Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học tìm HIỂU một số nội DUNG TRONG TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG sản vế CHẾ độ sở hữu TRONG CHỦ NGHĨA xã hội, ý NGHĨA đối với nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.43 KB, 20 trang )

TÌM HIỂU MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG “TUYÊN NGÔN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN” VỚI CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY

T

ác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn
thảo vào tháng Chạp năm 1847 đến tháng Giêng năm 1848, đã in lần đầu

tiên thành sách riêng ở Luân Đôn vào tháng Hai 1848. Hai ông viết tác phẩm này
với mục đích: “Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình
bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một
Tuyên ngôn của Đảng mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng
sản”1.
1. Khái quát sơ lược lịch sử ra đời và kết cấu tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản
Giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản
xuất tư bản đã trở nên không thể điều hoà được, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản ngày càng trở nên gay gắt. Phong trào vô sản phát triển
mạnh, nhưng đang ở thời kỳ tự phát và thiếu tổ chức chặt chẽ, chưa có lý luận khoa
học dẫn đường. Mặt khác phong trào vô sản lúc này còn chịu ảnh hưởng của các
học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không tưởng. Trong liên đoàn
những người cộng sản lúc này nổ ra cuộc tranh luận gay gắt về chủ nghĩa cộng sản.
Do vậy, đối với phong trào vô sản đòi hỏi cần thiết có một cương lĩnh cách mạng
và khoa học trên lập trường của giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen được tổ
chức Liên đoàn những người cộng sản uỷ nhiệm soạn thảo cương lĩnh dưới hình
thức một bản tuyên ngôn. Hai ông đã tập trung sức lực, trí tuệ để hoàn thành soạn
thảo Tuyên ngôn trong một thời gian ngắn.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 595




“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên
của chủ nghĩa Mác, trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một
cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính
trị-xã hội. Hai ông đã trình bày những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác, thế
giới quan khoa học của giai cấp vô sản nói chung. Đồng thời văn kiện này còn thể
hiện một số nội dung triết học mới, đó là chủ nghĩa duy vật triệt để, phép biện
chứng khoa học và cách mạng, quan niệm biện chứng duy vật về lịch sử, đây là
học thuyết triết học duy vật triệt để bao trùm cả lĩnh vực đời sống kinh tế-xã hội.
Một tác phẩm mà V.I. Lênin đánh giá rất cao: “Tác phẩm này trình bày một cách
hết sức sáng sủa và rỏ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để-chủ
nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội-phép biện chứng với tư
cách là học thuyết toàn diện nhất, sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh
giai cấp và vai trò cách mạng-trong lịch sử toàn thế giới-của giai cấp vô sản, tức
là giai cấp sáng tạo một xã hội mới xã hội cộng sản”2 .
Kết cấu của tác phẩm được trình bày 4 chương, với nội dung rất phong phú và cô
đọng: chương 1) Tư sản và vô sản; chương 2) Những người vô sản và những người
cộng sản; chương 3) Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; chương 4) Thái
độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập. Với nhiều nội dung phong phú
và sâu sắc, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là: trong mỗi thời đại lịch sử,
sản xuất kinh tế sẽ quyết định đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong xã hội có giai cấp
thì đấu tranh giai cấp (giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột) là tất yếu khách quan. Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện được khi biết gắn cuộc đấu tranh
giải phóng giai cấp mình với việc giải phóng toàn thể xã hội khỏi áp bức, bóc lột. Ngoài
ra trong tuyên ngôn đã nêu lên tư tưởng về chuyên chính vô sản, quyền sở hữu, vạch ra

2

V.I. Lênin, Toàn tập, bản tiếng việt, Nxb tiến bộ, Mácxcơva , 1980, T26, tr 57.



những biệt pháp kinh tế mà giai cấp vô sản phải thực hiện sau khi đã nắm chính quyền
trong đó có vấn đề xác lập chế độ sở hữu…
2. Nội dung tìm hiểu tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản về chế độ
sở hữu trong chủ nghĩa xã hội
Do hệ thống nguyên lý và các luận điểm cơ bản bao quát nhiều vấn đề sâu
sắc trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Với khuôn khổ bài thu hoạch này bản
thân tác giả không có tham vọng khai thác rộng, chỉ muốn làm rõ một vài nội dung
của tác phẩm theo khả năng nhận thức của mình: “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản với chế độ sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của nó đối với nước ta
hiện nay”.
1.2. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, với vấn đề xoá bỏ chế độ tư hữu
Chế độ sở hữu là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất, chính vì vậy nó
là một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu cả về lý luận và thực tiễn
của chủ nghĩa xã hội. Về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác-V.I. Lênin coi việc xoá bỏ chế
độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là một đặc trưng cơ bản của
chủ nghĩa xã hội. Nhưng mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng trên
cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, với 2 hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn
dân (thực ra sở hữu nhà nước) và sở hữu tập thể, đã lâm vào khủng hoảng, chế độ
chủ nghĩa xã hội bị thoái trào ở Đông âu và Liên Xô.
ở nước ta, sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, với đường lối đổi mới đúng
đắn, chúng ta đã xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có định hướng xã
hội chủ nghĩa; đây là một nhân tố đặc biệt quan trọng hàng đầu đã thu được nhiều
thành tựu, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng tạo đà phát triển, góp phần thắng lợi
to lớn của quá trình đổi mới trong hơn 20 năm qua. Trong nền kinh tế nhiều thành
phần đó có sự đan xen và kết hợp nhiều chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể và sở hữu tư nhân. Điều đó chứng tỏ rằng việc vận dụng nguyên lý gốc một



