Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

tìm hiểu một số mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu trên thế giới từ năm 1917 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.45 KB, 63 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM











ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI TIÊU BIỂU TRÊN
THẾ GIỚI TỪ NĂM 1917 ĐẾN NAY




Chủ nhiệm đề tài:
ThS. NGUYỄN BẢO KIM









Long Xuyên, tháng 10 năm 2010





TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM











ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI TIÊU BIỂU TRÊN
THẾ GIỚI TỪ NĂM 1917 ĐẾN NAY





BAN GIÁM HIỆU LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI









Long Xuyên, tháng 10 năm 2010





PHẦN TÓM TẮT
Trên cơ sở phê phán chủ nghĩa tư bản một cách khoa học, C. Mác đã chỉ ra mô hình
mục tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa và điều kiện tiên quyết để thực hiện nó.
V.I. Lênin là người đầu tiên lãnh sứ mạng hiện thực hóa lý tưởng của C. Mác. Song,
trong điều kiện đặc thù của nước Nga, V.I. Lênin đã sớm nhận ra là không thể trực tiếp
đi lên chủ nghĩa xã hội được. Vì vậy, ngay từ năm 1921, NEP đã được đưa ra và V.I.
Lênin đã hết sức tập trung suy nghĩ, tìm tòi bước đi sao cho thích hợp với đặc thù nước
Nga. Nhưng đáng tiếc là Ông đã không đủ thời gian.
Trong bối cảnh đặc biệt của Liên Xô giữa những năm 20 của thế kỷ XX, J.V. Xtalin
đã dựng lên và thực thi ở Liên Xô một mô hình chủ nghĩa xã hội “trực tiếp” và duy ý
chí. Nét đặc thù của nó là tập trung quyền lực vô hạn vào tay nhà nước. Do thực hiện
kéo dài mô hình Xtalin đã biến nó trở thành sợi dây trói buộc sự nghiệp phát triển lý
luận và thực thi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô cũng như các

nước xã hội chủ nghĩa khác.
Sớm nhận ra những bất cập trong mô hình Liên Xô, từ năm 1948, G.B. Tito ở Nam
Tư đã tìm đến mô hình phân tán quyền lực của nhà nước trung ương, chuyển quyền sở
hữu tư liệu sản xuất xuống với người trực tiếp sản xuất. Mô hình tự quản xã hội chủ
nghĩa ra đời như là một thái cực khác của mô hình Liên Xô.
Do có nhiều hạn chế, cả hai mô hình đã lâm vào bất cập. Hệ quả là, chúng đã bị phủ
định sạch trơn, kéo theo sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở chính ngay “quê
hương” của chúng. Phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới bị giáng một đòn nặng nề, lâm
vào tình trạng thoái trào.
Bất chấp thực tế nghiệt ngã đó, Một trào lưu chủ nghĩa xã hội cải cách, đổi mới mà
Trung Quốc là nước đi tiên phong đã xuất hiện. Khác với hai mô hình trên, mô hình
Trung Quốc hướng trọng tâm vào phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Tính đúng đắn,
phù hợp thực tiễn của mô hình Trung Quốc đã đưa đất nước phát triển ngoạn mục trong
hơn 30 năm qua. Trung Quốc đã trở thành một hiện tượng nổi bật của thế giới. Mô hình
Trung Quốc đang chỉ cho nhân loại thấy rằng, chủ nghĩa xã hội chưa phải đã là quá khứ
mà đang là tương lai của nhân loại.
Ở Việt Nam, qua 10 năm (1976 – 1986) cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô
hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội trầm trọng. Trước thực trạng đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã
tích cực tìm tòi con đường đổi mới. Sau những năm tháng tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh
tư tưởng tổng kết thực tiễn, đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, trên cơ sở đó lãnh đạo nhân
dân tiến hành công cuộc đổi mới. Đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan
trọng.







1

MỤC LỤC
Trang
PHẦN TÓM TẮT ……………………………………………………………………...1
MỤC LỤC………………………………………………………………………………2
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………...3
NỘI DUNG……………………………………………………………………………...6
Chương 1
SỰ NHẬN THỨC, TÌM TÒI MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
CỦA CÁC NHÀ MÁC XÍT KINH ĐIỄN……………………………………………..6
1.1. Sự nhận thức của C. Mác – Ph. Ăngghen về mô hình, mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội…………………………………………………………….6
1.2. Sự tìm tòi và nhận thức của V.I. Lênin về mô hình chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở nước Nga trong những năm (1917 – 1924)………...........................7
Chương 2
TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TIÊU BIỂU TRÊN THẾ GIỚI……………………………………………………….14
2.1. Tìm hiểu mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô (1925 – 1991)…………………..14
2.2. Tìm hiểu mô hình chủ nghĩa xã hội Nam Tư (1848 – 2006)…………………..22
2.3. Tìm hiểu quá trình hoàn thiện lý luận (1941 – 1992) và thành tựu,
triển vọng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc (1978 – 2010)……...30
Chương 3
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM….43
3.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và sự tìm tòi đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam (1979 – 1986)……………………………………...43
3.2. Giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước (1986 – 2010)………………………….45
3.3. Những thành tựu chủ yếu đạt được qua 25 năm đổi mới (1986 – 2010)………51
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………58
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………….60









2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô được thiết lập cho đến năm 1991, đa số
những người Mác xít trên thế giới đều xem mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô là có tính phổ biến và mang tính quy luật. Vì thế khi Nam Tư tìm kiếm một mô hình
con đường đi riêng, thì các nhà Mác xít xem Nam Tư không phải là nước xã hội chủ
nghĩa. Sau khi Liên Xô sụp đổ, họ lại cho rằng mô hình đó chứa quá nhiều khuyết tật,
thiếu dân chủ, chưa hợp quy luật v.v… và dần dần người ta mới nhận ra rằng các quan
niệm như trên là quá thiển cận và giáo điều.
Lịch sử chủ nghĩa xã hội hiện thực một thời tưởng như đã được nhận thức, giờ đây
lại trở nên khó nắm bắt, rất nhiều tiêu chí nhận thức trước đây bị đảo lộn. Sự nhận thức
lại đang trong quá trình tạo lập, tư duy cũ, mới còn chưa phân minh. Để đạt đến sự phân
minh về nhận thức, việc triển khai nghiên cứu sâu rộng về lịch sử chủ nghĩa xã hội đặt
ra vô cùng cấp thiết.
Việt Nam là một trong số ít nước đang kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội, đang đổi
mới để lột bỏ những cái cũ không phù hợp, xây dựng chủ nghĩa xã hội mới thực chất
hơn và hiệu quả hơn. Vì thế, việc đi sâu nghiên cứu, nhận thức lại những đúng sai trong
quá khứ xây dựng chủ nghĩa xã hội chắc chắn là những cơ sở quan trọng cho sự phát
triển lí luận về chủ nghĩa xã hội và giúp Đảng ta chỉ đạo đúng đắn công cuộc đổi mới
thành công.

Lịch sử chủ nghĩa xã hội hiện thực từ 1917 đến nay là một mảng kiến thức rất quan
trọng trong chương trình lịch sử thế giới hiện đại, nhưng chưa được biên soạn đầy đủ
trong các sách giáo khoa, giáo trình và các sách chuyên khảo. Việc tìm hiểu sâu về lịch
sử chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ góp phần bổ sung phần nào khiếm khuyết nêu trên. Từ
đó đề tài sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập của
giáo viên, sinh viên cũng như tất cả những ai quan tâm về vấn đề này.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn “ Tìm hiểu một số mô hình chủ
nghĩa xã hội tiêu biểu trên thế giới từ năm 1917 đến nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn của các
Đảng Cộng sản lớn trên thế giới cùng với các lãnh tụ như V.I. Lênin, J.V. Xtalin (Liên
Xô), G.B. Tito (Nam Tư), Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình (Trung Quốc). Tùy theo
thời cuộc, đặc điểm đất nước và tùy thuộc vào nhận thức, mà mỗi Đảng – Lãnh tụ đã đề
xướng và chỉ đạo thực thi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo những mô hình
khác nhau. Từ thực tiễn ấy đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều học giả trên
thế giới, kể cả các học giả tư sản. Chính vì thế, sách báo viết về chủ nghĩa xã hội hiện
thực rất phong phú, đa dạng. Đặc biệt cuối thế kỉ XX, trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội
hiện thực lâm vào khủng hoảng, sụp đổ một mảng lớn thì công tác nghiên cứu về chủ
nghĩa xã hội trong và ngoài nước được đẩy mạnh, từ đó xuất hiện ngày càng nhiều công
trình nghiên cứu. Có thể dẫn ra đây một số công trình có liên quan đến đề tài ở những
mức độ khác nhau mà chúng tôi đã có điều kiện tiếp xúc:
Ở nước ngoài:
Năm 2003, các học giả Mác xít Trung Quốc đã cho ra mắt nhiều công trình tham
khảo quy mô liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu, trong đó nổi bật nhất là bộ sách
tham khảo “Lịch sử chủ nghĩa Mác” gồm 4 tập do Trang Phúc Linh làm chủ biên đã
3

được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành. Công trình “Hai chủ nghĩa một trăm
năm” của Tiêu Phong cũng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2004. Các
công trình này đã bàn nhiều về các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trên phương diện

lí luận và cả về thực tiễn, trong đó mô hình Nam Tư và Mô hình Liên Xô được tìm hiểu
khá sâu.
Ở trong nước:
Năm 2000, tác giả Vũ Quang Vinh có công trình “Một số vấn đề cải cách mở cửa
của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam” do nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành. Tác giả
đã khái quát về đường lối cải cách mở cửa của Trung Quốc giai đoạn đầu 1978 – 1986.
Sự phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc giai đoạn
1986 – 1994 và ảnh hưởng của nó đến chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam. Tuy
nhiên những đặc trưng chủ yếu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc và thành
tựu của nó chưa được tác giả thể hiện rõ.
Năm 2006, cuốn sách “Việt Nam 20 năm đổi mới”, do nhà xuất bản Chính trị quốc
gia xuất bản, đây là công trình tập hợp nhiều bài viết của các giáo sư tiến sĩ, các chuyên
gia đầu ngành, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong các ngành, lĩnh vực cụ thể.
Những bài viết trong tác phẩm là sự tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20
năm đổi mới ở Việt Nam.
Đặc biệt năm 2008, nhà xuất bản Khoa học xã hội đã xuất bản công trình của
Nguyễn Huy Quý, nhà nghiên cứu Trung Quốc học thuộc Viện nghiên cứu Trung Quốc.
Đây là tác phẩm tập hợp những bài viết chọn lọc của tác giả được đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc và Tạp chí Cộng sản từ năm 1993 đến năm 2008. Tác phẩm đề
cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong quá trình cải cách, phát triển của Trung Quốc về
các mặt kinh tế, chính trị, quan hệ đối ngoại v.v…
Chắt lọc từ nguồn tài liệu trên và nhiều tài liệu khác sưu tầm được, chúng tôi cố
gắng hệ thống lại và đi sâu tìm hiểu ba mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu là mô hình
Liên Xô và mô hình Nam Tư do J.V. Xtalin và G.B. Tito tạo lập, mô hình Trung Quốc
do Đặng Tiểu Bình tạo dựng và công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
3. Mục tiêu của đề tài
Đề tài đi sâu tìm hiểu bối cảnh, sự ra đời, các đặc trưng cơ bản và kết cục, khuynh
hướng của các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực tiêu biểu trên thế giới đó là mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và mô hình chủ nghĩa xã hội ở Nam Tư do J.V. Xtalin và

G.B. Tito tạo lập, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình tạo dựng
và công cuộc tìm tòi, đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu ba mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu trên thế giới từ
năm 1917 đến nay, đó là mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, mô hình chủ nghĩa xã hội
ở Nam Tư do Xtalin và Tito tạo lập; mô hình chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc do Đặng
Tiểu Bình tạo dựng và công cuộc tìm tòi, đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Trong khuôn khổ một đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, chúng tôi chỉ dừng
lại ở việc trình bày bối cảnh, sự xuất hiện, các đặc trưng cơ bản, thành tựu chủ yếu của
mỗi một mô hình, từ đó cố gắng nêu ra một vài nhận xét bước đầu về vấn đề nghiên
cứu.

