Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học tìm HIỂU một số nội DUNG về PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG TRONG tư TƯỞNG TRIẾT học hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.93 KB, 29 trang )

1

TÌM HIỂU MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH
MỞ ĐẦU
Đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà triết
học, nhưng trong tư tưởng của Người lại luôn nhất quán một thế giới quan,
một nhân sinh quan, một hệ thống tư duy triết học. Vốn là học trò của V.I.
Lênin, nên thế giới quan, tư duy triết học đó là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin một cách tài tình, như Người đã nói: “Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào?
Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” 1.
Do đó người thường dạy cán bộ, đảng viên: học tập chủ nghĩa Mác-Lênin
là học tập lập trường, quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn. Như vậy, trong vận dụng triết
lý mácxít, Người đã có bổ sung, phát triển phù hợp với hoàn cảnh hiện thực
khách quan.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không có những tác phẩm riêng bàn về triết
học. Bởi vì, lịch sử cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ không đặt ra yêu cầu
này đối với Người. Toàn bộ sức lực và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã bị cuốn
hút vào việc tìm tòi và giải quyết nhiệm vụ bức thiết mà lịch sử đặt ra, là
làm sao giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng kiếp làm nô lệ
của nhân dân Việt Nam mà mục tiêu cao qúy là “không có gì quý hơn độc
lập tự do”, đó là chân lý suốt đời của Người hằng theo đuổi.
NÔI DUNG
1. Khái lược phương pháp biện chứng trong tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh
1

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2002, tr.465



2
Trong kho tàng ngôn ngữ của mình, Hồ Chí Minh cũng rất ít, hoặc
không nói đến những khái niệm thuần tuý triết học: duy tâm, duy vật, biện
chứng, siêu hình... Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh “trở về nước, đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành
độc lập”, thì vấn đề Người quan tâm là nói và viết lý luận sao cho hàng chục
triệu người lao động không biết chữ và thất học có thể hiểu được, nhận thức
được, để làm được - đó là mục tiêu, là cứu cánh đích thực của lý luận. Vì vậy,
trong tác phẩm Đường cách mạng, Người đã nói ra chủ kiến ấy như một tuyên
ngôn: “Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ,... nói việc gì thì nói
rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn, như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ, trang hoàng
gì cả….Văn chương và khi vọng của cuốn sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách
mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!” 2.
Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chủ biên công trình lớn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam”có đoạn nêu: “Phương pháp luận Hồ Chí
Minh”. Trong cuốn về tư tưởng Hồ Chí Minh”, Đại tướng đã viết:
“Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều cách tiếp cận, có thể nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên các mặt tư tưởng nhân văn, tư tưởng
chính trị, tư tưởng kinh tế, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hóa, tư tưởng
đạo đức.v.v. mà cũng có thể nghiên cứu theo từng nhóm vấn đề tư tưởng
về đường lối chiến lược, tư tưởng về đường lối tổ chức, những vấn đề có
tính chất phương pháp luận” 3
Cần khẳng định lại rằng, Hồ Chí Minh hoàn toàn không có ý định làm
triết học, càng không có tham vọng trở thành nhà triết học, nhưng Hồ Chí
Minh có tư tưởng triết học của mình. Toàn bộ lý luận của Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, bao quát nhiều lĩnh vực hết sức rộng lớn,

2
3

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1995, tr.262
Về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tr 27.


3
cực kỳ mới mẻ và khó khăn. Vì vậy, nó chỉ có thể được nhận thức và giải
đáp một cách sáng tỏ khi có một phương pháp luận đúng đắn, xây dựng
trên một nền tảng triết học nhất quán và sâu sắc. Từ thực tế thắng lợi của
cách mạng Việt Nam để xem xét giá trị của cách mạng Việt Nam, nhiều
nhà triết học trên thế giới đã thừa nhận: “Vấn đề Việt Nam... không chỉ là
vấn đề chính trị mà còn là vấn đề triết học và lý luận ở trình độ cao”. Triết
học và lý luận đó được kết tinh ở tư tưởng Hồ Chí Minh, được thấm sâu
trong các bài viết, bài bào, bài nói chuyện, huấn thị cán bộ, nhân dân v.v.
và toàn bộ hoạt động thực tiễn của người. Do đó, có thể thông qua hoạt
động lý luận và thực tiễn Hồ Chí Minh mà tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở kế thừa
di sản tư tưởng triết lý của dân tộc và nhân loại, được vận dụng, sáng tạo
thực tiễn đấu tranh cách mạng của Hồ Chí Minh mà từng bước nâng lên
một chất lượng mới, phù hợp với truyền thống tư duy của dân tộc, ngang
tầm với thời đại, lại vừa có bản sắc riêng mang đậm dấu ấn của Hồ Chí
Minh và Người đã tạo ra hệ thống phương pháp của riêng mình, phương
pháp biện chứng Hồ Chí Minh nó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ
nghĩa Mác-Lênin được vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Phương pháp biện chứng trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng biện chứng trong triết học mácxít với
triết học phương Đông và phương Tây, cổ truyền và hiện đại cũng như các

trào lưu triết học khác. Đó không phải là sự vận dụng từng nguyên lý, từng
quy luật, từng phạm trù của một hệ thống triết học riêng biệt nào, mà là sự
vận dụng tổng hợp các lý thuyết, các kinh nghiệm đã được đúc kết tạo thành
những quan điểm nhất quán trong suốt quá trình hoạt động của Người.
Phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh được thể hiện trong quá
trình chỉ đạo cách mạng, là sự linh hoạt, mềm dẻo, ứng đối kịp thời đối với


4
mọi tình huống để tận dụng mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh tạo thế và lực cho
cách mạng để đưa cách mạng tới thành công.
Nội dung của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh rất rộng lớn đó là
sự thể hiện nhất quán các quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan
điểm lịch sử cụ thể và quan điểm kế thừa, quan điểm đánh giá so sánh lực
lượng, đặc biệt có khả năng dự báo thiên tài. Nó còn thể hiện trong phân tích
và giải quyết mâu thuẫn; thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống
và hiện đại, kế thừa và đổi mới dân tộc và giai cấp, nội lực và ngoại lực.
Như vậy, phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là một vấn đề rất rộng
lớn trong phạm vi tiểu luận tôi xin trình bày nhận thức của mình về vấn đề:
Tìm hiểu một số nội dung của phương pháp biện chứng trong tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh.
2. Nội dung thu hoạch về phương pháp biện chứng trong tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh
2.1. Quan điểm toàn diện, hệ thống, trọng điểm, thiết thực Hồ Chí
Minh về xem xét và giải quyết công việc
Quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở
nhận thức tính chỉnh thể của thế giới và tính củ thể của mỗi sự vật. Theo
quan điểm của Người, cả thế giới, cả xã hội loài người là một hệ thống,
trong đó, các quốc gia, các tầng lớp xã hội, các bộ phận khác nhau của xã
hội đều liên quan với nhau. Hồ Chí Minh luôn có quan điểm toàn diện trên