cách sáng tạo thì sẽ tồn tại và phát triển, còn nếu áp dụng một cách máy móc giáo
điều chủ quan thì sẽ thất bại. Do vậy, vấn đề chế độ sở hữu trong chủ nghĩa xã hội
cần phải được nhận thức đúng đắn theo tư tưởng của các nhà kinh điểm MácLênin. Đặc biệt là vấn đề có tính nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội: đó là thủ tiêu
chế độ tư hưu, xác lập chế độ công hữu.
Xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu là một nội dung cơ bản trong
các học thuyết xã hội chủ nghĩa trước Mác, đặc biệt là trong chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp với tính cách là một nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. Từ
đó, có người cho rằng các tác giả của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản vẫn là thoát
khỏi tính chất không tưởng trong quan niệm về chế độ sở hữu của chủ nghĩa xã
hội. Lại có ý kiến cho rằng trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ nói đến
việc xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản; do đó cần hiểu chế độ tư hữu trong luận điểm
“tóm tắt lý luận” của những người cộng sản không phải là chế độ tư hữu nói chung
mà chỉ là tư hữu tư sản, đầy đủ rõ ràng. Có như vậy luận điểm “xoá bỏ chế độ tư
hữu” mới không mâu thuẫn với luận điểm khác ngay trước đó: “Đặc trưng của
chủ nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ
chế độ sở hữu tư sản”3. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, việc xoá bỏ tư hữu nhỏ
không phải là vấn đề của chủ nghĩa xã hội, vì chế độ tư hữu nhỏ bị thủ tiêu bởi
chính sở hữu tư sản; “chế độ tư hữu tư sản”, như đã được làm rõ trong tuyên ngôn
“là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu
sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột
người kia”4, do đó “chế độ tư hữu tư sản” là đỉnh cao của chế độ tư hữu. Vì vậy,
khi chủ nghĩa cộng sản thực hiện việc xoá bỏ tư hữu tư sản cũng có nghĩa là chế độ
tư hữu nói chung cũng bị thủ tiêu. “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể

3
4

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 615
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 615



tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư
hữu” 5, nghĩa là xoá bỏ tư hữu nói chung.
Muốn xoá bỏ chế độ tư hữu thì chúng ta cần phải phát triển lực lượng mỗi khi
lực lượng sản xuất đã phát triển lớn mạnh tạo ra của cải ngày càng nhiều cho xã
hội và tư liệu sản xuất thuộc về đại đa số nhân dân lao động thuộc về lực lượng
đông đảo trong xã hội thì chế độ tư hữu tất yếu sẽ bị xoá bỏ. C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Những lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có, không thúc đẩy
quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng đã trở thành quá mạnh đối
với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát triển của
chúng; và mỗi khi những lực lượng sản xuất xã hội khắc phục được sự cản trợ ấy
thì chúng lại xô toàn bộ xã hội tư sản vào tình trạng rối loạn và đe dọa sự sống
còn của sở hữu tư sản”.6
Phải thừa nhận rằng, trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc xoá bỏ
chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu có những khuyết điểm sai lầm mang tính
chất chủ quan duy ý chí. Nhưng lại là sai lầm to lớn nếu xem đó là hệ quả tất yếu
do quan điểm về xoá bỏ chế độ tư hữu của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đem
lại, đó là một điều không thể chấp nhận được. Bởi vì, C.Mác và Ph.ăngghen không
bao giờ dạy những người cộng sản làm như thế. Vậy thực hiện mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở chế độ tư hữu chăng? đó là một ảo tưởng của trào lưu xã
hội chủ nghĩa mà tác giả “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” gọi là “chủ nghĩa xã hội
bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản”; đã áp dụng cho mô hình chủ nghĩa xã hội dân
chủ với nền kinh tế thị trường dựa trên chế độ tư hữu có sự điều tiết của nhà nước,
đã có thời điểm không ít người hâm mộ, rồi ngày nay nó đã bị sụp đỗ cùng với sự
thất bại của mô hình xem là lý tưởng nhất của nó. Vậy phải chăng có thứ chủ nghĩa
xã hội chế độ tư hữu nói chung không có tư hữu tư sản sẽ được duy trì, đó là quan
5
6

