với các nước
đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
Tháng 12/1994, ta gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Mười năm kể từ khi nộp đơn gia nhập tổ chức này, Viêt Nam đã đạt được những
bước tiến nhất định. Và mới đây, chúng ta vừ
a mới kết thúc phiên đàm phán đa
phương thứ 10 tại Geneva (Thuỵ Sĩ). Tại phiên họp này chúng ta đã nhận được sự
ủng hộ rất lớn của các nước thành viên, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam hiện đang
ở ngưỡng cửa chính thức bước vào ngôi nhà chung của đại gia đình 148 thành viên
của Tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này. Theo các chuyên gia nước ngoài để
gia nhập WTO vào cuối năm nay tại Hộ
i nghị các Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông
chúng ta phải cơ bản kết thúc đàm phán song phương và đa phương vào quãng tháng
6 – 7 trong đó có những đối tác rất lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Tuy nhiên,
việc này thực hiện còn gặp nhiều khó khăn bởi vẫn còn nhiều đối tác nước ngoài
muốn gây sức ép cho ta. Thế nên, đến giờ, thời hạn để ta gia nhập WTO vẫn là một
câu hỏi lớn.
II. CÁC KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐẠT ĐƯỢC CỦA NƯỚC TA TRONG TIẾN
TRÌNH HỘI NHẬP
Trước tình hình kinh tế thế giới đang phát triển một cách mạnh mẽ, xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của quan hệ kinh tế thế giới hiện
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
đại. Việt Nam không thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng của xu thế tất yếu này và cũng
không muốn bị tụt lùi hơn nữa. Kết quả là sự thay đổi cơ chế, buộc Việt Nam phải bắt
nhịp với sự phát triển của thế giới. Một hệ thống chính trị đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa nhưng hoạt động kinh tế thị trường v
ới chính sách hợp lí, mềm dẻo, mở
cửa để hội nhập, các hoạt động đối ngoại mở rộng, đa phương, song phương từng
bước tham gia vào các diễn đàn kinh tế lớn, mở rộng quan hệ ngoại giao, từ đó thiết
lập các mối quan hệ hàng hoá thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Nhờ đó mà chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất đị
nh mà trước hết là
chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch,
tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên chính trường và thương trường thế giới.
Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và
hệ thố
ng xã hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời
mở rộng thị trường xuất nhập khẩu.
Trong gần 20 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế
rõ rệt, một nền kinh tế thị trường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã dần được
hình thành và tiến từng bước tăng tr
ưởng và phát triển.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh và toàn
diện, năm sau cao hơn năm trước.
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Tăng GDP 4,8% 6,8% 6,8% 7,0% 7,2% 7,7%
Bảng thể hiện tỉ lệ tăng trưởng kinh tế qua các năm. Như vậy là vào năm 2004,
Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao của khu vực, tăng khá cao với thời gian trước
đó và cũng là mức cao nhất so với 6 năm trước đó. Đặc biệt là so với năm 1990 về
giá trị GDP lớn gấp trên 2,74 lần, về công nghiệp gấp gần 6,5 lần, về xuất khẩ
u gấp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
gần 10,8 lần. Thu nhập bình quân đầu người cũng nhờ thế mà tăng lên đáng kể, nếu
năm……. là 100USD/năm thì đến năm 2004 đã đạt 400USD/người/năm. Kết quả nói
trên có được là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do việc
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại. Trong những năm qua cơ cấu ngành kinh
tế đã chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng của khu vực nông lâm nghiệp – thuỷ s
ản đã
giảm từ 38,74% năm xuống còn 21,76% năm 2004, tức là giảm trên 1,1% /năm.
Trong khi đó tỉ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng đã tăng nhanh từ 22,67%
năm 1990 lên 40,09% năm 2004, tức là tăng gần 1,2%/ năm. Tỉ trọng dịch vụ đạt
đỉnh cao nhất vào năm 1999(44,06%) nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn
38%, năm 2004 đã tăng lên 38,15% - đã có dấu hiệu chặn đượ
c sút giảm tỉ trọng dịch
vụ trong GDP.
Bên cạnh đó, chúng ta từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả
nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó tạo được tư duy làm ăn mới, thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổ
i mới công nghệ, đổi
mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh
tranh và phát triển, và thực tế sức cạnh tranh của họ cũng được nâng lên đáng kể. Một
tư duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm thước đo,
một đội ngũ các doanh nghiệp năng động sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình
thành.
Hơn nữa chúng ta cũng đang từng bước tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng
quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập
kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành quả của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công ngh
ệ
hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới
trong các ngành sản xuất. Cùng với đó thông qua các dự án liên doanh hợp tác với
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD TIỂU LUẬN TRIẾT
nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản
lý sản xuất hiện đại.
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời
sống của đông đảo quần chúng nhân dân, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,
thể dục thể thao, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội cho các vùng sâu, vùng xa,
dân tộc thiểu số
đã được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển
kinh tế. Cụ thể: mỗi năm có hơn 1,2 triệu lao động mới có việc làm. Tỉ lệ hộ nghèo từ
trên 30% giảm xuống còn 10%. Người có công với cách mạng, với đất nước được
quan tâm, chăm sóc. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%.
Tuổi thọ bình quân từ 65,2 tuổi lên 68,3 tuổi.
Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo chúng ta đã đạt được thành tựu to lớn. Nếu thời Pháp thuộc tỉ lệ dân số đi học
mới chỉ đạt 2%, tiểu học là 0,4%, số người học đại học không quá 1000 người, 95%
dân số mù chữ. Thì gần 50 năm sau, năm 1999, chúng ta có 16.508.452 học sinh, số
sinh viên là 401.666 người. Đặc biệt là năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành giáo dục
phổ cập bậc tiể
u học. Có được kết quả trên là do nhiều nguyên nhân. Trong đó một
trong những nguyên nhân có vai trò quyết định đó là việc tăng ngân sách trong lĩnh
vực giáo dục trong cơ cấu chi tiêu của chính phủ. Năm 1997, tỉ lệ ngân sách chi cho
giáo dục chiếm 11,6% tống số chi ngân sách, năm 1998 là 11,86%, năm 1999 là
12,4%. Nhờ thế năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều
công nghệ tiên tiến. Các hoạt động văn hoá thông tin phát triển rộ
ng rãi và nâng cao
chất lượng, góp phần tích cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống. Phong trào thể dục, thể thao rèn
luyện sức khỏe phát triển, thành tích thi đấu thể thao trong nước và quốc tế được
nâng lên.
Việc xây dựng luật pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)
tiếp tục được chăm lo, dân chủ xã hội được mở rộng. Công tác xây dựng, ch
ỉnh đốn
Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. Nhiều Nghị quyết Trung ương