cơ sở lý luận Mác-Lênin, nâng cao lên có tính hệ thống, nhưng lại có trọng
điểm đây là một nguyên tắc cơ bản phản ánh phong cách Hồ Chí Minh trong
xem xét, đánh giá, giải quyết công việc. Chính vì lẻ đó, Hồ Chí Minh luôn
xem Việt Nam là một bộ phận của thế giới, của Châu Á, và cách mạng Việt
Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh đặt người Việt Nam
trong mối quan hệ với “những người cùng khổ trên thế giới”, xem dân tộc
Việt Nam trong mối quan hệ với dân tộc thuộc địa khác ở Châu á, Châu Phi,


5
Châu Mỹ...xem nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là “một bộ phận của phe
dân chủ”. Người xem Việt Nam là một thành viên trong đại gia đình quốc tế
vô sản. Đặc biệt, Hồ Chí Minh còn thấy rất rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa
những người lao động Việt Nam và những người lao động Pháp, giữa nhân
dân Việt Nam và nhân dân Pháp trong khi đế quốc Pháp thi hành những
chính sách thực dân ở Việt Nam. Đó là cách nhìn xa trông rộng, không định
kiến, không hẹp hòi.
Từ cách nhìn bao quát đó, mà Hồ Chí Minh luôn luôn có quan điểm
toàn diện khi đánh giá kẻ thù, khi nhìn nhận các lực lượng của cách mạng, của
kháng chiến, cũng như khi xem xét các vấn đề xã hội, khi giải quyết công việc
của đất nước.
Quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh cũng đặc biệt rõ nét khi
Người xem xét các lực lượng cách mạng của Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh
mọi người Việt Nam đều là con cháu Lạc Hồng. Ai cũng chịu cái khổ, cái
nhục của họa mất nước. Vì vậy, việc cứu nước là việc của mọi người,
không phụ thuộc vào địa vị xã hội, vào hoàn cảnh kinh tế, vào năng lực cá
nhân. Trong bài Kính cáo đồng bào viết tháng 6 năm 1941. Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Hơn 20 triệu con Lạc cháu Hồng quyết không chịu làm vong
quốc nô lệ mãi!” 4 và Người kêu gọi: “Việc cứu quốc là việc chung. Ai là
người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: Người có

tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài
năng góp tài năng. riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì
đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không
hề”5. Sau khi giành được chính quyền cách mạng tháng Tám thành công,
thực dân Pháp lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2, Hồ Chí
Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
4
5

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr.197
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr.198


6
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân pháp để cứu Tổ quốc” 6. Chính
cái nhìn toàn diện như thế đã làm cho Hồ Chí Minh khai thác được mọi sức
mạnh, mọi tiềm năng của khối cộng đồng dân tộc, không bỏ sót bất kỳ một
lực lượng nào, quy tụ cả non sông về một mối, với quan điểm ấy, Hồ Chí
Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh và đã thu được thắng lợi to lớn.
Trong kháng chiến cũng như trong hòa bình xây dựng, quan điểm toàn
diện luôn là tư tưởng bao trùm. Từ sau 1954 khi miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng, với chủ trương xây dựng miền Bắc làm cơ sở cho việc đấu tranh
thống nhất nước nhà và từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã
chú ý toàn diện tới sự nghiệp xây dựng đất nước tới mọi mặt của đời sống xã
hội, cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, cả kinh tế và chính trị, cả đối
nội và đối ngoại, từ đời sống toàn xã hội đến đời sống mỗi gia đình, người
quan tâm tới mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề khác nhau.
Do có cái nhìn toàn diện, nên Hồ Chí Minh luôn phê phán những cán bộ

có những cách nhìn thiên lệch, phiến diện, hẹp hòi, chỉ thấy lợi ích bộ phận,
không thấy lợi ích toàn thể, chỉ biết có mình, biết bộ phận mình mà quên cả
Đảng. Người lên án “chủ nghĩa cá nhân”, bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương. Người
khuyên: Xem xét cán bộ, không chỉ xem xét ngoài mặt mà còn phải xem xét tính
chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn thể lịch sử, toàn
cả công việc của họ. Đáng giá con người theo Hồ Chí Minh là chú ý đáng giá
nhận thức cả đức và tài, cả mạnh và yếu trong quan hệ cá nhân và tập thể cũng
như cộng đồng.
Tuy nhiên ở Hồ Chí Minh, toàn diện không có nghĩa là tràn lan, dàn đều,
làm nhiều nhưng làm không có tính toán, không phân biệt trước sau. Chính vì
vậy Người phê bình những cán bộ tham làm nhiều mà không chu đáo, hoặc làm
không nắm trọng tâm, trọng điểm, cái gì cũng muốn nắm hết, làm hết. Do đó
Người chỉ ra phải nên nghiên cứu thật sâu, thảo luận thật kỹ những vấn đề
6

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr.480


7
chính thì các vấn đề phụ sẽ giải quyết dễ dàng và bất kỳ việc gì, chúng ta phải
bắt đầu từ gốc, dần dần đến ngọn, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, chớ lên
tham mau, tham nhiều cùng một lúc. Có thể nói quan điểm toàn diện như là
quan điểm số một của Hồ Chí Minh. Bất cứ ở đâu, lúc nào, trong bất cứ công
việc gì, dù lớn, dù nhỏ, ta vẫn thấy quan điểm này một cách dễ dàng, đó là
phương pháp vừa bao quát toàn cục, vừa nắm cái chính yếu, nắm cái cơ bản để
đi từ bộ phận đến toàn thể, từ điểm đến diện làm cho việc giải quyết vấn đề vừa
triệt để vừa được tiến hành từng bước thật vững chắc. Ta thấy ở Người tầm
nhìn chiến lược phải nhìn vươn ra xa, nhưng sách lược luôn rất cụ thể, rất chu
đáo, qua đó phê phán phiến diện, chung chung, cái thiếu cụ thể, không cần
thiết.