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 616

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 604


niệm của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán, vạch
trần tính chất “chủ nghĩa xã hội này vừa là phản động vừa là không tưởng” 7 của
nó.
Quan niệm về xoá bỏ chế độ tư hữu của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
khác với chủ nghĩa xã hội không tưởng. Trong khi luận chứng một cách khoa học
tính tất yếu của sự xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung, C.Mác cho rằng, đó phải là sự
tự phủ định với những tiền đề do sự phát triển của xã hội dựa trên chế độ tư hữu đã
tạo ra. Bởi vì, sở hữu tư nhân do lao động bị tha hoá sinh ra; nhưng đến lượt mình,
sở hữu tư nhân lại là nguyên nhân làm cho lao động bị tha hoá phát triển. Khi sở
hữu tư nhân phát triển đến trình độ nhất định là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì
lao động bị tha hoá lại tạo ra cơ sở tiền đề để tự phủ định bằng cách thủ tiêu sở hữu
tư nhân tư bản. Chính vì vậy, không thể xoá bỏ chế độ tư hữu ở bất kỳ trình độ phát
triển nào của nền sản xuất xã hội theo ý muốn chủ quan của con người, mà để xoá
bỏ được nó thì phải cần có những tiền đề nhất định đó chính là trình độ phát triển
cao của sức sản xuất được các ông gọi là “tiền đề thực tiễn cần thiết”. Do đó,
những người cộng sản chỉ đặt ra cho mình nhiệm vụ xoá bỏ tư hữu bằng cách xoá
bỏ sở hữu tư sản mà thôi, và ngay cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xoá bỏ
tư hữu cũng không thể thực hiện ngay lập tức. Bởi vì “ không thể làm cho lực
lượng sản xuất hiện có tăng ngay lập tức”, mà phải trên cơ sở phát triển lực lượng
sản xuất đạt đến một trình độ nhất định, thì mới xây dựng được một nền kinh tế
dựa trên chế độ công hữu hoàn toàn. Cho nên những biểu hiện chủ quan duy ý chí
về xoá bỏ tư hữu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là điều hoàn toàn xa lạ
với quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong Tuyên ngôn. Do đó đối
với giai cấp vô sản sau khi đã nắm được chính quyền nhưng trong điều kiện nền
kinh tế sở hữu còn là tất yếu khách quan, để đi tới chủ nghĩa xã hội tất yếu phải

7


C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 633


thực hiện các bước trung gian quá độ làm cho chế độ công hữu với nhiều hình thức
khác nhau trở thành nền tảng.
2.2. Sở hữu tư nhân, sở hữu cá nhân, và chế độ công hữu
Theo tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản”, xoá bỏ chế độ tư hữu không có nghĩa là xoá bỏ sở hữu nói chung. Hình
thức sở hữu mà những người cộng sản không chủ trương xoá bỏ là sở hữu cá nhân
của người lao động. Trong thực tế lịch sử chế độ tư hữu ra đời từ sự phát triển của
sở hữu cá nhân. Nhưng sự khác nhau giữa hai loại sở hữu đó thì rất rõ ràng. Sở hữu
cá nhân là “sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân” 8.
Đây là sở hữu làm ra của mỗi cá nhân, chủ nghĩa cộng sản không cần gì xoá bỏ cái
đó, mà chính sự phát triển nền đại công nghiệp đã xoá bỏ nó. Còn chế độ tư hữu lại
là “phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm” dựa trên sự đối kháng giai cấp
giữa thống trị và bị trị các quan hệ xã hội trở thành bất bình đẳng, mà chế độ sở
hữu tư sản là biểu hiện cuối cùng và hoàn thiện nhất.
Trong các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, sở hữu cá nhân của một số ít người
được phát triển bằng cách tước đi sở hữu cá nhân của đa số những người khác. Chủ
nghĩa cộng sản làm cho sở hữu cá nhân không còn có thể biến thành sở hữu tư sản
được nữa. Cái mà người công nhân làm thuê chiếm hữu được (sở hữu cá nhân) bằng
lao động của mình chỉ vừa đủ tái sản xuất ra đời sống mà thôi, cho nên những người
cộng sản không muốn xoá bỏ nó, vì chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoảng gí trị tư
bản nào, điều mà giai cấp vô sản muốn xoá bỏ chính là phương thức chiếm hữu của
nhà tư bản khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản cho giai cấp
tư sản mà thôi.
Tuy nhiên, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen
chưa làm rõ vấn đề sở hữu cá nhân trong chủ nghĩa cộng sản; bởi vì, một vấn đề
8