4

5. Nội dung nghiên cứu
Đề tài trình bày: Sự nhận thức mô hình, mục tiêu và sự tìm tòi con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội của các nhà Mác xít kinh điển; Bối cảnh lịch sử, sự xác lập, những đặc
trưng cơ bản và những sai lầm dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã
hội Liên Xô và Nam Tư; Quá trình hoàn thiện lí luận và thành tựu, triển vọng của mô
hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc; Công cuộc tìm tòi, đổi mới xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài là một vấn đề thuộc chuyên ngành lịch sử, vì vậy chúng tôi tuân thủ
phương pháp nghiên cứu của bộ môn đó là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
trên cơ sở phương pháp luận sử học của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Phương pháp lịch sử xem xét, nghiên cứu các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực
tiêu biểu trên thế giới từ năm 1917 đến nay trong tính đầy đủ, hiện thực, cố gắng dựng
lại bức tranh toàn cảnh về các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực như đã từng diễn ra
với những nét cơ bản nhất. Phương pháp lôgic nhằm làm rõ cái cốt lõi, bản chất, khuynh
hướng của các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực.

Ngoài ra, để có thể lí giải sâu sắc các vấn đề xung quanh các mô hình chủ nghĩa
xã hội hiện thực, chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu
giữa các mô hình để có cái nhìn toàn diện hơn.



















5

NỘI DUNG
Chương 1
SỰ NHẬN THỨC, TÌM TÒI MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA CÁC
NHÀ MÁC XÍT KINH ĐIỄN
1.1. Sự nhận thức của C. Mác – Ph. Ăngghen về mô hình, mục tiêu chủ nghĩa
xã hội

Với việc ấn hành “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” vào năm 1848, chủ nghĩa xã hội
khoa học Mác xít chính thức ra đời thay thế cho các ý tưởng, lí luận chủ nghĩa xã hội
không tưởng trước đó. Sở dĩ gọi lý luận của C. Mác về chủ nghĩa xã hội là “khoa học”
là vì nó không dựa vào nguyện vọng chủ quan và tưởng tượng, mà là được xây dựng
trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, trên cơ sở
nhận thức được sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và luận giải một cách khoa học
rằng, thắng lợi của giai cấp vô sản và thất bại của giai cấp tư sản là tất yếu như nhau,
rằng chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, đồng thời vạch rõ con đường
đúng đắn và khả thi để thực hiện chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học Mác xít
ra đời là kết quả tất yếu của sự phê phán một cách khoa học chủ nghĩa tư bản trong thời
kỳ công nghiệp hóa cao độ của nó.
Ở thời C. Mác – Ph. Ăngghen, cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa đặt ra một cách
trực tiếp, nhưng từ sự phê phán một cách khoa học chủ nghĩa tư bản, hai ông đã nhận ra
rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nổ ra và thắng lợi trước hết ở một loạt các nước tư
bản phát triển nhất: rằng chuyên chính vô sản là hình thái chính quyền tất yếu trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bằng sự mẫn cảm chính trị của mình, hai ông sớm nhận
ra rằng, để đạt đến chủ nghĩa cộng sản hoàn thiện, nhân loại tất yếu phải trải qua giai
đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Chủ nghĩa xã hội là chế độ thay thế chủ nghĩa tư
bản, là một chế độ xã hội mà đặc điểm là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không có
tình trạng người bóc lột người, có nền sản xuất xã hội kế hoạch hóa trong toàn xã hội; là
giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa” (A.M. Rumiantxep,
1986: 400). Tuy không thể chỉ ra cách thức biến đổi cụ thể của chủ nghĩa xã hội trong
quá trình vận động của nó, nhưng hai ông đã chỉ ra các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa
xã hội khi nó phát triển đầy đủ, bao gồm:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội tương lai là xã hội phát triển cao hơn hẳn chủ nghĩa tư
bản về mọi mặt mà trước hết là về lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội được hình
thành trên cơ sở nền kinh tế công nghiệp hóa cao độ và phát triển cân đối, bền vững.
Thứ hai, trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã hoàn thiện, thì chế độ tư hữu sẽ được xóa
bỏ hoàn toàn, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ được thiết lập và giai cấp
và sự khác biệt giai cấp sẽ dần dần bị xóa bỏ. Trong bài viết “Quốc hữu hóa ruộng đất”

(1872) C. Mác viết rằng: “ Quốc hữu hóa ruộng đất sẽ làm thay đổi hoàn toàn quan hệ
giữa lao động và tư bản, và rút cục lại, sẽ thủ tiêu hoàn toàn phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong công nghiệp cũng như trong nông nghiệp. Lúc đó sẽ không còn sự
phân biệt giai cấp, đặc quyền cùng với cơ sở kinh tế làm chỗ dựa cho các giai cấp ấy.
Sống dựa vào lao động của kẻ khác sẽ trở thành dĩ vãng. Mà chính phủ hoặc nhà nước
đối lập với bản thân xã hội cũng sẽ không còn nữa.
Sự tập trung toàn quốc những tư liệu sản xuất sẽ trở thành cơ sở toàn quốc của một
xã hội gồm những tổ chức liên hiệp của những người sản xuất bình đẳng và tự do, tiến
hành lao động theo một kế hoạch chung và hợp lý. Đó là cái mục tiêu nhân đạo mà sự
6

vận động kinh tế vĩ đại của thế kỷ XIX đang dẫn đến (C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin,
1986: 105).
Cùng quan điểm đó, ngay từ năm 1847, trả lời câu hỏi: “Xóa bỏ triệt để chế độ tư
hữu thì sẽ đưa lại những kết quả gì?”, Ph. Ăngghen đã viết rằng, kết quả là xóa bỏ đối
kháng giai cấp, xóa bỏ sự đối lập giữa nông thôn và thành thị (C. Mác, Ph. Ănghen, V.I.
Lênin, 1986: 96 – 100). Đến năm 1891, trong “Lời nói đầu” cho tác phẩm “Lao động
làm thuê và tư bản”, Ph. Ăngghen cho rằng: “Có thể có một chế độ xã hội mới trong đó
sẽ không còn sự phân biệt giai cấp như hiện nay nữa, và trong đó – chắc chắn là sau một
thời kỳ quá độ ngắn, gắn với một số thiếu thốn nào đó, nhưng dù sao cũng rất có ích về
mặt đạo đức – những phương tiện để sinh sống, để hưởng thụ những niềm vui của cuộc
đời, để có được học vấn và để biểu hiện tất cả mọi năng lực thể chất và tinh thần của
mình, sẽ được giao cho tất cả mọi thành viên trong xã hội sử dụng ngày càng đầy đủ,
nhờ sử dụng có kế hoạch và phát triển hơn nữa những lực lượng sản xuất to lớn đã có
sẳn, bằng chế độ lao động bắt buộc như nhau đối với mọi người” (C. Mác, Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin, 1986: 105 - 106).
Thứ ba, trong xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện, sự sản xuất và phân phối được
điều tiết hợp lý bằng kế hoạch của nhà nước. Nhà nước thay mặt toàn thể xã hội nắm
mọi tư liệu sản xuất chủ yếu và qua đó đưa ra kế hoạch sản xuất mang tính đồng bộ bảo
đảm sự phát triển hài hòa, tránh tình trạng sản xuất vô chính phủ và phân phối bất công

như trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ tư, trong xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện, sẽ không còn quan hệ hàng hóa –
tiền tệ. Lúc đó lao động của cá nhân trực tiếp trở thành một bộ phận của toàn bộ xã hội,
vì vậy nguyên tắc “ Phân phối theo lao động” sẽ được thực hiện một cách trực tiếp,
thông qua “một giấy chứng nhận nào đó” (giấy xác nhận mức độ đóng góp lao động cá
nhân), chứ không thông qua hình thức quanh co của tiền tệ nữa. Trong “Phê phán cương
lĩnh Gôta” (1875), C. Mác viết rằng khi chủ nghĩa xã hội được thiết lập thì tư liệu sản
xuất không còn là của riêng của cá nhân nữa, mà là thuộc về của toàn xã hội. Mỗi thành
viên trong xã hội khi đã hoàn thành một phần nào đó của lao động xã hội – tất yếu, thì
được xã hội cấp cho một giấy chứng nhận số lượng lao động mình đã làm. Với giấy
chứng nhận ấy, người đó sẽ được lĩnh trong các kho công cộng chứa vật phẩm tiêu
dùng, một số lượng sản phẩm thích ứng (C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, 1986: 258 -
264).
Những nhận thức trên đây là đúng đắn, song đó là những nhận thức tổng quát.
Chúng giúp định hướng cho những người cộng sản kế sau chứ chưa phải đã chỉ ra con
đường vạn năng nào đó để có được ngay chủ nghĩa xã hội.
1.2. Sự tìm tòi và nhận thức của V.I. Lênin về con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội hiện thực ở nước Nga trong những năm (1917 – 1924)
Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga do Đảng Bônsêvích
lãnh đạo, đứng đầu là V.I. Lênin đã làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện
thực, tạo ra bước nhảy vọt có tính chất đánh dấu thời đại chủ nghĩa xã hội. Nhưng xây
dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào, đó là vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Nước Nga là một
nước lạc hậu về kinh tế, tiểu nông chiếm ưu thế, chủ nghĩa tư bản phát triển chưa mạnh,
lại bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng nên giải quyết vấn đề trên càng khó khăn phức
tạp.
Là người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ về lý luận, mục tiêu chủ nghĩa xã hội của C.
Mác và Ph. Ăngghen, nhưng là một nhà lý luận thiên tài, V.I. Lênin đã không bị giáo
7