2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về phát triển xã hội, hướng vào cái mới
Trong tư tưởng phát triển của Hồ Chí Minh luôn kế thừa và phát triển.
Người cho rằng phát triển là luôn hướng tới cái mới, đặc biệt là trong cách
mạng là luôn đổi mới “cách tân”, xã hội và con người luôn đổi mới, đòi hỏi
đổi mới phải nắm vững quy luật, xu hướng phát triển của xã hội và con người.
Tất nhiên đổi mới của Hồ Chí Minh về sự phát triển dựa trên cơ sở triết học
mácxít. Phép biện chứng mácxít chỉ ra rằng, bản chất của phát triển là sự vận
động theo hướng đi lên của giới tự nhiên, con người và xã hội. Nguyên lý của
sự phát triển đó là: sự biến đổi về lượng dẫn đến sự chuyển đổi dần về chất,
tạo nên mâu thuẫn trong bản thân sự vật hiện tượng, và sự phủ định của phủ
định, đó là kết quả của quá trình giải quyết mâu thuẫn, tạo nên bước nhảy vọt,
biến sự vật này thành một sự vật khác cao hơn về chất.
Tư tưởng cốt lõi triết học Hồ Chí Minh về một đất nước phát triển
cũng như giải pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện quá trình phát
triển đất nước không chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà nó được hoà quyện vào
trong hành động của Người, được thể hiện ngay trong toàn bộ sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước ta. Để một đất nước có thể phát triển thì


8
điều đầu tiên theo Hồ Chí Minh: đất nước phải được độc lập, dân tộc phải
được tự do. Độc lập, tự do là điều kiện để một dân tộc tự quyết định vận
mệnh và tương lai của mình, đồng thời có thể phát huy toàn bộ nội lực của
sự phát triển.
Có độc lập, tự do là cơ sở, tiền đề tiên quyết bảo đảm cho một đất
nước phát triển là xác định con đường đi đúng đắn của cách mạng. Người
trung thành nguyên lý phát triển mácxít và có sự phát triển nó phù hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa xã hội là
đường đi tất yếu của lịch sử nhân loại. Người viết: “Từ cộng sản nguyên thuỷ
đến chế độ nô lệ, chế độ xã hội phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chế độ xã

hội chủ nghĩa (cộng sản)-nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất
định như vậy. Nhưng tùy theo hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con
đường khác nhau.
Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có
nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội
(cộng sản) - như các nước Đông âu, Trung Quốc, Việt Nam ta,v.v…” 7.
Tư tưởng sâu xa của Hồ Chí Minh không chỉ là sự lựa chọn hướng đi
của dân tộc phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử mà còn phản ánh giá trị
nhân văn trong cách nhìn Hồ Chí Minh. Người xem xã hội, xã hội chủ nghĩa là
hướng đi tối ưu của loài người. Theo Người, “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu
nhân loại, đem lại cho con người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do,
bình đẳng, bác ái,... hoà bình, hạnh phúc’’8.
Chính vì vậy, ngay từ khi đất nước còn chìm đắm trong vòng nô lệ, Hồ
Chí Minh đã quyết chọn con đường cách mạng dân quyền để thực hiện dân
sinh, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, với bản chất nhân đạo và
đầy sức sống của nó, nơi thể hiện lý tưởng cao đẹp của con người, có khả
năng tự tạo ra sức mạnh nội sinh để thúc đẩy xã hội đi lên phù hợp với lý
7
8

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.1995, tr.247
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, tr.461


9
tưởng chân chính của nhân dân Việt Nam. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội đã trở thành nhân tố cơ bản xuyên suốt lý tưởng xây dựng xã hội mới và
triết lý phát triển Hồ Chí Minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa với bản chất và sức sống của nó, theo Hồ Chí
Minh, chỉ thực hiện được trên cơ sở một Nhà nước vững mạnh của dân, do

dân, vì dân. Đó là một Nhà nước do nhân dân làm chủ, Chính phủ là cơ quan
nhà nước tập trung quyền lợi của nhân dân, do nhân dân giao phó vận hành
theo cơ chế pháp quyền, thực hiện mọi trách nhiệm vì cuộc sống của nhân dân.
Sức mạnh của nhân dân, tạo ra sức mạnh xã hội, mọi sức mạnh đều ở dân: “Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”!
Từ nhận thức sâu sắc rằng kinh tế quyết định chính trị, chính trị tập
trung ở kinh tế, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng một nền kinh tế
vững mạnh theo hướng xã hội chủ nghĩa. Lô gíc phát triển thường trực ở Hồ
Chí Minh là trước hết phải làm cho dân “ăn no, mặc ấm” rồi mới đến “học
hành tiến bộ”. Ngay từ ngày đầu đất nước độc lập, Người đã có chủ trương
xây dựng và phát triển kinh tế. Đó là chủ trương thực hiện hợp tác hoá để quy
tụ sức mạnh toàn dân trong xây dựng nền kinh tế mới; cải tạo quan hệ sản
xuất, phát triển lực lượng sản xuất, từng bước công nghiệp hoá, xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng bao trùm và quan trọng
của Hồ Chí Minh là phải có một nền kinh tế vững mạnh do nhân dân lao động
làm chủ để bảo đảm cho đất nước phát triển.
Nếu như kinh tế là nền tảng và là yếu tố hàng đầu của phát triển xã hội
thì văn hoá, khoa học, giáo dục được Hồ Chí Minh xem là nguồn lực nội sinh
từ thượng tầng kiến trúc tác động đến tận hạ tầng cơ sở, tạo nên sự vận động
của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Coi trình độ phát triển của khoa họckỹ thuật tương ứng với trình độ phát triển của xã hội, ngay từ khi nước ta còn
nghèo nàn lạc hậu, Người đã nhấn mạnh phát triển khoa học-kỹ thuật. Theo
Người, chúng ta chỉ có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên một


10
nền khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Chúng ta phải thi đua phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng xuất lao động. Ngay từ kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề tiến hành cách mạng khoa học-kỹ thuật,
từng bước tiến hành công nghiệp hoá đất nước; khoa học-kỹ thuật là then chốt
của công nghiệp hoá, là yếu tố làm tăng sức sản xuất, tạo ra động lực chuyển

biến nền kinh tế xã hội, thay đổi quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội góp phần
làm chuyển chất xã hội và đưa xã hội đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Phát triển khoa học-kỹ thuật tất yếu gắn liền với giáo dục - đào tạo con
người. Con người là nội lực quyết định nhất của lực lượng sản xuất; đó cũng
là chủ thể tạo ra, đồng thời sử dụng khoa học - kỹ thuật, điều hành toàn bộ
quá trình xã hội. Vì vậy, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
đã đặt vấn đề: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội
chủ nghĩa”, những con người “vừa hồng vừa chuyên”. Theo Hồ Chí Minh,
sức mạnh của một dân tộc là tri thức, trí tuệ. “Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”. Phải diệt giặc dốt, giặc đói, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào
tạo nhân tài. Dân trí là điều kiện để thực hiện phát triển văn hoá xã hội, tạo
tiềm năng trí tuệ và sức vươn lên một xã hội nhân văn.
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển xã hội. Người cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống,
loài người mới sáng tạo ra và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” 9. Như vậy, một mặt văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu phấn đấu của xã hội; mặt khác,
văn hoá là yếu tố bên trong thúc đẩy xã hội tiến lên. Ngay từ những ngày
đầu xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh đã đề ra
tư tưởng xây dựng nền văn hoá Việt Nam theo nguyên tắc dân tộc hoá,
khoa học hoá, đại chúng hoá, với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất
9