C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 616


phức tạp như vậy thì cũng như nhiều vấn đề khác của chủ nghĩa cộng sản, các ông
chỉ có thể chờ kinh nghiệm thực tiễn để chứng minh vấn đề đó. Không những thế,
khi mà sở hữu cá nhân tồn tại dưới những hình thức tư hữu khác nhau, nhất là
trong những điều kiện hiện tại của sản xuất tư bản, khi mà “ Những quan hệ sản
xuất hiện tại tự do có nghĩa là tự do buôn bán, tự do mua và bán” 9 thì quan điểm
sở hữu cá nhân là “cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá
nhân” 10 lại được sử dụng để biện hộ cho chế độ tư hữu, một quan điểm tư sản cần
được vạch trần. Các ông chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai
cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước
bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”11 nghĩa là
giai cấp vô sản không xoá bỏ sở hữu cá nhân mà chỉ xoá bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất ở một bộ phận người đi bóc lột đại đa số công nhân lao động.
Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu, chế độ sở
hữu là một kết quả tất yếu của quá trình vận động của lịch sử, nó tồn tại là khách quan
của mỗi cá nhân và ở mỗi thời kỳ phát triển của xã hội, nhưng chủ nghĩa cộng sản chỉ
muốn xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản. Bởi vì, chế độ này là nguồn gốc sản sinh ra tư bản,
ra chế độ bất bình đẳng, người bóc lột người trong xã hội tư bản bằng giá thị thặng dư,
các ông viết: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu
nói chung, mà là xó bỏ chế độ sở hữu tư sản”12
Vấn đề sở hữu cá nhân sau này được C.Mác làm rõ trong bộ “tư bản”. C.Mác
viết “Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là phủ định đầu tiên đối với chế độ tư
hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là
sự phủ định cái phủ định. Sự phụ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu mà
9


C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 618
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 616
11
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 618
12
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 615
10


khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản
chủ nghĩa: trên cơ sở hợp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và
những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra” 13. Như vậy là, chế độ công hữu
xã hội không những không loại trừ sở hữu cá nhân mà còn lại là sự khôi phục cá
nhân của người lao động đã bị chế độ tư hữu phủ định. Sở hữu cá nhân ở đây không
phải là những sản phẩm lao động với tính cách là tư liệu tiêu dùng như quan niệm
lâu nay được phổ biến trên sách báo Mácxít mà phải bao gồm cả sở hữu về tư liệu
sản xuất nhưng không còn mang hình thứ tư nhân mà nó tồn tại trong sự thống nhất
với sở hữu xã hội. Nói cách khác, đó là sở hữu cá nhân được khôi phục trên cơ sở
cao hơn vì không còn bị phủ định một cách tất yếu như trong chế độ tư hữu trước
đây. Trong chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, sở hữu xã hội phải được hiểu là sở
hữu của những cá nhân đã liên hiệp với nhau, “toàn bộ sản xuất đã tập trung trong
tay những cá nhân đã liên hiệp lại với nhau”, sẽ xuất hiện một liên hiệp “trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người” 14
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa như vậy, sẽ ra đời với những hình thức
bước đi như thế nào? với cách tiếp cận chủ nghĩa cộng sản một cách khoa học trên
lập trường duy vật triệt để, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đã chỉ ra rằng: công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, xác lập chế độ công hữu nói riêng, phải
được thực hiện các biện pháp và hình thức phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
“trong nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”. Các

tác giả Tuyên ngôn có vạch ra một số biện pháp mà các ông cho là “có thể được áp
dụng” đối với nhiều nước tiên tiến. Nhưng đó lại là điều mà 20 năm sau các ông
cho rằng: “ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi” 15. Chính
C.Mác và Ph.Ăngghen trong lời tựa viết cho Tuyên ngôn bản tiếng Đức xuất bản
13
14
15

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 23 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 1059-1060
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 4 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 628
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 18 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 128


năm 1872 đã chỉ ra rằng: Mặc dù hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong 25 năm qua,
nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trong Tuyên ngôn
vẫn còn hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, hai ông nói ngay: bất cứ ở đâu và bất cứ
lúc nào việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử
đương thời.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những hình thức kinh tế mà
C.Mác xem đó là những hình thức quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể, khi nghiên cứu các công ty cổ phần và
những nhà máy hợp tác của công nhân trong chủ nghĩa tư bản. Trong công ty cổ
phần tư bản chủ nghĩa thì tư bản trực tiếp mang hình thái “tư bản xã hội” nhưng
đó là tư bản của những cá nhân “trực tiếp liên hiệp lại với nhau” nhưng là các cá
nhân tư sản. Còn trong nhà máy hợp tác của công nhân, dĩ nhiên vẫn lặp lại và
“không thể không lặp lại” tất cả những khuyết điểm của chế độ hiện tại. Nhưng
sự đối kháng giữa tư bản và lao động đã được xoá bỏ trong phạm vi những nhà
máy hợp tác đó; đó là tư bản nhưng là tư bản của “những người lao động liên
hiệp mà thành”.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời và được xây dựng trong điều kiện ở các

nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển. Trong tình hình đó việc xác lập chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa, tất yếu theo cơ sở phương pháp luận mà Tuyên ngôn
đã chỉ dẫn thì đó là quá trình tìm tòi, sáng tạo những hình thức và bước đi thích
hợp. Không những thế, chế độ tư hữu còn tồn tại một cách phổ biến và sự phát
triển tư bản, như V.I. Lênin đã từng nói, còn là không tránh khỏi. Việc tìm ra
những “hình thái quá độ” “những khâu trung gian” để đi tới chế độ công hữu là
hết sức cần thiết không những để “chuyển từ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể” mà để đưa đến sản xuất nhỏ đi lên chủ
nghĩa xã hội.