điều. Ngay từ năm 1899, trong “Cương lĩnh của chúng ta”, V.I. Lênin đã xác định một

nguyên tắc phương pháp luận khoa học cho sự tìm tòi đó là: “Những người xã hội chủ
nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận
này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì,
xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức
không giống ở Nga” (Trang Phúc Linh, (3), 2003: 147). Đến năm 1917, đứng trước
nhiệm vụ cải tạo và xây dựng xã hội mới, V.I. Lênin hiểu rằng không nên trông đợi vào
những đáp án có sẳn mà phải tự tìm ra lời giải cho bài toán thực tiễn cụ thể ở nước Nga.
Trong “Những trang nhật ký của một nhà chính luận”, Ông viết: “Chúng ta không kỳ
vọng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu hết mọi mặt của con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con
đường đó, và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và
trên thực tế con đường đó ra sao thì kinh nghiệm của hàng triệu người sẽ chỉ rõ khi họ
bắt tay vào hành động”(C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, 1986: 78).
Từ sự nhận thức trên, ngay sau khi cách mạng Tháng Mười thành công, nhất là sau
khi Hòa ước Bret – Litốp được ký kết, V.I. Lênin đã bắt đầu vận dụng tư tưởng của C.
Mác – Ph. Ăngghen vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga nhằm tìm kiếm con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội cho nhà nước Xô viết. Theo đề nghị củaV.I. Lênin, Đại hội II các
Xô viết toàn Nga đã thông qua “Sắc luật ruộng đất” nhằm “hủy bỏ ngay lập tức và
không có bồi thường gì cả quyền sở hữu của bọn địa chủ về ruộng đất”. Và “thực hiện
ngay những cải cách vĩ đại về ruộng đất. Trong lĩnh vực công nghiệp, chính quyền Xô
viết ngay lập tức ban hành và thực thi “Điều lệ về quyền kiểm soát của công nhân”
nhằm đảm bảo cho giai cấp công nhân tự mình đảm đương lấy sự nghiệp vĩ đại là xây
dựng một nền công nghiệp của một đất nước bao la không có sự tham gia của bọn bóc
lột, chống lại bọn bóc lột” (Tế Quế Trân, 2001: 20).
Theo V.I. Lênin, nhà nước Xô viết không chỉ là người đưa ra mà phải là người tổ
chức thực hiện các sắc lệnh, điều lệ kinh tế. Nhà nước Xô viết là người tổ chức kiểm kê
và kiểm soát đối với tư bản, và thực hiện kỷ luật lao động nghiêm khắc để phát triển
kinh tế xã hội đất nước. Nhà nước Xô viết phải là người đứng ra nắm quyền sở hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu và thực thi tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội. Sau khi
hòa ước Bret – Li tốp được ký kết, V.I. Lênin viết nhiều tác phẩm phác thảo mô hình

con đường quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội cho nước Nga. Ông nhận thức rằng, bấy
giờ nước Nga đang tồn tại 5 thành phần kinh tế bao gồm:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa
- Kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước
- Kinh tế gia trưởng
- Kinh tế hàng hóa nhỏ
- Kinh tế tư bản chủ nghĩa
Từ sự lạc hậu đó, nước Nga không thể “đi tắt” ngay lên chủ nghĩa xã hội được mà
cần phải có “sự quá độ thận trọng”. Mùa xuân năm 1918, V.I. Lênin đã viết một số tác
phẩm: “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết”, “Về bệnh ấu trĩ tả khuynh
và tính tiểu tư sản”… phác thảo sơ bộ về sự quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước
Nga. Bước quá độ đó theo Ông là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trước hết cần đưa các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản nhà nước
dưới 3 hình thức:
8

Thứ nhất, nhà nước kiểm soát các xí nghiệp tư bản và thương nhân. Các xí nghiệp
vừa và nhỏ vẫn thuộc sở hữu tư nhân nhưng nhà nước giành quyền kiểm soát, định
hướng chúng.
Thứ hai, nhà nước giành độc quyền lương thực thông qua nắm các hợp tác xã thuộc
sở hữu tư nhân và các biện pháp khác nhằm khống chế việc thu mua, buôn bán lương
thực, tức nhà nước giành quyền nắm ngay khâu phân phối trong nông nghiệp.
Thứ ba, xác lập ngay quyền quản lý của các chính quyền địa phương, và quyền kiểm
soát, định hướng của chính phủ Xô viết đối với các hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể.
Đối với tiểu nông, tháng 1 – 1918, ban bố Luật xã hội hóa ruộng đất, khẳng định
việc sử dụng bình quân ruộng đất, đồng thời tuyên bố tôn chỉ các chính sách nông
nghiệp xô viết là để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong nông nghiệp cần phải phát triển
kinh tế tập trung nhằm tiết kiệm lao động và tăng sản phẩm nhiều hơn so với kinh tế cá
thể. Tháng 3 – 1918, tại Đại hội VII bất thường của Đảng Bônsêvích tháng 3/1918, V.I.
Lênin đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu trước mắt của Đảng là “nhằm chuyển dần dần, nhưng

không ngừng, lên chế độ canh tác tập thể và lên nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa đại
quy mô” (V.I. Lênin toàn tập, (36), 1978: 89).
Trong thời kỳ này, V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh trước hết phải khôi phục và
phát triển công nghiệp lớn, từ đó đặt cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Ông chỉ rõ: “
Đó là con đường chuyển sang một nền kinh tế lớn được xây dựng trên cơ sở công
nghiệp cơ khí, đó là con đường chuyển sang chủ nghĩa xã hội”(V.I. Lênin toàn tập, (36),
1978: 187). Tăng cường cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội – công nghiệp nặng, phát
triển sản xuất nhiên liệu, gang, chế tạo cơ khí, công nghiệp hóa học, v.v… Đó cũng là
nhiệm vụ trọng tâm mà Lênin đề ra và nhiều lần nhấn mạnh trong tác phẩm “Những
nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết”. Không chỉ có thế, trong tác phẩm “Sơ
thảo kế hoạch công tác khoa học – kỹ thuật”, khi nói về nhiệm vụ xây dựng cơ sở kỹ
thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, V.I. Lênin nêu rõ: “Đặc biệt chú ý vấn đề điện
khí hóa công nghiệp và giao thông vận tải và sử dụng điện vào nông nghiệp” (V.I.
Lênin toàn tập, (36),1978: 281). Đồng thời nêu lên nhiệm vụ tổ chức to lớn là phải
“biến” toàn bộ cơ cấu kinh tế của đất nước thành “một cỗ máy khổng lồ hoàn chỉnh”,
thành “một chỉnh thể kinh tế khiến hàng triệu triệu người phải làm việc tuân thủ theo
một kế hoạch”.
Như vậy, V.I. Lênin đã từng bước xác lập cơ sở của chính sách kinh tế của Chính
quyền Xô viết trong thời kỳ quá độ, và đã hình thành một hệ thống chính sách kinh tế
tương đối hoàn chỉnh.
Kế hoạch quá độ lên chủ nghĩa xã hội của V.I. Lênin đề ra từ mùa xuân năm 1918,
về cơ bản là: trước hết khôi phục và phát triển đại công nghiệp, đặt nền tảng vật chất
cho chủ nghĩa xã hội, đưa chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là sản xuất hàng hóa nhỏ vào quỹ
đạo của chủ nghĩa tư bản nhà nước, hạn chế và từng bước xóa bỏ thương nghiệp tư
nhân, trên cơ sở phát triển công nghiệp, nông nghiệp với sự khống chế của nhà nước;
đồng thời hướng dẫn những người tiểu nông thực hiện chế độ canh tác chung (tức công
xã nông nghiệp, các tập đoàn canh tác chung và tổ hợp lao động, thường gọi là nông
trang tập thể); và cuối cùng thực hiện ý tưởng xây dựng toàn bộ nền kinh tế quốc dân
thành một “đại công xưởng” do nhà nước lãnh đạo thống nhất thực hiện theo một kế
hoạch thống nhất. Vì vậy, nhìn tổng thể, quy hoạch đó là quy hoạch “quá độ trực tiếp”.

Điều này có nghĩa là không thông qua con đường làm sống động nền kinh tế tiểu nông,
không dựa trên cơ sở nền kinh tế tiểu nông để phát triển đại công nghiệp, mà là đối lập
giữa khôi phục và phát triển đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế tiểu nông,
9

đồng thời với việc trước hết nắm đại công nghiệp, phải tính toán để hạn chế và xóa bỏ
sản xuất hàng hóa nhỏ, đồng thời tập thể hóa tiểu nông.
Tư tưởng quá độ trực tiếp nhưng thận trọng cho phù hợp với nước Nga của V.I.
Lênin vừa mới đi vào cuộc sống thì nước Nga đã lâm vào tình trạng đặc biệt: Đó là cuộc
nội chiến do các thế lực phản động trong nước và cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước
đế quốc bên ngoài tiến hành, kéo dài trong 3 năm từ đầu năm 1918 đến cuối năm 1920.
Đế quốc và bọn phản động trong nước không những âm mưu dùng vũ lực để lật đổ
chính quyền Xô viết, mà chúng còn muốn dùng “bàn tay gầy guộc của quỹ đói” bóp
chết chính quyền Xô viết. Để giải quyết nạn bọn culắc đầu cơ, giải quyết nạn đói cho
nhân dân và lương thực cho 5 triệu bộ đội đang chiến đấu trong cuộc nội chiến, mùa hè
năm 1919, chính quyền Xô viết đã đẩy chính sách quá độ trực tiếp lên mức cao bằng
việc thực thi “Chính sách cộng sản thời chiến”. Nội dung chủ yếu của Chính sách cộng
sản thời chiến gồm:
Một là, thực hiện chế độ trưng thu lương thực thừa, căn cứ vào nhu cầu của nhà
nước, quy định cứng nhắc số lượng, giao cho cơ sở trưng thu bắt buộc theo giá quy
định. Sản phẩm trưng mua bao gồm cả các nông sản phụ như thịt, khoai tây, cá, các loại
mỡ động vật, dầu thực vật… Quy định việc trưng thu có phân biệt theo giai cấp, không
thu của bần nông, trưng thu vừa phải đối với trung nông, thu nhiều đối với phú nông.
Hai là, cấm tư nhân buôn bán, xóa bỏ mạng lưới thương nghiệp tư nhân. Mạng lưới
thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tổ chức việc cung cấp theo kế hoạch cho nhân
dân. Việc thu mua và phân phối mọi sản phẩm công, nông nghiệp đều do Bộ dân ủy
lương thực giải quyết. Quốc hữu hóa việc buôn bán lẻ của tư nhân, với các mặt hàng
quan trọng như lương thực, đường, chè, muối ăn, củi, vải, dầu hỏa, xà phòng thì nhà
nước độc quyền kinh doanh, cấm tư nhân buôn bán. Làm như vậy, nhà nước nắm được
toàn bộ việc thu mua nông sản phẩm, phân phối hàng hóa và việc cung cấp cho nhân

dân, hầu như cấm mọi sự buôn bán tự do.
Ba là, thực hiện nền kinh tế hiện vật phân phối theo tem phiếu sản phẩm công, nông
nghiệp cho nhân dân, thực hiện nguyên tắc “ai không làm thì không được ăn”, thực hiện
rộng rãi chế độ lao động nghĩa vụ, chỉ người lao động nào hoàn thành nghĩa vụ mới
được phân phối sản phẩm. Dân cư thành thị đều gia nhập công xã tiêu dùng, cung ứng
lương thực theo tem phiếu, thực hiện chế độ phân phối khẩu phần lương thực theo giai
cấp, công nhân được cung cấp nhiều, rồi đến công chức, những người không lao động
thì được ít hơn. Sau khi chiến tranh kết thúc, thực hiện việc hiện vật hóa tiền lương,
cung cấp miễn phí thực phẩm và đồ dùng hàng ngày cho nhân dân, không thu các loại
tiền thuê nhà, tiền điện, tiền khí đốt và lò sưởi. Chế độ tem phiếu và cung cấp vật chất
miễn phí chỉ gồm những thứ cần thiết nhất để duy trì cuộc sống của công nhân và nhân
dân.
Bốn là, tiến hành nhanh chóng việc quốc hữu hóa và thực hiện chế độ quản lý công
nghiệp tập trung. Tháng 6 – 1918, các xí nghiệp công nghiệp lớn đã được quốc hữu hóa.
Đầu năm 1920, về cơ bản đã đưa các xí nghiệp loại vừa vào sở hữu nhà nước. Sau nội
chiến, Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao quyết định quốc hữu hóa những xí nghiệp công
nghiệp của tư nhân và của tập đoàn có động cơ và có quá 5 công nhân và những xí
nghiệp không có động cơ nhưng có quá 10 công nhân. (Trang Phúc Linh, (3), 2003:
100, 101, 102)
Xét từ thực tiễn nước Nga lúc đó thì “Chính sách cộng sản thời chiến” là một biện
pháp cần thiết. Nhưng xét từ quy luật kinh tế thì đó là một chính sách sai lầm, duy ý chí
và khó thực hiện.
10