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr.431


11
dân tộc. Vì theo Hồ Chí Minh, đó là những nguyên tắc giải phóng năng

lượng lớn lao của tuyệt đại bộ phận nhân dân lao động trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tính chất đó của nền văn hoá sẽ phát huy cao độ nội lực
trong việc tiếp thu, tiếp biến các giá trị phổ biến của nhân loại, làm sâu sắc
và đậm đà thêm bản sắc văn hoá Việt Nam, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự
phát triển xã hội.
Sự phát triển xã hội và một xã hội phát triển, theo Hồ Chí Minh, tất cả đều
quy tụ ở vấn đề con người. Mục tiêu phát triển của một xã hội theo hướng nhân
văn là đáp ứng mọi khát vọng chính đáng của con người, tạo điều kiện cho con
người ngày càng phát triển toàn diện, hài hoà như một chủ thể văn hoá. Mặt
khác, xã hội đó lại do chính bản thân con người làm ra với tư cách là chủ thể lịch
sử. Con người vừa là đặt ra mục đích, vừa là người thực hiện mục đích đó. Vì
vậy, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đặt con
người ở vị trí trung tâm. Ở Hồ Chí Minh phát triển không chỉ là các yếu tố tạo
nên động lực phát triển, mà còn là tổng hoà tất cả các mối quan hệ với sự tác
động đa chiều và biện chứng.
Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chỉ có được khi chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam được phát huy cao độ và nâng lên một trình độ mới, một chủ
nghĩa yêu nước cộng sản đầy trí tuệ, tài năng, toàn bộ tinh hoa và khí phách
dân tộc được biến thành hành động. Chủ nghĩa yêu nước gắn với một nền đạo
đức mới, đó là nền đạo đức lấy tiêu chí tiến bộ và nhân văn làm mục đích
phấn đấu.
Sức sống của phát triển lâu bền chỉ có được khi một xã hội phát huy cao
độ được các yếu tố sức mạnh truyền thống và cái mới hiện đại. Sự gắn bó hài
hoà giữa truyền thống và hiện đại, theo Hồ Chí Minh là nguyên tắc của phát
triển. Bởi vì ở đó, tương lai được tiếp sức từ nguồn sống của quá khứ và của hiện
tại. Truyền thống là tinh hoa và sức mạnh kết tụ ngàn đời của một dân tộc. Nó
làm cơ sở cho xã hội truyền thống đi vào hiện đại. Hiện đại nâng cao truyền
thống, đó là sức mạnh và sức bền của phát triển.



12
Ngay từ những năm giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có nhãn quan
khoa học và hiện đại về phát triển, trong đó có những vấn đề mà nhiều lý
thuyết phát triển ngày nay đang đặt ra như phát triển bền vững, phát triển
nhân văn... Những vấn đề về tăng trưởng và phát triển, nội sinh và ngoại lực,
kinh tế và xã hội, vật chất và tinh thần, hiện tại và tương lai, đã được Hồ Chí
Minh đề cập sâu sắc trong quan niệm của Người về bản chất của chủ nghĩa xã
hội và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về nội sinh - ngoại lực, theo Hồ
Chí Minh, chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là do nhân
dân tự làm lấy; phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Về tăng trưởng
và phát triển, Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề không chỉ là sản xuất ra nhiều
của cải vật chất mà điều quan trọng hơn là làm sao nâng cao được chất lượng
sống cho nhân dân. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội mà dân không được
hưởng hạnh phúc thì chủ nghĩa xã hội đó cũng không có nghĩa lý gì!
Đặc biệt, đối với Hồ Chí Minh, mối quan hệ thiên nhiên - con người là
hết sức gắn bó; nó như chỉnh thể tất yếu tự nhiên, không thể chia cắt. Thiên
thời - địa lợi - nhân hoà là điều kiện cho sự ổn định, phát triển và trường tồn.
Trong hệ thống các yếu tố phát triển xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến chủ thể của quá trình phát triển đó chính là có Đảng lãnh đạo. Sự lãnh
đạo của một Đảng chân chính có trí tuệ, bản lĩnh và sáng tạo là yếu tố đầu tiên và
cũng là yếu tố cuối cùng có tính quyết định đối với sự định hướng và xây dựng
một xã hội mới. Bởi theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là Đảng của nhân dân,
của cách mạng; mục đích của Đảng không có gì khác là đem lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, cho nhân dân, cho muôn đời con cháu mai sau. Đó cũng
thực sự là mục tiêu của bất kỳ một triết lý phát triển nào nhằm mục tiêu phát
triển xã hội bền vững.
Ngày nay, chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường vì một xã hội nhân
văn đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất nó là sự thống
nhất sâu sắc trong thực tế phát triển kinh tế với phát triển xã hội; phát triển



13
kinh tế làm nền tảng nhưng không phải là mục đích tự thân, mà vì mục đích
phát triển xã hội. Đó là một xã hội phát triển hài hòa các mặt kinh tế, đạo đức,
văn hóa, thực chất đó là một xã hội đậm đà tình người; ở đó, nó tập trung giải
quyết các vấn đề kinh tế, vấn đề sức khỏe, thể trạng, trình độ học vấn, điều
kiện và phương tiện sống, khả năng hoạt động sáng tạo, nhu cầu văn hóa
phong phú và đa dạng đó chính là một xã hội phát triển bền vững mang tính
nhân văn cao cả. Cũng chính vì vậy công cuộc xây dựng và phát triển xã hội
hôm nay hòa được vào dòng chảy chung của nhân loại, chúng ta được cả cộng
đồng tiến bộ trên thế giới hưởng ứng và ủng hộ.
2.3. Tư tưởng biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn
và lý luận, giữa cái riêng và cái chung
Xuất phát từ lý luận nhân thức trong phép biện chứng duy vật chỉ ra
rằng: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Theo quan điểm của C.Mác: “Ở
mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà nó là sự
thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy”[10]. Nói cách khác, lý luận chỉ được
coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của mỗi dân tộc. Chính
Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước cũng xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
Người đòi hỏi giải quyết những vấn đề đó thông qua con đường thực tiễn.
đòng thời Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò thực tiễn đối với sự hình thành tư duy
lý luận của mình, từ đó Hồ Chí Minh cũng quan niệm: “Lý luận là đem thực
tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so
sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh
với thực tế. Đó là lý luận chân chính
Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
công việc. Không có lý luận thì lúng túng như nhám mắt mà đi”11.
Theo quan niệm đó, Hồ CHí Minh luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của
đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động, lấy