Đối với một sự nghiệp lớn lao và mới mẻ như vậy, thì những thiếu sót, khuyết
điểm mắc phải trong quá trình tìm tòi, khảo nghiệm là khó tránh khỏi. Nhưng việc
tuyệt đối hoá hình thức công hữu theo mô hình Xô viết và nhất là cách thực hiện
xoá bỏ tư hữu, xác lập chế độ công hữu trong điều kiện lịch sử cụ thể ở nước Nga
thành nguyên tắc, thành tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội thì lại là một sai lầm
của chủ nghĩa chủ quan giáo điều. Nắm vững quan điểm khoa học của “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản” về vấn đề sở hữu không những để tránh tái phạm những
sai lầm đã mắc phải, mà điều quan trọng là để được thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới của chủ nghĩa xã hội từ nền tảng kinh tế của nó.
3.2 ý nghĩa và phương pháp luận của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản với
vấn đề xoá bỏ chế độ tư hữu
Nghiên cứu tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” có ý nghĩa lịch sử lớn
lao, nó đánh dấu mốc son của sự hoàn thành và phát triển chủ nghĩa Mác trên tất cả
các bộ phận cấu thành của nó. Trong tác phẩm này, những cơ sở chủ nghĩa Mác lần
đầu tiên được trình bày một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Tác phẩm “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản” là một văn kiện có tính chất cương lĩnh cả về lý luận và thực
tiễn đầu tiên của Đảng cộng sản. Những luận điểm được C.Mác và Ph.Ăngghen
trình bày trong tác phẩm đã trở thành thế giới quan, phương pháp luận cho giai cấp
vô sản tất cả các nước trên con đường đấu tranh thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của

chủ nghĩa tư bản, tiến tới xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa văn minh tốt đẹp hơn.
Giá trị cơ bản, đích thực của Tuyên ngôn không chỉ ở chỗ nó cung cấp những
lời giải đáp có sẵn cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra mà còn ở chỗ nó
phản ánh xu hướng vận động khách quan của xã hội; chỉ ra những nhiệm vụ lịch sử
cần giải quyết, để từng bước giải phóng các giai cấp lao động và dân tộc bị áp bức,
giải phóng con người và xã hội loài người khỏi mọi hình thức tha hoá.


Chính vì vậy, ngay từ khi tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra đời lập tức giai
cấp tư sản công kích hầu hết các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác, xuyên tạc
nguyên lý xoá bỏ chế độ tư hữu, giải thích tư biện để che dấu tính giai cấp của sở
hữu. Chúng đồng nhất sở hữu tư nhân tư sản với sở hữu của người nông dân, thợ
thủ công và cả với sở hữu cá nhân của người công nhân làm thuê đối với bộ phận
tư liệu tiêu dùng, mà đồng lương của người công nhân mua được để tái sản xuất ra
sức lao động làm thuê trong xã hội tư bản. Giai cấp tư sản cho rằng chủ nghĩa cộng
sản xoá bỏ tự do, xoá bỏ cá tính, thế những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là chỉ
xoá bỏ tư hữu tư bản, “Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu
ấy để nô dịch lao động của người khác” 16, làm cho sở hữu cá nhân không biến
thành sở hữu tư sản, do đó, chỉ xoá bỏ tự do tư sản, xoá bỏ cá tính tư sản mà thôi.
Trong thời đại ngày nay, các thế lực phản động và cơ hội lợi dụng những khó
khăn của phong trào cách mạng thế giới và của chủ nghĩa xã hội để tiến công chủ
nghĩa Mác, phủ nhận tính đúng đắn của các nguyên lý mácxít mà phần lớn được
trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”; những vấn đề có tính nguyên tắc
của chủ nghĩa xã hội trong đó có vấn đề thủ tiên chế độ tư hữu và xác lập chế độ
công hữu.
Một số người cho rằng Tuyên ngôn đã quá nhấn mạnh đến vấn đề sở hữu. Họ
nêu ra luận điểm của một số xã hội dân chủ Bắc âu cho rằng: “Chúng tôi không
cần biết ai nuôi con bò, con bò ấy là của ai mà điều chúng tôi quan tâm là sữa bò
ấy đem đến cho ai”, rồi ca ngợi nó như là một phát hiện mới, đây là luận điểm duy

tâm. Thực ra luận điểm trên không có gì mới, thậm chí nó còn lùi lại với quan điểm
của chủ nghĩa xã hội cổ đại.
Một số người khác cho rằng, nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ, sự khủng hoảng
của các nước xã hội chủ nghĩa là do chế độ công hữu có tính “vô chủ”, triệt tiêu lợi
16