Khi cuộc nội chiến chấm dứt, “Chính sách cộng sản thời chiến” hoàn toàn trở nên
bất cập, trở thành vật cản trở gây bất bình to lớn trong nhân dân. Chính sách cộng sản
thời chiến với việc trưng thu toàn bộ lương thực thừa của nông dân đã đối lập với lợi ích
của bản thân người nông dân. Nông dân muốn được tự do sử dụng sản phẩm của mình,
tự do trao đổi ở thị trường và tự do mua hàng công nghiệp.
Đói kém và mệt mỏi cũng làm cho một số công nhân bất bình. Trong giai cấp công

nhân có tình trạng vừa giảm sút về số lượng, lại vừa phân tán về đội ngũ và những đảo
lộn về thành phần. Số lượng công nhân công nghiệp chỉ còn bằng một nửa so với năm
1913. Đội ngũ công nhân lành nghề lại càng ít ỏi.
Lợi dụng tình hình đó, bọn phản cách mạng trong nước lại điên cuồng chống phá, ra
sức kích động sự bất bình trong nông dân và công nhân. Chúng nổi loạn ở nhiều địa
phương. Khắp nơi lại xảy ra các vụ bạo loạn và phá hoại. Đặc biệt nghiêm trọng là cuộc
nổi loạn ở pháo đài Crôngxtat vào đầu tháng 3 – 1921, do bọn Xã hội cách mạng,
Mensêvích, Bạch vệ cầm đầu và được sự ủng hộ của thế lực đế quốc bên ngoài. Chúng
định biến pháo đài thành căn cứ xuất phát cho một cuộc can thiệp vũ trang mới của các
nước đế quốc.
Những sự kiện ở Crôngxtat và ở các địa phương khác đã trở thành những dấu hiệu
rõ ràng của sự khủng hoảng chính trị. Cuộc khủng hoảng phản ánh cả vào trong nội bộ
Đảng Bônsêvich. Một số đảng viên không kiên định (kể cả một số cán bộ lãnh đạo) đã
tỏ ra dao động.
Hơn nữa vào thời điểm đầu năm 1921, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mức
trung bình trước đây của nước Nga đã bị thụt lùi trở lại thành nền kinh tế tiểu nông lạc
hậu. Trong khi đó, thành phần kinh tế nông trang tập thể tỏ ra không hiệu quả, không có
sức thuyết phục, nêu gương. Vào năm 1920, nước Nga Xô viết có 0,4% dân số và đất
đai canh tác thuộc thành phần kinh tế nông trang tập thể. Mặc dù được nhà nước Xô viết
đầu tư nhiều tiền của, song do cơ chế mà nông dân ở đó không hứng thú sản xuất. Kết
quả là mức đóng góp của chúng cho nhà nước chỉ đạt 0,04% thấp chỉ bằng 1/10 mức
đóng góp của nông dân cá thể. Từ đó, V.I. Lênin nhận ra rằng, nông dân không phải là
những người xã hội chủ nghĩa, vấn đề nông trang tập thể không phải là vấn đề trước
mắt, nó cần phải gắn với đại cơ khí và cơ giới hóa sau này. Khi nước Nga chưa có đại
công nghiệp thì những người cộng sản phải biết sống chung và làm bạn lâu dài với tiểu
nông. V.I. Lênin hiểu rõ rằng, với một nước chưa có đủ tiền đề kinh tế cho xã hội chủ
nghĩa thì cần phải thúc đẩy cách mạng xã hội bằng một loạt các biện pháp quá độ đặc
biệt (Nguyễn Trọng Chuẩn – Phạm Văn Đức – Hồ Sỹ Quý, 1997: 314). Lúc bấy giờ ý
tưởng của V.I. Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với hai lối suy nghĩ chủ yếu: một là,
trong một nước tiểu nông chiếm ưu thế thì không thể “quá độ trực tiếp” lên chủ nghĩa xã

hội mà phải vượt “quá độ dần dần”. Và hai là, phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản để xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, V.I. Lênin đã thay đổi quan niệm và cách thức xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Ông cho rằng, với điều kiện nước Nga sau nội chiến việc tiến hành đại
công nghiệp phải được bắt đầu từ nông nghiệp, từ tiểu nông, từ tiểu công nghiệp và tiểu
thương. Từ đó, V.I. Lênin đã đề xuất “Chính sách kinh tế mới” (NEP) cho nước Nga.
Chính sách này đã được Đại hội X Đảng Bônsêvích tháng 3/1921 thông qua với những
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chính sách thuế lương
thực. Thuế lương thực nộp bằng hiện vật. Sau khi nộp đầy đủ số thuế đã quy định từ
trước mùa gieo hạt, nông dân được toàn quyền sử dụng số nông phẩm còn lại của mình
và được tự do bán ra thị trường.
11

Thứ hai, nhà nước Xô viết tập trung lực lượng và phương tiện khôi phục công
nghiệp nặng, đồng thời cho phép tư nhân được thuê hoặc xây dựng những xí nghiệp loại
nhỏ (dưới 20 công nhân) dưới sự kiểm soát của nhà nước; cho phép tư bản nước ngoài
được thuê một số xí nghiệp dưới hình thức tô nhượng.
Chấn chỉnh tổ chức lại việc lãnh đạo, quản lý sản xuất công nghiệp; phần lớn các xí
nghiệp được chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế; cải tiến chế độ tiền lương nhằm đẩy
mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Thứ ba, trong lĩnh vực thương nghiệp và tiền tệ, tư nhân được tự do buôn bán, tự do
trao đổi, mở lại các chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ giữa thành thị và nông
thôn. Tiến hành cải cách tiền tệ, phát hành đồng rúp mới thay cho các loại tiền cũ phát
hành trước đây (1924).
Thứ tư, nhà nước Xô viết vẫn tiếp tục nắm các huyết mạch kinh tế và duy trì tính
chủ đạo của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Điều quan trọng trong tư tưởng của V.I. Lênin ở đây là dùng thương nghiệp để kết
hợp công nghiệp lớn với kinh tế tiểu nông, đồng thời dùng nguyên tắc của thương
nghiệp để cải tạo những thể chế quản lý công nghiệp vốn có, mở rộng quyền tự chủ của
xí nghiệp, thực hiện hoạch toán kinh tế… trên cơ sở đó mà khôi phục và phát triển công

nghiệp lớn, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Từ lối suy nghĩ này mà tại
Hội nghị toàn thể các Xô viết Matxcơva năm 1922, V.I. Lênin đã tự tin khẳng định
rằng: “…Từ nước Nga của Chính sách kinh tế mới sẽ nảy sinh ra nước Nga xã hội chủ
nghĩa”.
Tư tưởng xây dựng đại công nghiệp cho nước Nga lúc này là không trông đợi, phải
dùng uy tín của chính quyền công nông và tiết kiệm nghiêm ngặt để phát triển đại công
nghiệp cơ khí và điện khí hóa. Đồng thời nước Nga phải “dùng cả hai tay mà lấy những
cái tốt của nước ngoài” phục vụ cho chủ nghĩa xã hội. Điều này được Ông thể hiện qua
công thức nổi tiếng: “Chính quyền Xô viết + Trật tự đường sắt Phổ + Kỹ thuật và cách
tổ chức các Tờrớt ở Mỹ + Ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc… +…+… = chủ nghĩa
xã hội” (V.I. Lênin, (36), 1978: 684).
Đối với nông dân, NEP chủ trương liên minh vói tiểu nông, giúp họ một cách thiết
thực để tranh thủ họ và từng bước tổ chức họ, đưa dần họ vào làm ăn tập thể thông qua
con đường hợp tác lâu dài.
Như vậy, với NEP, V.I. Lênin đã bước đầu bắt mạch được con đường phù hợp và đã
cố gắng tìm tòi những biện pháp cần thiết để đưa nước Nga quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đáng tiếc là Ông đã không còn đủ thời gian để phát triển và áp dụng các nhận thức đó.
Sau khi Lênin mất, Xtalin đã đưa Liên Xô đi theo một mô hình con đường khác.
Có thể thấy rằng, từ sự phê phán một cách khoa học chủ nghĩa tư bản hiện thực, C.
Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra dự báo về cách mạng xã hội chủ nghĩa và về các đặc
trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Đó là mục tiêu mà nhân loại
sẽ đạt tới. Thế nhưng cách mạng xã hội chủ nghĩa không nổ ra đầu tiên ở một loạt các
nước tư bản phát triển nhất như dự báo của C. Mác, mà diễn ra trước ở một nước tư bản
phát triển trung bình là nước Nga. Sự khúc khuỷu vốn có của lịch sử đã đem lại cho
nước Nga cái vinh dự là nước đi tiên phong khai phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội mới, nhưng cũng đặt ra cho nó những thách thức to lớn. V.I. Lênin đã cố gắng vận
dụng tư tưởng C. Mác để tìm tòi một mô hình và các bước đi thích hợp cho nước Nga.
Nhưng ông đã không có đủ thời gian để hoàn thiện lí luận về mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội đó. Chính vì thế, lịch sử chủ nghĩa xã hội hiện thực “sau Lênin” trải qua
12


một quá trình mò mẫm tìm lối đi theo kiểu “dò đá qua sông” với những bước đi tròng
trành, chao đảo, với những mô hình lựa chọn chứa đựng nhiều hạn chế khó tránh khỏi.
Khái niệm “Mô hình chủ nghĩa xã hội”
Theo Hồ Ngọc Đức, Free Vietnamese Dictionary Project , đọc từ Thuật
ngữWiktionary thì khái niệm “Mô hình” được định nghĩa là: “Hình thức diễn đạt hết
sức ngắn gọn theo một ngôn ngữ nào đó các đặc trưng chủ yếu của một đối tượng, để
nghiên cứu đối tượng ấy”.
Như vậy, theo khái niệm “mô hình” của Hồ Ngọc Đức thì khái niệm “Mô hình chủ
nghĩa xã hội” được hiểu là hình thức diễn đạt ngắn gọn các đặc trưng chủ yếu của chủ
nghĩa xã hội.

Theo A. M. Rumiantxep, chủ biên tác phẩm “Chủ nghĩa cộng sản khoa học từ điển”
được NXB Sự thật, ấn hành năm 1986 tại Hà Nội, trang 400 thì: “Chủ nghĩa xã hội là
chế độ thay thế chủ nghĩa tư bản, là một chế độ xã hội mà đặc điểm là chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, không có tình trạng người bóc lột người, có nền sản xuất xã hội kế
hoạch hóa trong toàn xã hội; là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa”.
Với những đặc trưng của “chủ nghĩa xã hội” được trình bày trong khái niệm chủ
nghĩa xã hội của A.M Rumiantxep, kết hợp với khái niệm “Mô hình” của Hồ Ngọc Đức
thì đây là một mô hình chủ nghĩa xã hội cơ bản nhất của học thuyết chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Tuy nhiên, tùy theo điều kiện, thời điểm lịch sử khác nhau, cho nên việc đi lên chủ
nghĩa xã hội diễn ra ở mỗi nước với những quy mô, trình độ khác nhau, từ đó hình
thành nên các đặc trưng (mô hình) chủ nghĩa xã hội có những nét khác.
Ví dụ, thời của C. Mác – Ăng ghen, trên cơ sở dự báo, các ông cho rằng, chủ nghĩa
xã hội có ba đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội tương lai là xã hội phát triển cao hơn hẳn chủ nghĩa tư
bản về mọi mặt mà trước hết là về lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội được hình
thành trên cơ sở nền kinh tế công nghiệp hóa cao độ và phát triển cân đối, bền vững.