10
11

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, T1, Nxb CTQG, H.1995, tr.582
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, tr.233


14
mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý luận, để
lựa chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh
được giáo điều, rập khuân (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh
để không rơi vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn cái riêng, cái đặc thù).
Học chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học
thuyết cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai
đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách
mạng Việt Nam: Từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải
phóng con người, tức là từ độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp theo, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
nhờ đứng vững trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một
mặt, chúng ta vẫn tranh thủ viện trợ kinh tế và quân sự của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em; mặt khác, chúng ta định ra đường lối và cách đánh
Việt Nam, phù hợp với chiến trường Việt Nam, vì vậy ta đã giành được
thắng lợi vẻ vang; giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Khi miền Bắc từ một nền kinh tế lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình
thức gì, đi theo cấp độ nào để tiến lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề
đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay”12. Người nhắc nhở: “Tuy chúng ta đã có
những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không

thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những
đặc điểm riêng của ta”13.
Đối với Hồ Chí Minh lý luận cách mạng kết hợp chặt chẽ với thực tiễn
cách mạng Việt Nam cũng như thực tiễn cách mạng thế giới, đồng thời luôn bổ
sung lý luận ấy bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Chính vì vậy mà ở người,
thực tiễn- lý luận, lý luận-thực tiễn phải luôn hòa quyện, thống nhất với nhau, tạo
12
13

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1995, tr.494
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1995, tr.499


15
tiền đề cho nhau phát triển. Người dạy mọi người duy vật biện chứng đã đặt thực
hành lên trên hết. Sự hiểu biết không thể rời thực hành. Bác giảng giải Lênin nói
rằng “thực hành cao hơn sự hiểu biết (lý luận), vì đã có tính chất phổ biến, lại có
tính chất thực tế cụ thể”. Quan điểm thực hành là quan điểm chính của duy vật
biện chứng. Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm nổi tiếng về vai trò, vị trí, tác dụng
của lý luận đối với thực tiễn và của thực tiễn đối với lý luận trong hoạt động
của con người. Người viết “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý
luận, lý luận lãnh đạo thực hành”14, ở tập 6 Hồ Chí Minh Toàn tập, trang 251,
Người còn nhân mạnh “không thực hành thì nhất định không hiểu biết”.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động cách mạng của Hồ
Chí Minh không phải là sự thống nhất trên sách vở, trên lời nói mà nó đã thẩm
thấu trong từng bài viết, bài nói chuyện, đồng thời nó đã được chắt lọc và trở
thành cái bản chất tinh túy nhất trong di sản lý luận của người. Ở Hồ Chí Minh
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã trở thành bản chất nội tạng, nét
đặc trưng không thể thiếu trong tư tưởng cũng như trong hoạt động lý luận và hoạt
động thực tiễn của Người.

Hồ Chí Minh còn yêu cầu gắn lý luận với thực tiễn, tránh lý luận suông,
tránh thực tiễn mù quáng, coi trọng thực tiễn nhưng không đồng nhất với thực
dụng; coi trọng học lý luận nhưng không giáo điều, không tầm chương trích cú,
coi việc học tập là phương để tiếp cận thực tiễn. Đồng thời Hồ Chí Minh rất chú
trọng việc tổng kết kinh nghiệm, phê phán chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí.
Đó là biện chứng Hồ Chí Minh trong sử lý mối quan hệ giữa thực tiễn
và lý luận, giữa cái riêng và cái chung.
2.4. Tư tưởng biện chứng trong phát hiện mâu thuẫn và giải quyết
mâu thuẫn
Theo quan điểm Mác xít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, vì mâu thuẫn là
14

Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.1995,tr 247


16
hiện tượng phổ biến của mọi sự vật hiện tượng và đấu tranh để đi tới chuyển hoá
giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển.
Hồ Chí Minh cũng thừa nhận tính phổ biến của mâu thuẫn. Người
viết: “cái gì cũng có mâu thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có sinh
có tử, có quá khứ, có tương lai, có cũ có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn
có trong mọi sự vật” [15].
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên
trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối
kháng và không đối kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện để
nhận thức đúng sự vật. Hồ Chí Minh chính là một bậc thầy trong nhận
thức, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn.
Trong đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp Hồ Chí Minh có phương
pháp phát hiện mâu thuẫn mới, xác định rõ kẻ thù và bạn đồng minh; đồng

thời có cách giải quyết mâu thuẫn trong đề ra chiến lược và sách lược, bước
đi đúng đắn cho mỗi giai đoạn của cách mạng. Vận dụng phép biện chứng
duy vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam đầu thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn vốn có
của xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Từ đó Hồ Chí Minh
xác định nhân dân Việt Nam có hai kẻ thù chính là đế quốc và phong kiến tay
sai; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản
là chống đế quốc giành độc lập dân tộc và chống phong kiến lấy lại ruộng đất
chia cho dân cày.
Mặc dù Người xác định xã hội thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam
có hai mâu thuẫn cơ bản, nhưng trong việc xử lý mâu thuẫn, Hồ Chí Minh
không coi hai mâu thuẫn đó ngang nhau, phải tiến hành song song đồng thời.
Mà Hồ Chí Minh, xác định trong xã hội lúc bấy giờ, mâu thuẫn nổi lên gay
15

. Bài giảng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Ban tuyên
huấn trung ương năm 1950


17
gắt nhất, trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với đế quốc và tay sai, có giải quyết được vấn đề dân tộc thì mới
giải quyết được vấn đề dân chủ. Vì vậy, ngay trong Chính cương vắn tắt năm
1930, Hồ Chí Minh đã chủ trương “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa
làm của công, chia cho dân cày nghèo” mà chưa nêu khẩu hiệu “người cày có
ruộng”. Hội nghị Trung ương 8 tháng năm 1941, dưới sự chủ trì của Hồ Chí
Minh, cũng chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất
của đế quốc, việt gian, đề thêm khẩu hiệu “giảm tô, giảm tức”, chia lại ruộng
công. Làm như vậy, theo Hội nghị phân tích, nếu không đánh đuổi được Pháp