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 18 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 618


ích cá nhân, triệt tiêu động lực phát triển; rằng chế độ công hữu là không hợp quy
luật; do vậy phải “tư nhân hoá” để xác lập những “ông chủ cụ thể” và từ đó xoá bỏ
tình trạng tham nhũng.
Thực tế ở các nước xã hội chủ nghĩa cho thấy không phải chế độ công hữu là
nguyên nhân gây ra các hiện tượng tiêu cực trên. Hiện tượng tham nhũng không
những nảy sinh ra ở các nước xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu; mà là hiện
tượng diễn ra với mức cao hơn, phổ biến hơn ở các nước tư bản phát triển, thực tế
ở các nước tư bản đã có những vụ tham nhũng lên đến hàng tỷ đôla, nguồn gốc
kinh tế của chế độ tham nhũng chính là chế độ tư hữu.
Qua phân tích trên cho thấy các nguyên lý nêu trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản vẫn còn giữ nguyên giá trị hiện thực. Tuyên ngôn là tiêu chuẩn để phân
biệt những người Mácxít chân chính và những kẻ giả danh mácxít. Cho nên trong
chủ nghĩa xã hội, khi vận dụng các nguyên lý của Tuyên ngôn cần có tính sáng tạo
trong điều kiện lịch sử cụ thể, phải không ngừng làm phong phú thêm bằng những
nhận thức mới và tích luỹ nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn để xoá bỏ chế độ tư
hữu. Đối với các chủ thể hoạt động thì việc xác định các hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất, thực hiện những bước đi phù hợp thận trọng để từng bước
xác lập chế độ sở hữu công cộng đó là một vấn đề có tầm chiến lược lâu dài.
3. Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng trong Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản về chế độ sở hữu để phát triển đất nước
ở Việt Nam, ngay từ những năm 1930 “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đã

được các chiến sĩ cộng sản nghiên cứu và phổ biến cho nhau. Từ khi thành lập đến
nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung, với những nguyên lý của Tuyên ngôn nói riêng. Những thắng lợi lịch sử của
cách mạng Việt Nam qua từng giai đoạn chứng minh rằng Đảng ta luôn luôn vận


dụng một cách sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản vào điều kiện cụ thể đất nước.
Vận dụng nguyên lý xoá bỏ chế độ tư hữu của chủ nghĩa Mác, Đảng ta đã đạt
được kết quả cơ bản và to lớn trong công cuộc đổi mới. Vấn đề xoá bỏ chế độ tư
hữu thiết lập chế độ công hữu, Đảng và nhà nước ta đã có cơ sở vững chắc đảm
bảo cho thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết
lập chế độ công hữu, xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Nước ta có cơ sở kinh tế để thực
hiện các mục tiêu chủ nghĩa xã hội vì con người và do con người. Bên cạnh thành
công là cơ bản, Đảng ta cũng có những sai lầm nhất định, muốn xoá bỏ ngay lập
tức chế độ tư hữu, nóng vội lập ngay chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất khi
mà cơ sở vật chất chưa đảm bảo, còn mang tính chủ quan duy ý chí.
Song nhận thức vấn đề chế độ sở hữu ở nước ta là một quá trình liên tục được
bổ sung hoàn chỉnh thông qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc.
Tại đại hội IV (1976), Đảng cộng sản Việt Nam yêu cầu, “Để xây dựng làm
chủ tập thể về kinh tế, phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và cải tạo chế độ
sở hữu cá thể của nông dân và thợ thủ công, xác lập chế độ sở hữu xã hội xã hội
chủ nghĩa dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể bằng những
phương pháp và bước đi thích hợp; phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh ngày càng lớn mạnh; xây dựng nhanh chóng thành phần kinh tế tập thể, tiến
hành hợp tác hoá nông nghiệp và đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa ”. Do ảnh hưởng của tư duy cũ, chúng ta thiết lập hai hình thức sở hữu: sở
hữu toàn dân và tập thể, những hình thức sở hữu ấy đã không phản ánh đúng trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đó là một cách làm thể hiện hình thức và bước
đi không phù hợp quy luật khách quan. Đến đại hội V của Đảng các thành phần kinh

tế ngoài quốc doanh tuy đã có nhận thức mới hơn, song vẫn tiếp tục khẳng định:
“Đối với công nghiệp tư bản tư doanh, phải có chính sách và tổ chức tốt, vừa sử