Thứ hai, trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã hoàn thiện, thì chế độ tư hữu sẽ được xóa
bỏ hoàn toàn, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ được thiết lập và giai cấp
và sự khác biệt giai cấp sẽ dần dần bị xóa bỏ.
Thứ ba, trong xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện, sự sản xuất và phân phối được
điều tiết hợp lý bằng kế hoạch của nhà nước.
Thời của V.I. Lênin, do hoàn cảnh đặc thù, nên đặc trưng (mô hình) chủ nghĩa xã
hội được thể hiện trong “Chính sách cộng sản thời chiến” và “Chính sách kinh tế mới”
(NEP).
Thời của J.V.Xtalin thì đặc trưng (mô hình) của chủ nghĩa xã hội được khái quát
thành chín quy luật (được trình bày ở trang 20).
Tương tự như thế, mô hình chủ nghĩa tự quản Nam Tư có bốn đặc trưng (được trình
bày ở trang 23). Ở Trung Quốc, mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc
Trung Quốc có chín diểm cơ bản (được trình bày ở trang 39). Ở Việt Nam, mô hình chủ
nghĩa xã hội được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đúc kết thành 6 đặc trưng cơ bản (được trình bày ở trang 46) v.v…

13

Chương 2
TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TIÊU BIỂU TRÊN THẾ
GIỚI
2.1. Tìm hiểu mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô (1925 – 1991)
2.1.1. Bối cảnh và sự xác lập mô hình Liên Xô
Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (còn được gọi tắt là mô hình Liên Xô
hay mô hình Xtalin) đã được xác lập trong bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt. Nhà nước
Xô viết từ khi ra đời luôn bị các nước đế quốc thù ghét và tìm cách chống phá, tiêu diệt.
Đến năm 1923, hy vọng của Lênin và Đảng Bônsêvích vào thắng lợi của cách mạng vô
sản ở châu Âu như là một đảm bảo vững chắc cho an ninh của nhà nước Xô viết đã bất
thành. Thất bại liên tiếp của các cuộc cách mạng ở một loạt các nước châu Âu trong
những năm 1918 – 1923 đã đặt Liên Xô vào tình thế phải một mình đơn độc và trong

một thời gian dài xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới áp lực to lớn và thường xuyên từ phía
các nước đế quốc.
Đến giữa những năm 20 của thế kỷ XX, áp lực đó càng trở nên nặng nề hơn. Lúc đó,
các nước đế quốc đứng đầu là Mỹ đang trong thời kỳ ổn định tạm thời và đạt đến bước
phát triển cao về kinh tế và quân sự: một hệ thống dây chuyền sản xuất và quản lý hiện
đại như Taylor, Ford đã được tạo dựng, các phương tiện chiến tranh và vũ khí hiện đại
đã ra đời. Trong khi đó, với Chính sách kinh tế mới, Liên Xô đã bước ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế, xã hội, chính trị song vẫn chưa thoát khỏi sự lạc hậu về kinh tế,
yếu kém về quốc phòng. Nền kinh tế Liên Xô lúc đó căn bản vẫn là kinh tế nông nghiệp
lạc hậu. Nông nghiệp vẫn chiếm tới 2/3 tổng giá trị kinh tế đất nước. Công nghiệp nặng
chỉ chiếm 37% tổng giá trị toàn bộ nền công nghiệp. Liên Xô chưa thể tự trang bị máy
móc thiết bị cho nền kinh tế quốc dân và chưa đủ sức tự hiện đại hóa nền quốc phòng.
Điều này đang đặt Liên Xô đứng trước nguy cơ bị lệ thuộc hoặc bị thôn tính bởi các
nước đế quốc. J.V. Xtalin nói: “Chúng ta lạc hậu từ 50 năm đến 100 năm so với các
nước tiên tiến. Chúng ta cần rút ngắn quãng đường đó trong vòng 10 năm. Hoặc chúng
ta làm được điều đó, hoặc là chúng ta thất bại” (Trang Phúc Linh, 2003: 625).
Trước áp lực to lớn đó, cần phải có một giải pháp đặc biệt. Người quyết định bước
đi đặc biệt cho Liên Xô trong bối cảnh đó là J.V. Xtalin. Bấy giờ Ông đang đứng đầu
Đảng Bônsêvich và nhà nước Liên Xô. J.V. Xtalin gạt bỏ mọi ý kiến khác biệt, tự mình
quyết định lối đi cho đất nước. J.V. Xtalin đã không vận dụng được các chỉ dẫn quý báu
của C. Mác và V.I. Lênin rằng: “Lý luận về chủ nghĩa xã hội không phải là những giáo
điều, rằng khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực thì “thời kỳ tranh luận về chủ
nghĩa xã hội qua sách vở đã qua rồi, cần dựa vào kinh nghiệm thực tế và qua thực tế mà
thảo luận và tìm tòi về chủ nghĩa xã hội”.
Trong nhận thức chính trị của J.V. Xtalin, dưới chủ nghĩa xã hội chỉ có một chính
đảng độc quyền, và đảng đó phải mạnh tay trấn áp mọi sự đối kháng, khác biệt trong xã
hội. Vì những thế lực đối kháng đó đều là “tay sai của đế quốc”.
Trong nhận thức về kinh tế, J.V. Xtalin cho rằng, dưới chủ nghĩa xã hội chỉ tồn tại
hai hình thức sở hữu là Nhà nước và Tập thể, rằng bản chất nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
là kinh tế có kế hoạch có tính pháp luật, rằng đại công nghiệp nặng nói chung cần được

ưu tiên phát triển vì chúng là khâu then chốt quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
14

Theo sự nhận thức đó, và trong bối cảnh đặc biệt của Liên Xô vào giữa thập kỷ 20
của thế kỷ hai mươi, J.V. Xtalin đã đưa ra và thúc đẩy một cách cực đoan công cuộc
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa rồi công cuộc tập thể hóa nông nghiệp nông thôn. Và
đó chính là sự khởi đầu cho sự xác lập mô hình Liên Xô.
Dưới sự chủ trì của J.V. Xtalin, Hội nghị Trung ương XIII Đảng Bônsêvich vào
tháng 4/1925 đã khẳng định khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong một nước với
những nhân tố đảm bảo là chính quyền Xô viết, đại công nghiệp và liên minh công nông
được củng cố và phát huy đến cao độ. Đến Đại hội XIV Đảng Bônsêvich vào tháng
12/1925, J.V. Xtalin đã quyết định tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với
phương châm là phải công nghiệp hóa với tốc độ nhanh chóng để trong một thời gian
ngắn nhất, Liên Xô phải trở thành một nước công nghiệp tiên tiến, đuổi kịp và sau đó
vượt các nước tư bản phương Tây. Nội dung và phương hướng chủ yếu của công nghiệp
hóa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng gồm các ngành luyện kim, sản xuất tư liệu
sản xuất, điện lực v.v…
Từ đầu năm 1926, công cuộc công nghiệp hóa đã được thúc đẩy bằng những biện
pháp quyết liệt nhất, “toàn Đảng, toàn dân quyết tâm phấn đấu, thắt lưng buộc bụng để
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa tốc độ cao. Chính quyền Xô viết đã tập trung vốn cho
công nghiệp hóa bằng cách: 1) tăng thu “Thuế cống nạp” từ các ngành kinh tế khác. 2)
thu hút vốn trong nhân dân và 3) xóa bỏ các khoản nợ nước ngoài do chế độ cũ để lại.
Nhờ đó, nguồn tích lũy vốn tăng nhanh qua các năm tài khóa: năm 1926 – 1927 đạt 1,1
tỷ rúp; 1927 – 1928: 1,4 tỷ và 1928 – 1029 là 4 tỷ rúp” (J. V. Xtalin, (7), 1966: 53).
Theo phương châm vừa làm vừa học, học tập vì công nghiệp hóa đất nước, Liên Xô đã
tự giải quyết được vấn đề nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Nhờ đó một nền
công nghiệp nặng đã sớm hình thành. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp và tỷ trọng công
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân tăng vọt. “Nếu năm 1925, tỷ trọng công nghiệp của
Liên Xô chỉ chiếm 33% tổng sản phẩm nền kinh tế quốc dân (GDP) thì đến năm 1927 là

42% và năm 1932 là 70,7%. Hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa đã trở thành hệ thống
kinh tế duy nhất trong công nghiệp, thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa đã bị hoàn toàn
thủ tiêu” (Nguyễn Anh Thái, 1998: 52 - 55). Sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa thành công, Liên Xô trở thành một nước công nghiệp phát triển. Mô hình Liên Xô
chính thức được khởi lập từ công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa này.
Nhằm thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và cũng là nhằm củng
cố mô hình con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mới được tạo lập, một trong những
mục tiêu mà Đại hội XV của Đảng Bônsêvich tháng 12/1927 đưa ra là thực hiện công
cuộc tập thể hóa nông nghiệp với nguyên tắc tự nguyện, gắn hợp tác hóa với cơ giới
hóa, nhanh chóng hợp nhất và cải tạo kinh tế tiểu nông thành kinh tế tập thể lớn, lôi
cuốn nông dân vào con đường xã hội chủ nghĩa. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, công
cuộc tập thể hóa nông nghiệp nhanh chóng được thúc đẩy. “Trong hai năm đầu thực
hiện theo đúng nguyên tắc tự nguyện, một bộ phận lớn nông dân đã tham gia vào các
nông trang tập thể. Trong ba tháng cuối năm 1929, 2,4 triệu hộ đã gia nhập các nông
trang tập thể, nhiều hơn hai lần so với12 năm trước đó” (Nguyễn Anh Thái, 1998: 58).
Tuy nhiên, những chuyển biến đó chưa đủ đảm bảo cho nhà nước nắm được an ninh
lương thực. Nạn đầu cơ lương thực vẫn gay gắt, nạn đói xuất hiện đang đe dọa tiến trình
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, vào ngày 5/1/1930, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ra nghị quyết quy định thời hạn hoàn tất tập thể hóa nông nghiệp
là một trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Nghị quyết này đã mở đầu cho cao trào đẩy
nhanh tập thể hóa nông nghiệp bằng cưỡng bức hành chính, vi phạm nguyên tắc tự
15

nguyện, không quan tâm đúng mức đến lợi ích người nông dân. Mặc dù sau đó, Đảng có
ra nghị quyết uốn nắn nhưng xu hướng trên vẫn được tiếp tục. “Đến năm 1933, với 15
vạn máy kéo, Liên Xô đã xây dựng được hơn 5.000 nông trường quốc doanh và hơn 20
vạn nông trang tập thể. Công cuộc tập thể hóa nông nghiệp cơ bản hoàn thành. Qua đó,
nhà nước Xô viết đã nắm được quyền chi phối và đảm bảo an ninh lương thực cho đất
nước và cho công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Lúc này số lúa mì do các
nông trang tập thể cung cấp cho nhà nước đã đạt 1 tỷ pút, trong khi đó số lúa mì do