- Nhật, nếu dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu thì vấn đề ruộng đất
cũng không sao giải quyết được. Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lôi
cuốn hàng chục triệu nông dân, dù chưa được chia lại ruộng đất của địa chủ,
nhưng họ vẫn hăng hái cùng với giai cấp công nhân làm nên cuộc cách mạng vĩ
đại, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó là sự thể hiện phương pháp
biện chứng của Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản
và mâu thuẫn chủ yếu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh biết xử lý linh hoạt, phân hóa, thu hẹp, cô lập kẻ thù, nêu
tấm gương về nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn, khai thác mâu thuẫn trong
hàng ngũ của kẻ thù.
Ví dụ: theo quyết định của đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam tháng 7
năm 1945, gần 20 vạn quân Tưởng đổ vào Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở
ra) và hàng vạn quân Anh - Ấn Độ đổ vào Nam Đông Dương với danh nghĩa
đồng minh để giải giáp quân đội Nhật. Núp dưới bóng quân đội Anh, thực dân
Pháp cũng đem quân trở lại xâm lược nước ta. Nếu kể cả quân đội Nhật tuy đã
đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí, thì vào lúc đó, có gần nửa triệu quân nước
ngoài đóng trên đất nước ta. Cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, tình thế
cách mạng Việt Nam lúc này như “nghìn cân treo sợi tóc”. Để bảo vệ thành quả
cách mạng mà nhân dân ta đã giành được, Hồ Chí Minh chủ trương phải phân
hoá kẻ thù.


18
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba thế lực: cánh quân Lư Hán
thuộc đệ nhất chiến khu Vân Nam, cánh Tiêu Văn thuộc đệ tứ chiến khu
Quảng Tây, cánh Chu Phúc Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng
Khánh. Chúng giống nhau về mục tiêu “diệt cộng, cầm Hồ” để dựng lên
chính phủ tay sai, phục vụ cho mưu đồ lâu dài của chúng, nhưng mâu thuẫn
với nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán vốn có tư thù sâu sắc với Tưởng
Giới Thạch và cả với Pháp (vì đã bị Pháp tịch thu mấy chuyến hàng lớn

trên tuyến đường sắt Hải Phòng - Côn Minh), Hồ Chí Minh đã chủ động tới
thăm chúng nhằm tranh thủ Lư Hán; đồng thời, nhượng bộ cho vợ chồng
Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh Chu Phúc Thành. Nhờ
đó, chúng ta buộc họ phải thay đổi thái độ đối với Chính phủ Hồ Chí Minh,
đã sử dụng được lực lượng quân đội Tưởng làm bình phong, ngăn chặn
quân đội Pháp ở miền Nam đang lăm le ra miền Bắc...
Đánh giá sách lược của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này, đồng chí Lê
Duẫn đã viết: “Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đã ghi vào lịch sử cách mạng
nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc” [15].
Đối với mâu thuẫn địch - ta, chỉ có một cách sử lý duy nhất là “Hễ
còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi”.
Còn với mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xuất phát từ quan điểm “hễ
là người Việt Nam thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”, đây là tư tưởng
đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, tranh thủ mọi lực lượng có thể
tranh thủ được để tạo thế có lợi cho ta. Thể hiện nghệ thuật tạo lực, so sánh
lực lượng có lợi để giải quyết mâu thuẫn vào thời điểm ít tổn thất nhất, nhưng
mang hiệu quả nhất. Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng miễn là
không phản lại quyền lợi dân chúng, không làm việt gian, thân Pháp, thân

15

Lê Duẩn, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nxb Sự thật, H.1976, tr.336


19
Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc, không được phép bỏ một lực lượng
nào sẵn sàng phục vụ quốc gia.
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là lấy cái chung, cái tương
đồng để khắc phục cái riêng cái dị biệt; lấy nhân ái, khoan dung để cảm

hoá, lấy nhân nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng, “biến đại
sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”. Người phê phán một số cán bộ
chỉ biết “chia rẽ, bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm
cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hoà thuận với nhau,... quên rằng
lúc này ta phải toàn dân đoàn kết, không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ
nền độc lập, chống kẻ thù chung” 16.
Như vậy, trong mâu thuẫn nội bộ nhân dân (mâu thuẫn không đối
kháng), có mặt thuận và mặt nghịch, bên cạnh mặt mâu thuẫn còn có mặt
thống nhất; để tồn tại trong sự thống nhất, phải biết lấy thuận chế nghịch, lấy
cái chung, cái đồng thuận để khắc phục cái riêng, cái dị biệt. Đó là biện chứng
trong cách sử lý của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống
nhất các mặt đối lập.
Gần đây, có ý kiến cho là Hồ Chí Minh thiên về thống nhất, hòa hợp
các mặt đối lập, giải quyết mâu thuẫn bằng hòa hợp thống nhất. Nói như vậy
là chưa hiểu thật đúng nghệ thuật giải quyết mâu thuẫn của Hồ Chí Minh. Bởi
vì, đối với mâu thuẫn đối kháng, thái độ của Hồ Chí Minh là giải quyết triệt
để. Đúng là khi giải quyết mâu thuẫn Hồ Chí Minh luôn chú trọng tìm cái
thống nhất hợp lý giữa các mặt của mâu thuẫn, phân hóa và thu hẹp mâu
thuẫn đối kháng, tạo điều kiện để “phủ định” mặt đối kháng. Hồ Chí Minh là
con người mẫu mực luôn nắm vững nguyên tắc; về chiến lược thì kiên định,
triệt để về sách lược linh hoạt, khôn khéo. Chính vì vậy Hồ Chí Minh đã dùng
nhiều biện pháp để thêm bạn bớt thù, thay đổi sách lược một khi cục diện thay
đổi, hết sức tranh thủ khả năng giải quyết vấn đề bằng hòa bình, thương lượng
16

. Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995,tr 57


20
với đối phương đến mức cao nhất, thậm chí bằng những nhân nhượng hợp lý

và có giới hạn, có nguyên tắc. Nhưng khi biết kẻ thù đã tỏ ra ngoan cố mưu
toan dùng bạo lực để cướp nước ta thì Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hạ quyết
tâm, phát động toàn quốc kháng chiến để chống lại. Do đó, nói Hồ Chí Minh
cái gì cũng hòa hợp, nhân nhượng là không đúng.
2.5.Tư tưởng biện chứng giữa cái bất biến và cái vạn biến
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của triết học phương
Đông, xuất phát từ quan niệm vạn vật sinh hoá đều do điều lý (quy luật) chi
phối, nếu nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển được mọi biến hoá
của trời đất (hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự được cái vạn
biến, lấy tĩnh chế động, lấy nhu thắng cương.
Phép biện chứng duy vật Mác xít cũng đã đề cập đến mâu thuẫn và
thống nhất, vận động và đứng im, nhưng mối quan hệ giữa bất biến và vạn
biến trong phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc chủ yếu
từ trong triết học phương Đông và Việt Nam. Vậy ta hiểu “dĩ bất biến ứng vạn
biến” mà Hồ Chí Minh nói đến là gì? theo cách nói của triết học có thể hiểu
“bất biến” là quy luật, vì chỉ có quy luật (tự nhiên, xã hội, tư duy) là tồn tại
lâu dài, là hầu như bất biến; còn “vạn biến” là hiện tượng, là sự biểu hiện đa
dạng của quy luật, cho nên có thể dựa vào quy luật mà lý giải hiện tượng hay
ngược lại, từ sự phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra quy luật tương ứng.
Phép biện chứng duy vật thường chú trọng nhiều hơn về trình bày sự
phát triển biện chứng của sự vật, coi mâu thuẫn, vận động là tuyệt đối, thống
nhất, đứng im là tương đối. Trong thực tế vận dụng đôi khi chủ thể lại có phần
coi nhẹ, thậm chí bỏ qua cái “bất biến” (tức là cái thống nhất, cái đứng im vốn
là điều kiện tồn tại của sự vật).
Mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến trên bình diện chính trị là mối
quan hệ giữa chiến lược và sách lược cách mạng. điều này xưa nay đã được
bàn nhiều, thể hiện bản lĩnh chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lúc đất


21

nước ở vào thê hiểm nghèo như những năm tháng giữ vững chính quyền còn
non trẻ của chúng ta sau cách mạng Tháng Tám. thường chúng ta mới suy
nghĩ “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là một nguyên tắc đối ngoại. Nhưng thực sự
phương châm đó hàm chứa nội dung triết học.
Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng mácxít đồng thời cũng chịu
ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông. Người thường bắt đầu từ cái
bất biến để đi tới khả biến của xã hội và con người. Người nói: “Tuy phong
tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau. Ấy là
dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ” 17. Khi nghe một vị uỷ viên Ban vận
động đời sống mới nói cần định ra một cái hướng mới cho cuộc vận động, vì
khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” xem ra vừa không đủ, vừa cổ, thì Hồ Chí
Minh ngắt lời: “cổ, lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ mình ăn cũng
cổ à?”. Theo Người ăn cơm, uống nước, hít thở khí trời, không bao giờ cũ,
xưa nay và sau này đều phải làm; cần, kiệm, liêm, chính cũng vậy.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ dặn lại cụ Huỳnh Thúc
Kháng có một câu: “mong cụ ở nhà: dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Ta hiểu đó là
Người nói đến mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và sách
lược. Mục tiêu của chúng ta là độc lập thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh
phúc của nhân dân đó là điều bất biến; còn phương pháp và sách lược có thể
tuỳ tình hình mà biến hoá đa dạng, thay đổi linh hoạt, mềm dẻo, nhưng không
được xa rời cái bất biến. Người nói: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc,
nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”18.
Thực chất quan hệ giữa bất biến và vạn biến đó là quan hệ giữa cái
“một” và cái “nhiều”, giữa “tất yếu” và ngẫu nhiên”, giữa “tất yếu” và “tự do”
nếu nắm chắc được cái “một”, cái “tất yếu”, thì chủ thể hành động sẽ vững
vàng trong xử lý các tình huống xảy ra trong đời sống xã hội.

17
18


. Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995,tr 350
Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.1995,tr 319


22
Nắm cái bất biến tức cái tất yếu, nguyên lý, quy luật, nguyên tắc để
hành động, đồng thời phải nắm bắt được hoàn cảnh cụ thể, tình huống cụ thể
để xử sự mọi việc không trái với cái bất biến mà linh hoạt, thông thoáng.
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng này một cách có
hiệu quả trong chỉ đạo cách mạng, đưa tới những thắng lợi to lớn chưa từng
có trong lịch sử dân tộc. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: chính sự
kết hợp mà không ai bắt chước được giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị,
giữa tính linh hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận
dụng truyền thống yêu nước với sự phân tích mácxít đã tạo nên tính chất độc
đáo của Hồ Chí Minh.
Khi nói về phong cách lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí
Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chí Minh là bậc thầy trong việc nắm vững quy luật
cách mạng, nắm vững thời thế, từ đó mà phấn đấu giành thắng lợi từng bước,
từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, biết tiến, biết thoái, có lúc thoái một bước để
tiến hai bước, luôn luôn nắm vững mục tiêu từng lúc, kiên trì phấn đấu, tập
trung mọi lực lượng đạt tới mục tiêu đó”19
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì dĩ bất biến không được
quan niệm như chân lý tuyệt đối, mà phải coi là sự thống nhất giữa tính tương
đối và tính tuyệt đối. Cho nên “dĩ bất biến, ứng khả biến “trong ứng xử mọi
việc là phải nắm vững tính biện chứng trong mối quan hệ giữa bất biến và khả
biến, trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Ngày nay, vấn đề nắm vững nguyên lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đối
với chúng ta có ý nghĩa to lớn trong phát huy nội lực cộng đồng và mỗi con
người xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chủ động hội nhập quốc tế trong tình hình

thế giới diễn biến phức tạp, đối tác chuyển hóa nhiều yếu tố khó lường, đảm
bảo cho nước ta là bạn của tất cả các nước, vì hòa bình và phát triển. Đảng và
Nhà nước ta vận dụng nguyên lý trên để vượt qua thử thách, nguy cơ và tập
dụng thời cơ thuận lợi để có tư duy chính trị không chệnh hướng xã hội chủ
nghĩa. Mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa ã hội không bao giờ thay đổi,
nhưng biện pháp tiến hành có sự linh hoạt, mền dẻo phù hợp với xu thế phát
19

Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, báo Nhân dân ngày 1-1-1998