dụng, vừa cải tạo dưới hình thức công tư hợp doanh hoặc các hình thức khác. Triệt
để xoá bỏ thành phần tư bản trong thương nghiệp. Đối với tiểu công nghiệp, thủ
công nghiệp và các ngành dịch vụ, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành, nghề mà tổ
chức các hình thức-làm ăn tập thể hay để kinh doanh cá thể. Chuyển dần những
người buôn bán nhỏ không cần thiết trong lưu thông sang sản xuất các hoạt động
dịch vụ khác. Như vậy, trong một thời gian nhất định, ở miền Bắc có ba thành phần
kinh tế (quốc doanh, tập thể và cá thể) ở miền Nam còn năm thành phần kinh tế
(quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân” 17.
Kể từ Đại hội VI trở đi, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về sở hữu
nói chung, về chế độ và hình thức sở hữu, về các thành phần kinh tế nói riêng đã có
những thay đổi cơ bản. Có thể nói rằng, đây vừa là kết quả rút ra từ thực tiễn xây
dựng đất nước theo quan niệm cũ về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là kết quả của
sự nhận thức lại quan điểm của C.Mác về quan hệ sản xuất phải “phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất”

18

. Kết luận lý luận quan

trọng, mang ý nghĩa triết học mà Đại hội VI rút ra là “Lực lượng sản xuất bị kìm
hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất phát triển không tiến bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng” 19
Từ chỗ lúc đầu Đại hội VI chỉ thừa nhận nền kinh tế có 5 thành phần đến
chỗ:phát triển một nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp đến
trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác

định: “Phù hợp với phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với đa dạng về hình thức sở hữu”20. Tiếp đến
Đại hội đại biểu lần thứ VIII chủ trương “Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa
17

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr. 67
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, T 13 Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tr 15
19
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1991, tr. 9
20
DCSCN cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nxb sự thật. Hà Nội.
1991. tr 9
18


trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần” và “Thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần” 21 đây là một
bước tiến dài trong lĩnh vực nhận thức và tổng kết thực tiễn những thành tựu của
công cuộc đổi mới, trong đó có việc xử lý một cách khoa học các vấn đề về hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta.
Đặc biệt, Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) đã nêu lên một nhận thức mới
về vấn đề sở hữu: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc” và “Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình
thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp” 22. Việc thừa nhận nhiều
hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế; coi kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở
nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài; khuyến khích phát triển kinh
tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà

pháp luật không cấm; phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước; tạo điều kiện
để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi; chú trọng phát triển các
hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu; điều đó
thể hiện rất rõ ý nghĩa chiến lược, lâu dài và nhất quán của đường lối phát triển
đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam kể từ khi bắt đầu quá trình đổi mới.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần X, nhất quán với các văn kiện của Đảng sau
thời gian đổi mới về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế quốc dân và đi đến kết
luận rằng: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,

21
22
23

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1996, tr. 91
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 87-96
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 329


trong đó kinh tế nhà nước giữa vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”23.
Chính sự thừa nhận trên đây của Đảng ta về vị trí quan trọng lâu dài của kinh
tế tư nhân, kể cả tư bản tư nhân và các thành phần kinh tế khác cùng nhiều hình
thức sở hữu, đã góp phần làm thay đổi quan niệm của một số người cho rằng thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ cần phát triển nền kinh tế tồn tại với
hai hình thức sở hữu. Đồng thời cũng phải nhận thức đúng đắn những lý do thiết
yếu trong quan niệm của Đảng về “vai trò chủ đạo trong nền kinh tế” của kinh tế
nhà nước và sở hữu toàn dân.
Thứ nhất, trong thế giới hiện đại, các nền kinh tế đều có kinh tế nhà nước và
sở hữu toàn dân.
Thứ hai, đối với chúng ta, kinh tế nhà nước và sở hữu toàn dân là cơ sở, là

chỗ dựa quan trọng giúp cho sự tiến hành và chi phối các hoạt động kinh tế vì lợi
ích của toàn dân.
Thứ ba, đây là bộ phận quan trọng để giữ đúng định hướng xã hội xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm sự ổn định của đất nước thông qua các lĩnh vực theo chốt.
Ba lý do trên cũng bác bỏ ý kiến cực đoan cho rằng, cần tư nhân hoá triệt để
toàn bộ nền kinh tế, cần thay đổi toàn bộ quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, trong khi chủ
trương coi kinh tế nhà nước và sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo thì cũng cần
khách quan và tỉnh táo để nhận ra rằng, trong điều kiện chúng ta hiện nay và trong
một thời gian qua còn rất dài, vai trò động lực của sở hữu nói chung và sở hữu tư
nhân nói riêng là vô cùng lớn. Bởi vì, sở hữu có quan hệ rất mật thiết với lợi ích, có
được quyền sở hữu trên thực tế có nghĩa là sẽ có được lợi ích và mọi người sẽ cố
gắng phấn đấu vươn lên vì lợi ích đó. Vai trò động lực của sở hữu bộc lộ rõ hơn
trong mối quan hệ này.
2