nông dân cá thể cung cấp chỉ là 130 triệu pút. Đến năm 1937 thì toàn bộ lúa mì cho nhà
nước đều do các nông trang tập thể cung cấp. Kinh tế tiểu nông đã bị xóa sổ, công cuộc
tập thể hóa nông nghiệp đã hoàn tất” (Nguyễn Anh Thái, 1998: 60; 63).
Với công cuộc tập thể hóa nông nghiệp, mô hình Liên Xô đã được đẩy cao lên một
bước.
2.2.2. Sự định hình và các đặc trưng cơ bản của mô hình Liên Xô
a. Sự định hình của mô hình Liên Xô
Thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và công cuộc tập thể hóa
nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã giúp Liên Xô tăng hơn gấp đôi GDP.
Mô hình kinh tế tập trung cao độ và có kế hoạch đã tỏ rõ tính ưu việt của nó. Hơn nữa,
vào những năm 1933 – 1941, nguy cơ chiến tranh phát xít lại đang đến rất gần. Để có
thể vượt qua nguy cơ bị tiêu diệt, Liên Xô cần tiếp tục tăng nhanh hơn nữa tiềm lực kinh
tế, quốc phòng và sự thống nhất ý chí cao độ. Mô hình Liên Xô vì thế có lý do để tiếp
tục được thúc đẩy, khẳng định và định hình.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933 – 1937), Liên Xô tiếp tục đạt được những
kỳ tích trong phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1937, tổng sản lượng công nghiệp tăng 2,2
lần so với năm 1932, riêng công nghiệp nặng tăng 3,4 lần. và trên 80% tổng sản lượng
công nghiệp là thuộc những nhà máy mới xây dựng hoặc hoàn toàn xây dựng lại thong
thời kỳ hai kế hoạch 5 năm. Năm 1937, sản lượng công nghiệp chiếm tỷ lệ 77,4% trong
tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Nhiều ngành công nghiệp đã đạt được những thành
tích to lớn, vượt mức kế hoạch. Năm 1937, so với năm 1932, sản xuất gang tăng khoảng
2 lần, thép – khoảng 3 lần, đồng – hơn 2 lần, điện lực – 168,8 lần, than – 98,8 %, thép
dát – 203%, công nghiệp hóa học – 202,4% (Nguyễn Anh Thái, 1998: 63). “Đến năm
1938, sản lượng công nghiệp Liên Xô đã vượt các nước Anh, Đức, Pháp, đã đứng đầu
châu Âu, đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ” (Trang Phúc Linh, 2003: 634). Về nông
nghiệp, đến năm 1937, đã có 93% tổng số nông hộ và 99% tổng diện tích đất đai đã
được hợp tác hóa, trong đó có tới 90% đất đai đã được canh tác bằng cơ giới (Nguyễn
Anh Thái, 1998: 63)
Sự phát triển nhanh và ổn định của nền kinh tế đã dẫn đến đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân cũng như bộ mặt xã hội Liên Xô đã được cải thiện một bước lớn.

“Mức thu nhập bình quân của người dân sau 5 năm đã tăng lên từ 2 đến 3 lần. Nhà nước
Xô viết đã thực hiện phổ cập giáo dục cấp một cho cả nước và phổ cập giáo dục cấp hai
cho vùng thành phố, đã đào tạo hơn 10 triệu trí thức. Các quan hệ bóc lột đã bị thủ tiêu.
Nạn thất nghiệp, nghèo đói đã được xóa bỏ” (Trang Phúc Linh, 2003: 613). Xã hội ổn
định. Hiến pháp 1936 đã khẳng định các thành tựu nêu trên và đã tạo cơ sở pháp lý cho
mô hình chủ nghĩa xã hội (mà J.V. Xtalin khởi dựng từ Đại hội XIV Đảng Cộng sản
liên Xô vào năm 1925) được xác lập một cách chắc chắn.
Với mục tiêu đuổi kịp và vượt các nước tư bản về mọi mặt, Đại hội XVII của Đảng
Cộng sản Liên Xô vào tháng 3/1939 đã nêu chỉ tiêu tăng gấp đôi sản lượng công nghiệp
16

trong kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1939 – 1942). Tuy bị cắt ngang bởi Chiến tranh thế
giới thứ hai, nhưng kế hoạch 5 năm lần thứ ba vẫn đạt được được những thành tựu to
lớn. Từ năm 1938 đến năm 1941, Liên Xô đã xây dựng mới và đưa vào hoạt động hơn
3.000 nhà máy, xí nghiệp. Trong các năm 1938 – 1940, sản lượng công nghiệp tăng
bình quân hàng năm là 13%. Quá trình cơ giới hóa nông nghiệp, điện khí hóa nông thôn
được đẩy mạnh và tăng nhanh. Đến năm 1941, đã có 2.500 trạm cơ giới kỹ thuật và hơn
10.000 nông trang đã điện khí hóa (Hoàng Giáp và Nguyễn Quế, 2006: 96).
Trên cơ sở phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp quốc phòng cũng phát triển
vượt bậc. Đến năm 1941, Liên Xô đã xây dựng được một lực lượng vũ trang hiện đại
với hơn 5 triệu người và đã tự trang bị cho quân đội các phương tiện chiến tranh và vũ
khí hiện đại bậc nhất thế giới. Hơn nữa, thông qua mô hình kinh tế - xã hội – chính trị
tập trung cao độ (tất cả mọi sự đều tập trung một mối vào tay nhà nước trung ương)
cùng với việc đẩy mạnh giáo dục chính trị sâu rộng, một ý chí thống nhất toàn quốc vì
Liên bang Xô viết đã được tạo lập.
Tất cả các nhân tố trên đã hợp lực tạo ra một sức mạnh vĩ đại giúp cho Liên Xô
giành thắng lợi to lớn trong cuộc chiến tranh vệ quốc sau đó.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là
đế quốc Mỹ đã tiếp tục đặt Liên Xô trong tình thế đặc biệt. Mô hình Liên Xô một lần
nữa được xem như là cẩm nang thần diệu để đứng vững và phát triển. Liên tiếp các kế

hoạch 5 năm và 7 năm sau đó cho đến năm 1985, mô hình Liên Xô không ngừng được
củng cố theo hướng giáo điều hóa. Cũng không ít lần Đảng Cộng sản và nhà nước Liên
Xô cố gắng thực hiện cải cách để khắc phục những hạn chế đã bộc lộ của mô hình,
nhưng sự bất cập về nhận thức lý luận và xu thế giáo điều hóa quá nặng nề trong Đảng,
đã trói buộc và làm thất bại mọi cố gắng cải cách.
b. Các đặc trưng cơ bản của mô hình Liên Xô
Mô hình Liên Xô có 6 đặc trưng cơ bản, bao gồm 3 đặc trưng trên phương diện kinh
tế, 2 đặc trưng trên phương diện chính trị và 1 đặc trưng trên phương diện văn hóa:
Đặc trưng thứ nhất: Nền kinh tế Liên Xô được xây dựng và vận hành trên cơ sở chế
độ công hữu với hai hình thức là sở hữu toàn dân (thực ra là sở hữu nhà nước) và sở hữu
tập thể (qua các nông trang nông nghiệp).
Chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu nhà nước được thực hiện từ cuối năm
1917, song phải đến khi tiến hành công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và tập
thể hóa nông nghiệp thì quyền sở hữu toàn bộ nền công nghiệp và một phần nền nông
nghiệp của nhà nước Xô viết mới được xác lập. Chế độ sở hữu tập thể chỉ thực sự được
đẩy mạnh qua công cuộc tập thể hóa nông nghiệp những năm 1928 – 1932 và kéo dài
đến năm 1936. Bấy giờ các nông trang tập thể mới thực sự “lấp đầy” vùng nông thôn
Liên Xô, quyền sở hữu tập thể mới được xác lập đầy đủ. Hiến pháp năm 1936 cũng như
các hiến pháp sau đó của Liên Xô đều quy định: chế độ sở hữu toàn dân được thể hiện
qua sở hữu nhà nước là hình thức cơ bản (hình thức cao) của chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa, chế độ sở hữu tập thể của người lao động gồm các nông trang tập thể và các hợp
tác xã là hình thức quá độ (hình thức thấp) của chế độ công hữu. Vì vậy, phải từng bước
đưa chế độ sở hữu tập thể lên thành sở hữu toàn dân, cải biến các nông trang tập thể và
hợp tác xã thành các nông trường quốc doanh hoặc liên hợp sản xuất dưới sở hữu,
không cho phép tồn tại sở hữu tư nhân, cá thể. Nguyên tắc của mô hình Liên Xô là:
càng công hữu càng tốt, càng toàn dân càng tốt. Đến chủ nghĩa xã hội hoàn thiện thì chỉ
còn lại một hình thức công hữu duy nhất là sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện.
17

Đặc trưng thứ hai: Kết cấu kinh tế Liên Xô nghiêng về công nghiệp nặng.

Ngay từ đầu, V.I. Lênin đã cho thấy rằng con đường duy nhất để nước Nga đi nhanh
lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là thúc đẩy đại công nghiệp. Dù vậy, do xuất phát điểm
thấp, hơn nữa do tình hình đặc thù những năm sau cách mạng Tháng Mười mà mãi đến
năm 1925, cơ sở công nghiệp hiện đại của Liên Xô vẫn còn rất mỏng. Trong bối cảnh
đặc biệt lúc đó, Đảng Cộng sản Liên Xô cho rằng phát triển công nghiệp nặng với tốc
độ cao là chìa khóa để cải tạo toàn bộ nền kinh tế, là phương cách duy nhất và tốt nhất
để đảm bảo độc lập kinh tế, củng cố liên minh công nông và tăng cường tiềm lực quốc
phòng cho đất nước. Tính hữu hiệu của chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
tốc độ cao trong bối cảnh đặc thù đã tạo sự ngộ nhận trong ban lãnh đạo Liên Xô, vì thế
nó đã được giáo điều hóa trở thành một nét đặc trưng của nền kinh tế mô hình này.
Đặc trưng thứ ba: Thể chế kinh tế của mô hình Liên Xô là nền kinh tế kế hoạch, tập
trung cao độ vào tay nhà nước.
Thể chế này được xác lập và định dạng từng bước qua quá trình công nghiệp hóa.
Từ thời kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhà nước đã giao nhiệm vụ kế hoạch cho 50 ngành
công nghiệp lớn. Đến kế hoạch 5 năm lần thứ hai, đã có tới 120 ngành, trong đó có cả
các ngành công nghiệp nhỏ và nông nghiệp được giao nhiệm vụ kế hoạch. Song song
với việc mở rộng công tác kế hoạch, các thể chế kế hoạch cũng phình ra. Đến năm
1935, Liên Xô đã có 6 ban kế hoạch tổng hợp và 16 ban kế hoạch theo ngành. Qua đó,
nhà nước trung ương vạch định và giao kế hoạch pháp lệnh cho các địa phương và đến
các xí nghiệp, nông trang tập thể. Toàn bộ hoạt động kinh tế đều do kế hoạch pháp lệnh
nhà nước chỉ huy, cơ chế thị trường hoàn toàn bị xóa bỏ.
Đặc trưng thứ tư: Quyền lực chính trị tập trung cao độ về tay trung ương, không có
sự phân tách quyền lực giữa Đảng với chính quyền, Đảng làm thay chính quyền.
Theo quy định của Hiến Pháp năm 1936 thì quyền lực của trung ương được tăng
cường cao độ, trong khi đó quyền lực của các địa phương, các xí nghiệp bị hạn chế và
thu hẹp đến tối đa. Trung ương Liên bang quyết định việc phân chia khu vực hành
chính, nắm quyền lập pháp, quyền quản lý kinh tế trong toàn Liên bang. Chính phủ Liên
bang không chỉ trực tiếp giao cho cả các xí nghiệp thuộc cấp địa phương (các nước cộng
hòa, các tỉnh…) mà đến cả các nông trang tập thể như đã trình bày ở trên.
Trong quan hệ giữa Đảng và Chính quyền thì hầu như không có sự phân tách. Đảng