23
triển của thời đại nhằm làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
2.6. Biện chứng về so sánh lực lượng và kết cục chiến tranh trong
chống mỹ cứu nước
Đại thắng mùa xuân năm 1975 mãi mãi sáng ngời trong sử sách, nhân
dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kỳ tưởng chừng như không thể làm
được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử một dân tộc vốn là thuộc địa,
nữa phong kiến, kinh tế kém phát triển đã đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ của
thế giới, chủ yếu bằng sức của mình là chính, nêu một tấm gương anh dũng,
bất khuất, trí tuệ tài năng trước toàn thế giới. Vinh quang đó thuộc về nhân
dân Việt Nam anh hùng, thuộc về Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Lịch
sử ghi nhận công đầu thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người anh hùng
giải phóng dân tộc, nhà chiến lược thiên tài, nhà văn hóa kiệt xuất, đồng thời
Người cũng là nhà dự báo thiên tài về đánh giá so sánh lực lượng và kết cục
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta. Người đã vận dụng thành công phép biện chứng
duy vật để nhận định, đánh giá, phân tích thời cơ, so sánh lực lượng, xác định

hình thức và phương thức tác chiến, có những đối sách đánh trả kẻ thù, làm
chuyển hóa lực lượng có lợi cho ta dẫn đến giành thắng lợi từng bước, đến
tổng phản công giành thắng lợi hoàn toàn.
Tính từng thời điểm mốc lịch sử, sau khi quân và dân ta giải phóng Điện
Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định “Giơ-ne-vơ”, trong khi đó
nhiều người vui mừng chiến thắng, tưởng rằng đất nước hoàn toàn được độc
lập, nhưng Bác Hồ đã kịp thời căn dặn bộ đội ta: “thắng lợi tuy lớn nhưng mới
là bắt đầu” và tại Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II)
Người đã phân tích một cách toàn diện về cục diện chiến tranh, đồng thời xác
định kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong những năm tới, Người giảng


24
giải rằng: “Bây giờ Pháp thì đang nói chuyện với ta, đế quốc Mỹ thì đang biến
thành kẻ thù chính và trực tiếp, mũi nhọn của ta phải chĩa vào đế quốc Mỹ”20.
Quả thật, sau khi Pháp thất thủ, Mỹ nhảy vào miền Nam thế chân
Pháp dựng lên Chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm hòng chống phá cách
mạng nước ta. Mỹ đã dùng đô la, vũ khí- kỷ thuật hiện đại và quân lính
trực tiếp đổ vào miền Nam Việt Nam. Có thời điểm cao nhất quân số lên
gần 50 vạn quân viễn chinh, chúng tưởng có thể đè bẹp được phong trào
cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đó có một số nước anh em kích lệ
chúng ta đánh thắng quân thù, cũng có một số nước anh em chưa thật sự
giúp đỡ ta về vật chất và tinh thần, đồng tình cho ta đánh Mỹ, họ còn
khuyên chúng ta để Mỹ đô hộ. Bởi vì, Mỹ mạnh hơn ta nhiều cả về kinh tế
và quân sự. Trước tình hình đó Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời
khẳng định: “Mỹ giàu nhưng không mạnh”. Đây không phải là một nhận
định chủ quan, duy ý chí, mà là sự phân tích rất biện chứng, đúng đắn, sáng
suốt, một kết luận rất cách mạng và khoa học, trên cơ sở nắm vững quy luật
vận động, phát triển và xu thế tất yếu của cách mạng.
Chủ tịnh Hồ Chí Minh phân tích rất toàn diện và cụ thể sức mạnh của đế

quốc Mỹ: Đúng là trong lịch sử, chưa có đế quốc nào tiềm lực kinh tế, bộ máy
quân sự đồ sộ hiện đại như đế quốc Mỹ, nhưng sức mạnh quân sự ấy của
chúng đặt trên nền móng của một chế độ chính trị-xã hội thối nát với một tập
đoàn thống trị cực kỳ phản động. Chính sách thực dân mới của Mỹ đi trái
ngược trào lưu tiến hóa của lịch sử và bị loài người tiến bộ trên thế giới lên
án. Khi Mỹ xâm lược Việt Nam chúng không có cơ sở chính trị- xã hội sâu
rộng và vững chắc, tuy quân sự của chúng còn mạnh, nhưng chính trị của
chúng lại rất yếu. Đây là một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của chủ
nghĩa thực dân mới rất tàn bạo đối với một dân tộc được cả loài người yêu
mến và quý trọng, lại ở rất xa nước Mỹ, một cuộc chiến tranh không đem lại
lợi ích gì cho nhân dân Mỹ, do vậy chính quyền Mỹ không dễ gì huy động
20

Hoà Chớ Minh. Toaứn taọp, Taọp 7. Nxb, CTQG. Haứ noọi 2002.tr 315


25
được mọi lực lượng, mọi sức mạnh quân sự-kinh tế của nước Mỹ như chúng
mong muốn. Khác với chủ nghĩa thực dân cũ, phương thức xâm lược của chủ
nghĩa thực dân mới phải dấu mặt, trá hình, muốn thống trị, nô dịch các dân
tộc, nhất định Mỹ phải thông qua bọn tay sai rất suy yếu và hoàn toàn bị cô
lập, không được lòng quần chúng nhân dân.
Hơn nữa, Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam, chúng vấp phải một đối
phương có bề dày lịch sử hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm, chưa chịu
khuất phục trước một kẻ thù nào, một dân tộc có tinh thần chiến đấu gan dạ,
dũng cảm, thông minh và sáng tạo, một dân tộc có nền văn hiến lâu đời. Bên
cạnh đó có chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch dẫn đường, có nghệ thuật quân sự
độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, và có tính nhân dân cao cả, vừa
có tính dân tộc sâu sắc, vừa có tính hiện đại ngày càng phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có phương pháp xem xét cách mạng và khoa học

trong giải quyết đúng đắn hàng loạt mối quan hệ phức tạp, hình thành chiến
lược tổng hợp của chiến tranh cách mạng Việt Nam: kết hợp chặt chẽ quân sự
với chính trị, binh vận, ngoại giao; Giữa tiến công và nổi dậy; Giữa khởi nghĩa
và chiến tranh cách mạng; giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy;
kết hợp sức mạnh 3 vùng chiến lược, của tiền tuyến lớn và hậu phương lớn, của
3 nước Đông Dương, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, trong
nước và quốc tế; kết hợp chặc chẽ thế, lực và thời cơ, giữa đánh và đàm, giữa
đánh địch trên chiến trường với tranh thủ đồng tình của nhân dân yêu chuộng
hòa bình thế giới và ở ngay trong lòng nước Mỹ. Tất cả nhằm tạo nên sức mạnh
tổng hợp làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Biến yếu thành mạnh,
chuyển mạnh của địch thành thế bị động, thế cô lập chính là tạo thế mạnh cho
ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm vững phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh quân đội để có quan điểm đường
lối quân sự tiến hành chiến tranh và so sánh lực lượng địch-ta trong từng trận
đánh, từng giai đoạn, trên từng chiến trường. Bác đánh giá, nếu trong điều kiện


×