Chúng ta chủ trương kinh tế nhà nước là chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế
hợp tác xã trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân nhưng không nên coi chỉ có
những hình thức này mới là kinh tế xã hội chủ nghĩa, còn các hình thức khác là phi
xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, nếu chúng ta lấy tiêu chí định hướng xã hội chủ nghĩa là
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, về lực lượng sản xuất
phải khai thác mọi nguồn lực, trong đó nội lực là quyết định, bảo đảm sự phát triển
bền vững; quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, được tự do cạnh
tranh lành mạnh, về mặt xã hội phải bảo đảm thực hiện dân chủ và công bằng, đời
sống mọi thành viên được nâng lên, mọi người được làm giàu chính đáng, thì tất cả
các thành phần kinh tế đều là bộ phận trong một chỉnh thể thống nhất của nền kinh
tế quốc dân định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, không nên phân biệt, đối xử
mang tính kỳ thị đối với kinh tế tư nhân và sở hữu tư nhân, cần phải tôn trọng nó.
Bởi vì, chính sở hữu tư nhân chứa trong đó động lực cá nhân mạnh mẽ, có tác

dụng kích thích to lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của con người trong
thời kỳ quá độ chuyển tiếp lên một xã hội công hữu về tư liệu sản xuất. Bên cạnh
đó, cũng cần thừa nhận một sự thật là, động lực cá nhân dựa trên cơ sở sở hữu cá
nhân, và lợi ích cá nhân là tính bản năng của con người sẽ còn tồn tại lâu dài. Nếu
biết sự dụng đúng lý luận ấy cho thật tốt thì có lợi cho công cuộc đổi mới đất
nước, phát triển kinh tế. Do đó, cần phải khẳng định rằng, trong điều kiện nước ta
hiện nay, thừa nhận sở hữu tư nhân, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân hoàn
toàn không mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn sự vận động và
phát triển của đất nước đã chứng tỏ sự đúng đắn trong quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về sở hữu và các thành phần kinh tế. Tính chất đúng đắn đó không
phải đạt được ngay một lúc. Quan điểm về vấn đề này là kết quả của một quá
trình nhận thức, được thực nghiệm trong công cuộc đổi mới đất nước tiếp tục
hoàn thiện. Một khi đã nhận thức được vai trò, động lực sở hữu thì thực thi nó


trong thực tế sẽ có tác động rất lớn đến mọi hoạt động kinh tế của đất nước nói
riêng và toàn bộ đời sống xã hội nói chung.
Như vậy, đối với nước ta, quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nền
sản xuất nhỏ còn là phổ biến, chế độ tư hữu vẫn còn có vai trò tích cực cho sự phát
triển của sản xuất, thì việc xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu cần phải
dần dần từng bước và đang lâu dài. Cùng với điều đó, tất yếu còn tồn tại khá lâu
các hình thức sở hữu khác về tư liệu sản xuất. Vì thế việc phát triển đa dạng các
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất khác nhau trong giai đoạn này chính là quá
trình tự giác xác lập xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng, đó là một bước đi hoàn toàn đúng với quy luật và không trái với tư
tưởng của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Đảng ta đã xác định đúng mô hình
kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên sự đa dạng các hình
thức sở hữu (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản, sở hữu
hỗn hợp) trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã
phát triển dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân là mô hình có tích chất

hiện thực, phù hợp với thực tiễn đất nước, có tác dụng động viên sức người, sức
của toàn thể nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước để đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Với mô hình này chúng ta vừa khuyến khích sở hữu tư nhân phát triển trong
các ngành nghề vào các lĩnh vực mà pháp luật cho phép, vừa từng bước phát triển
quan hệ sản xuất mới từ thấp đến cao với bước đi thích hợp, phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất. Do đó, chế độ công hữu với sự đa dạng của nó sẽ dần xác
lập được sự thống trị của mình.
ở nước ta xoá bỏ chế độ tư hữu thiết lập chế độ công hữu là quá trình lâu dài,
cần có những hình thức kinh tế quá độ và những bước đi thích hợp. Quá trình đó phụ
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng như điều kiện xã hội-lịch


sử khác quy định. Trong văn kiện đại hội Đảng IX: “Chế độ sở hữu công cộng
(công hữu) về tư liệu sản xuất từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối
khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá
trình phát triển kinh tế-xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến
cao”24. Chính vì vậy, mà Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn hợp quy luật. Thừa nhận tư hữu để xoá bỏ tư
hữu, đó chính là con đường bện chứng, hình thức bước quá độ để hiện thực hoá tư
tưởng về chế độ sở hữu trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” phù hợp với quy
luật vận động của xã hội xét cả về mặt lôgic và lịch sử.

24

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 87




×