kiêm luôn chức trách của chính quyền, làm thay chính quyền. Từ năm 1934, Đảng ủy
cấp huyện trở lên đặt thêm ủy ban nghiệp vụ sản xuất, còn cấp ủy Liên bang thì có đủ
các ban kinh tế, văn hóa…y như nhà nước. Quyền lực chính trị cao nhất của đất nước vì
vậy thực chất đã tập trung về một mối: Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà đại diện
của nó là Tổng Bí thư.
Đặc trưng thứ năm: Cơ chế giám sát dân chủ trong thể chế chính trị không mạnh, tạo
môi trường cho sự độc đoán chuyên quyền và tệ sùng bái cá nhân.
Trong bối cảnh khốc liệt của cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin đã nêu ra nguyên
tắc xây dựng Đảng là tập trung thống nhất với kỷ luật sắt. Nhưng ngay sau khi cách
mạng Tháng Mười thắng lợi, Ông đã chú ý kiện toàn cơ chế tập trung dân chủ, phát huy
sức mạnh dân chủ trong Đảng. Sau khi V.I. Lênin mất đi, J.V. Xtalin đã từng bước làm
cho không khí dân chủ trong Đảng giảm đi, cơ chế giám sát mất dần hiệu lực. Những
người bất đồng ý kiến bị xử lý kỷ luật, thậm chí bị thủ tiêu. Trong 2 năm đầu, J.V.
Xtalin còn duy trì nếp đại hội Đảng mỗi năm một lần. Từ sau năm 1925, giảm dần cách
2 năm, 5 năm rồi 13 năm (1939 – 1952); số lần họp Ban Chấp hành Trung ương cũng
18

thưa dần. Vì vậy, nhiều vấn đề trọng đại của đất nước thường do một mình J.V. Xtalin
quyết định. Việc lựa chọn cán bộ Đảng, Chính quyền thường do đề bạt từ bên trên chứ
không thông qua bầu cử (hoặc bầu cử hình thức). J.V. Xtalin cũng thay đổi cơ chế giám
sát theo hướng làm mất đi tính hiệu lực của nó. Thời V.I. Lênin, Ban Kiểm tra Trung
ương tồn tại song song ngang quyền và có trách nhiệm giám sát Ban Chấp hành Trung
ương, thành viên của Ban Kiểm tra Trung ương được quyền tham dự các hội nghị của
Bộ Chính trị. J.V. Xtalin đã đưa ra quy định, Đảng cấp dưới cử người tham gia Ban
Kiểm tra Trung ương. Về hình thức có vẻ dân chủ, nhưng thực chất Ban Kiểm tra Trung
ương bị biến thành cấp dưới của Ban Chấp hành Trung ương và nhiệm vụ của nó chỉ là
giám sát việc thực thi nghị quyết của Trung ương nhất là ở các cấp bên dưới chứ không
còn là giám sát Ban Chấp hành Trung ương nữa. Cùng với đó, các tổ chức giám sát của
quần chúng cũng bị thủ tiêu. Điều này đã tạo môi trường cho sự độc đoán, cửa quyền và
tệ sùng bái cá nhân phát triển.

Đặc trưng thứ sáu: trung ương Liên bang rất chú trọng phát triển văn hóa giáo dục
theo hướng lành mạnh và nâng cao dân trí, đồng thời lại can thiệp quá sâu bằng các biện
pháp hành chính vào hoạt động văn hóa giáo dục làm cho văn hóa giáo dục đất nước
phát triển phiến diện, xơ cứng.
Ngay sau khi được thành lập, chính quyền Xô viết đã đặc biệt quan tâm thúc đẩy
giáo dục nâng cao dân trí, đồng thời làm cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa
nhằm làm lành mạnh hóa xã hội. Bảng sau cho thấy rõ điều đó, (nguồn dẫn: Trang Phúc
Linh, t3, 2003: 639).
Năm 1929 1933 1939
Tổng số học sinh
(riêng SV đại học)
Số câu lạc bộ
Số lượng báo phát hành (tỷ tờ)
14.358.000
(270.000)
32.000
…………….
23.814.000
(458.000)
61.000
4.986
33.965.000
(601.000)
96.000
7,092
Trước các cuộc tranh luận học thuật của giới trí thức những năm 1930, Hội đồng
dân ủy và Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã can thiệp và liên tục ban bố những
nghị quyết mang tính kiểm duyệt nhằm định hướng nền văn hóa, giáo dục, khoa học của
đất nước. Trung ương Đảng đã đưa ra các quy định cụ thể về chương trình dạy học, sách
giáo khoa và chế độ học cho tất cả các cấp học. J.V. Xtalin đích thân chủ trì biên soạn

các giáo trình bộ môn Mác – Lênin, nhất là giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô.
Những biện pháp nói trên một mặt đã tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thúc đẩy
phát triển đối với sự nghiệp văn hóa giáo dục và khoa học đất nước; nhưng mặt khác, do
sự phê phán không thỏa đáng, cực đoan trong lĩnh vực học thuật, thậm chí dùng biện
pháp hành chính chèn ép hoặc loại trừ một số trường phái, trào lưu học thuật… đã làm
cho không khí tranh luận tự do lắng đi, chủ nghĩa giáo điều, quan liêu phát triển, tư
tưởng xơ cứng, bất cập trở nên phổ biến. Nền học thuật Xô viết rơi vào tình trạng phiến
diện và trì trệ.
“Sau khi J.V. Xtalin qua đời (5/3/1953), Khơrútsốp và sau đó là Brêgiơnhép lên
thay thế. Trong thời kỳ Khơrútsốp và Brêgiơnhép làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên
Xô (Khơrútsốp làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1953 đến 1964;
Brêgiơnhép làm Tổng bí thư từ 1964 đến 1982), Khơrútsốp cùng với Đảng Cộng sản
19

Liên Xô đã tuyên bố “Cương lĩnh xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa” (1961), còn
Brêgiơnhép và Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đã từng khẳng định:“Liên Xô đã xây dựng
xong chủ nghĩa xã hội phát triển” (1977). Trong suốt thời kỳ lãnh đạo, Khơrútsốp và
Brêgiơnhép đã tiến hành cải cách trên nhiều lĩnh vực về kinh tế, chính trị và xã hội. Tuy
nhiên, kết quả đạt được về căn bản đều chưa động chạm tới thể chế truyền thống hình
thành từ những năm 30. Vì vậy, những cải cách trong hai thời kỳ này đều chưa thể vượt
qua được khuôn khổ của thể chế cũ. Sau thời kỳ Brêgiơnhép (1982 trở đi), thể chế chính
trị, kinh tế của Liên Xô vẫn là thể chế tập trung trung ương cao độ, vẫn cần được nghiên
cứu để cải cách” (Trang Phúc Linh, 2003: t4, 144), sáu đặc trưng của Mô hình Liên Xô
về cơ bản vẫn được giữ nguyên.
2.3.3. Sự lan tỏa và khủng hoảng, sụp đổ của mô hình Liên Xô
a. Sự lan tỏa của mô hình Liên Xô ra thế giới
Tuy chứa đựng nhiều khuyết tật và thể hiện tính duy ý chí cao độ, nhưng trong bối
cảnh đặc thù, và nhất là trong vài thập kỷ đầu tồn tại, mô hình Liên Xô mang lại cho đất
nước Xô viết những thành tựu kỳ diệu. Chính vì thế mà nó đã tạo ra ảo tưởng rằng đây
là mô hình hợp lý và có tính phổ quát. Tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và

công nhân Matxcơva năm 1957, mô hình Liên Xô chính thức được giáo điều hóa sau
khi được khái quát hóa lên thành 9 quy luật chung cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới, bao gồm:
1. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà hạt nhân của nó là Đảng Mác xít – Lênin
nít đối với toàn xã hội thông qua việc thiết lập nền chuyên chính vô sản.
2. Liên minh công – nông và Mặt trận Tổ quốc là cách thức tạo động lực cho việc
đẩy cao sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Sự thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và sự thiết lập chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai hình thức: Sở hữu nhà nước và Sở hữu tập thể.
4. Cải tạo dần dần nền nông nghiệp theo chủ nghĩa xã hội: từ nông trang tập thể đến
nông trường quốc doanh.
5. Phát triển có kế hoạch nền kinh tế quốc dân dưới sự điều tiết của nhà nước.
6. Tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa, đào tạo trí thức theo lập trường công
nhân.
7. Thủ tiêu mọi sự áp bức dân tộc, tạo tình hữu nghị giữa các dân tộc.
8. Bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa, chống lại sự phá hoại của kẻ thù
bên trong và bên ngoài, tăng cường tiềm lực quốc phòng.
9. Tăng cường tình đoàn kết giữa các nước theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế xã hội
chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả (Nguyễn Anh Thái, 1986: 10).
Thực ra thì sự ngộ nhận về tính phổ quát của mô hình Liên Xô trong các đảng cộng
sản quốc tế đã có từ trước đó. Khi bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
không một đảng cộng sản nào lại không ít nhiều vận dụng mô hình Liên Xô. Vì thế mà
sự lan tỏa của mô hình Liên Xô ra thế giới hết sức đa dạng.
Ở Đông Âu, ngay trong quá trình cách mạng dân chủ nhân dân, tuy có xảy ra cuộc
tranh luận về mô hình con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, song khi bước vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả các nước đều lựa chọn mô hình Liên Xô. Có thể
lý giải hiện tượng này trên hai phương diện sau: thứ nhất, bản thân các nước Đông Âu
20

lúc đó chưa tự tìm ra một mô hình thực sự phù hợp và có hiệu quả và thứ hai là, lúc bấy

giờ Chiến tranh lạnh đã nổi lên, các nước xã hội chủ nghĩa cần phải đứng chung trong
một đội ngũ chung quanh Liên Xô để tạo sức mạnh chiến thắng. Riêng Nam Tư, từ năm
1948, đã phủ nhận mô hình Liên Xô và tìm đến với mô hình tự quản xã hội chủ nghĩa.
Cũng vì thế nên trong một thời gian dài, Nam Tư không được Liên Xô xem là nước xã
hội chủ nghĩa.
Ở châu Á, ảnh hưởng của mô hình Liên Xô diễn ra khá đa dạng. Mô hình Liên Xô
gần như đã được rập khuôn ở Mông Cổ, ở Triều Tiên và ở cả Trung Quốc trong 10 năm
đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1949 – 1958). Tuy nhiên, ở Trung Quốc dưới sự lãnh
đạo của Mao Trạch Đông, ngay từ những năm buộc phải “nhất biên đảo” về Liên Xô,
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận ra những khuyết tật của mô hình Liên Xô và đã sớm
đưa ra chủ trương tìm tòi một mô hình con đường đi riêng phù hợp với đặc thù đất
nước. Mô hình Liên Xô cũng được những người cộng sản Việt Nam và Lào áp dụng chí
ít cũng đến năm 1986.
Ở bên kia bán cầu, từ năm 1961, Cuba cũng đã dựa chắc vào Liên Xô và vận dụng
rộng rãi mô hình Liên Xô vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ít nhất cho đến
năm 1991.
b. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình Liên Xô
Như đã nói, mô hình Liên Xô được xác lập trong bối cảnh rất đặc biệt và từ đầu đã
chứa đựng nhiều khuyết tật, một mô hình phiến diện và duy ý chí. Trong bối cảnh sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, những khuyết tật của nó bắt đầu bộc lộ. Những làn gió
khủng hoảng mô hình đã diễn ra ở Liên Xô như cuộc đấu tranh của một bộ phận trí thức
đòi dân chủ hóa xã hội, phản ứng của nông dân trước cuộc tập thể hóa nông nghiệp lần
thứ hai những năm 1945 – 1950 làm xáo trộn nông thôn Liên Xô lúc đó. Sự áp đặt mô
hình Liên Xô vào các nước Đông Âu những năm 1945 – 1955 cũng đã gây những phản
ứng của nhân dân. Nhiều nước trong số đó thậm chí đã xảy ra khủng hoảng chính trị -
xã hội.
Từ thập kỷ 70 trở đi, khi nhân loại đứng trước cuộc khủng hoảng năng lượng buộc
các nước tư bản phát triển phải tiến hành cải biến thích ứng và chuyển sang nền văn
minh hậu công nghiệp, thì mô hình Liên Xô thực sự lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Trong vòng 15 năm, tính từ nửa sau thập kỷ 1970 trở đi, mô hình Liên Xô đã lần lượt

sụp đổ ở hầu hết tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên, sự sụp đổ của mô hình Liên
Xô đã diễn ra ở mỗi nước rất khác nhau, cả về thời gian cũng như hệ quả của nó.
Ở Đông Âu, như đã nói, sự áp đặt mô hình Liên Xô đã sớm gây ra phản ứng trong
dân chúng. Kẻ thù lợi dụng tình thế đó để kích động chống chủ nghĩa xã hội. Việc Liên
Xô đột ngột từ bỏ cam kết và rút nhanh quân đội ra khỏi Đông Âu vào năm 1988, đã tạo
cơ hội cho các tư tưởng “bài Xô” chống chủ nghĩa xã hội lộng hành. Các Đảng cộng sản
ở đây đã nhanh chóng xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin, chuyển dần sang lập trường chủ
nghĩa xã hội dân chủ và chấp nhận chính trị đa nguyên, đa đảng. Mô hình Liên Xô
không phải được cải sửa, mà bị phế bỏ một cách lạnh lùng bằng “Cách mạng cung đình”
(ở Hunggari), thông qua cuộc nổi dậy chống chế độ độc tài gia đình trị (ở Rumani) hay
bằng thông qua cuộc “Cách mạng nhung” với sự nhúng tay của các thế lực bên ngoài.
Ở Liên Xô, tình trạng giáo điều, trì trệ đã đẩy đất nước đến khủng hoảng ngay trong
thập kỷ 70. Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Goócbachốp đã tiến hành cải tổ nhưng
đã không có bước đi phù hợp, hoặc như có tài liệu cho rằng ông đã cố tình “phế bỏ chủ
nghĩa cộng sản ở Liên Xô” (Tiêu Phong, 2004: 123 – 124). Khi cải tổ thất bại và Đông
21

Âu đột biến, Liên Xô tan rã, các quốc gia độc lập trên lãnh thổ Xô viết cũ đồng loạt từ
bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực để tìm đến mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ đang thịnh
hành ở các nước Tây Âu và Bắc Âu.
Ở khu vực châu Á và Cuba, trừ Mông Cổ đã phế bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và
Triều Tiên đổi mới mô hình chưa rõ nét, các nước còn lại đều đã ít nhiều thành công
trong việc cải sửa, đổi mới, chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn được duy trì. Các nước
Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cu Ba đang thực sự đi tiên phong trong phong trào xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
2.2. Tìm hiểu mô hình chủ nghĩa xã hội Nam Tư (1848 – 2006)
2.2.1. Bối cảnh xuất hiện mô hình chủ nghĩa xã hội tự quản Nam Tư
Trong những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nam Tư và các nước Đông
Âu khác lần lượt hoàn tất cách mạng dân chủ nhân dân để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đứng
trước nhiệm vụ cách mạng mới, các nhà lãnh đạo cộng sản Đông Âu đã có cuộc tranh

luận sôi nổi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Một số nhà lãnh đạo chủ trương đi
theo con đường Liên Xô, họ cho rằng mô hình và kinh nghiệm của Liên Xô có tính phổ
biến. Số khác lại cho rằng, nên tìm con đường đi riêng phù hợp với đặc điểm của đất
nước, dân tộc mình. Lãnh tụ Đảng Cộng sản Nam Tư là Giôrip Brốtgiơ Tito đại diện
cho xu hướng thứ nhất, còn lãnh tụ Đảng Cộng sản Bungari là Ghêoocghi Đimitơrốp đại
diện cho xu hướng thứ hai. Năm 1946, Đimitơrốp cho rằng: “Những người Mác xít cần
làm rõ con đường mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không phải theo một con
đường định sẳn, một mô hình hoàn chỉnh, không phải là đường lối của Liên Xô mà là
đường lối của chính mình, được định ra trên cơ sở xem xét tình hình lịch sử, dân tộc, xã
hội và văn hóa của nước mình”.
Lúc đầu, Đảng Cộng sản Liên Xô không mấy để tâm đến cuộc tranh luận đó. Nhưng
khi chiến tranh lạnh bùng nổ, Liên Xô đã can thiệp, ngăn chặn xu hướng thứ hai, buộc
các nước Đông Âu phải theo mô hình Liên Xô, liên kết chặt chẽ với Liên Xô để chống
lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Đúng lúc đó, Nam Tư đã lên tiếng xét lại mô hình Liên
Xô và tuyên bố tìm kiếm mô hình đi cho riêng mình.
Thực ra trong ba năm đầu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa (1945 – 1947), Nam Tư
đã mô phỏng mô hình tập trung cao độ của Liên Xô. Bấy giờ Đảng Cộng sản Nam Tư
đã thực thi một loạt các biện pháp nhằm tập trung quyền lực quản lý kinh tế, xã hội,
chính trị vào tay nhà nước Liên bang. Về công nghiệp, chính phủ Liên bang nhanh
chóng tiến hành quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản tư nhân và chuyển các xí nghiệp
công hữu trước chiến tranh thành xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa. Đến năm
1947, Nhà nước Liên Bang đã nắm trong tay 90% năng lực công nghiệp đất nước. Về
công nghiệp, chính phủ Liên bang tiến hành thủ tiêu chế độ sở hữu ruộng đất của địa
chủ và chuyển ngay sang sở hữu nhà nước hoặc tập thể. Đến năm 1947, trong số
1.500.000 ha ruộng đất tịch thu của địa chủ, chính phủ chỉ dành 80.000 ha chia cho bần
nông, số còn lại (1.420.000 ha) chuyển ngay sang công hữu xã hội chủ nghĩa… Ngoài
ra, chính phủ Liên bang cũng giành độc quyền kiểm soát các mạch máu kinh tế khác
như: ngân hàng – tiền tệ, nội – ngoại thương v.v… (Trang Phúc Linh, 2003: 38 – 39)
Thể chế quốc doanh hóa nền kinh tế và tập trung quyền lực này đã giúp Nam Tư
nhanh chóng khôi phục kinh tế, ốn định xã hội và trấn áp các thế lực thù địch, bảo vệ và

phát huy thành quả của cách mạng. Tuy nhiên, thể chế này cũng chứa đựng và nhanh
chóng bộc lộ nhiều hạn chế, Do sự tập trung quyền lực cao độ vào tay nhà nước mà
22

quyền dân chủ của nhân dân bị hạn chế, tính tích cực của dân chúng bị trói buộc, sức
sản xuất xã hội bị cản trở…
Tuy nhiên, ngay từ năm 1946, khi đang vận dụng mô hình Liên Xô, Đảng Cộng sản
Nam Tư đã sớm xác định tư tưởng là phải căn cứ vào đặc điểm dân tộc mình để tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó Đảng Cộng sản
Nam Tư, đứng đầu là G. B. Tito đã sớm nhận ra rằng trong mô hình Liên Xô chứa đựng
nhiều hạn chế, không phù hợp với nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, từ năm 1947,
Nam Tư đã bắt đầu xét lại mô hình Liên Xô. Đến năm 1948, Nam Tư chính thức bác bỏ
mô hình Liên Xô và bắt đầu tìm kiếm mô hình mới, phù hợp với Nam Tư và đúng với
nguyên tắc xã hội chủ nghĩa hơn.
Bất chấp các áp lực từ phía Liên Xô, Đảng Cộng sản Nam Tư vẫn kiên định con
đường đã chọn. Tuy vậy, trước năm 1948, Nam Tư chưa đưa ra lý luận nào để biện hộ
cho sự phủ nhận mô hình Liên Xô và tìm kiếm mô hình riêng cho mình. Chính sự xung
đột gia tăng giữa hai nước đã dẫn đến việc Đảng Cộng sản Nam Tư quyết tâm tìm kiếm
lý luận tự biện hộ cho mình. Đại hội V của Đảng Cộng sản Nam Tư (21/7/1948) đã
khẳng định: Đảng Cộng sản Nam Tư là một Đảng độc lập, tự chủ… Trước đây, Đảng đã
có thể tự vạch con đường cách mạng lãnh đạo đất nước giành độc lập thì giờ đây nó
cũng đủ bản lĩnh để tự chọn cho đất nước một con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
thích hợp mà không cần ai đó áp đặt, làm thay. Liền sau đó, một đợt học tập, quán triệt
lại chủ nghĩa Mác trên quy mô lớn được triển khai. Việc làm này đã giúp cho Đảng
Cộng sản Nam Tư bước đầu hình thành những tư tưởng cơ bản về lý luận tự quản xã hội
chủ nghĩa của mình bao gồm: chống quan liêu hành chính mệnh lệnh, chống quyền hành
tập trung cao độ ở trung ương, thực thi dân chủ hóa xã hội mà trước hết là trong lĩnh
vực kinh tế.
Lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội tự quản của Nam Tư từ khi ra đời đã có nội
dung đối lập với mô hình của Liên Xô, bao gồm những nét chính sau:

Thứ nhất, thực hiện phi tập trung, phi quan liêu hóa bằng cách giảm bớt chức năng
của nhà nước, nhất là chức năng quản lý kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tách biệt và phân định rõ chức năng của các cơ quan Đảng và bộ máy nhà
nước các cấp.
Thứ ba, chuyển chế độ sở hữu tư liệu sản xuất từ hình thức sở hữu nhà nước sang sở
hữu xã hội: trao quyền sở hữu và quản lý trực tiếp các xí nghiệp cho tập thể công nhân
lao động. G. B. Tito cho rằng chế độ sở hữu nhà nước là hình thức thấp nhất của chế độ
công hữu, còn chế độ sở hữu xã hội là hình thức cao nhất của nó.
Thứ tư, hình thành nên một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên hoạt
động kinh doanh tự chủ của các xí nghiệp công nhân tự quản và các liên hiệp lao động
tự do.
Ngày 26/6/1950, Nghị viện nước Cộng hòa Liên bang Nam Tư đã thông qua Pháp
lệnh công nhân tự quản với tên gọi đầy đủ là “Pháp lệnh cơ bản về tập thể những người
lao động quản lý xí nghiệp quốc doanh và tổ chức liên hợp kinh tế bậc cao”. G. B. Tito
cho rằng việc thông qua Pháp lệnh trên có một ý nghĩa đặc biệt trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội Nam Tư. Việc giao cho công nhân quản lý nhà máy, hầm mỏ
v.v… là làm cho bệnh truyền nhiễm quan liêu không thể phổ biến trên đất nước Nam Tư
nữa, đồng thời làm cho Nam Tư đi đầu thế giới về thiết lập nền dân chủ chân chính.
Việc nông dân tự quản lý lấy hợp tác xã và công nhân tự quản lý lấy nhà máy đã làm
cho họ thực sự trở thành người làm chủ. Pháp lệnh này đã khởi đầu cho một mô hình
23

×