Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ QUAN hệ GIỮA cá NHÂN và xã hội TRONG tư TƯỞNG đạo đức hồ CHÍ MINH với GIÁO dục đạo đức CHO cán bộ, LÃNH đạo QUẢN lý HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.17 KB, 150 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII nêu rõ: “Quan tâm, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các chuyên gia, trước
hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; coi trọng cả đức và tài, đức là
gốc... Mọi cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình độ mọi mặt,... gương mẫu trong
đạo đức và lối sống, kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung, khi lợi ích
cá nhân mâu thuẫn với lợi ích chung thì phải biết đặt lợi ích chung lên trên hết, “trước
hết” [14, 145]. Thực chất đây là vấn đề đạo đức của người cán bộ cách mạng trong
việc giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện mới ở nước
ta hiện nay. Để thực hiện được yêu cầu đó, trước hết đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên, đặc
biệt là những người giữ vai trò lãnh đạo, quản lý phải nhận thức và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ cá nhân - xã hội, trong đó chủ yếu là mối quan hệ về lợi ích.
Trong xã hội mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội xét đến cùng bị quy định bởi
quan hệ lợi ích xã hội. Tuỳ theo trình độ phát triển của xã hội mà lợi ích cá nhân phù
hợp ít hay nhiều với lợi ích xã hội. Để điều hoà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã
hội cần có sự tham gia của đạo đức. Đạo đức giữ vai trò điều chỉnh động cơ, hành vi
của mỗi cá nhân trong xã hội không đối lập với lợi ích của các cá nhân khác và của cả
xã hội. Tuy nhiên, thực tế lịch sử cho thấy, không phải chế độ xã hội nào cũng xuất
hiện những tư tưởng đạo đức đúng đắn nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ đó. Mỗi
chế độ xã hội có những quan niệm đạo đức riêng của nó để giải quyết mối quan hệ lợi
ích giữa cá nhân và xã hội. Trong các xã hội cũ, đạo đức của giai cấp bóc lột là nhằm
bảo vệ lợi ích của những kẻ cầm quyền thống trị xã hội. Đạo đức đó đề cao tuyệt đối
cái cá nhân, đạt lợi ích cá nhân lên trên hết. Chủ nghĩa cá nhân, do đó đã trở thành
nguyên tắc đạo đức chủ đạo giữ vai trò chi phối đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
Trong xã hội XHCN, đạo đức mới giữ vai trò bảo vệ lợi ích của toàn thể nhân dân lao
động, nó đề cao cá nhân và lợi ích cá nhân nhưng không tách rời với tập thể, xã hội,
giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ hài hoà thống nhất. Đạo đức đó luôn hướng con
người hành động vì lợi ích chung, đặt lợi ích chung lên trên hết trước hết. Do vậy, chủ



nghĩa tập thể với đạo lý “ mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” là nguyên
tắc đạo đức chi phối nhận thức và hành động đạo đức của mỗi cá nhân và toàn thể xã
hội.
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay với việc thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN thì mối quan hệ
cá nhân - xã hội về phương diện lợi ích đang có nguy cơ bị phá vỡ sự hài hoà thống
nhất. Bởi lẽ, cá nhân và lợi ích cá nhân được đề cao quá mức còn tập thể, xã hội và lợi
ích tập thể, xã hội nhiều khi bị lạm dụng vì động cơ của chủ nghĩa cá nhân. Lối sống
cá nhân chủ nghĩa, thực dụng, chạy theo đồng tiền, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân,
xem thường lợi ích tập thể, xã hội đang làm tha hoá không ít người trong đội ngũ cán
bộ đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Đặc biệt là đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý, họ là những người nắm trong tay “quyền” và “tiền”, lại giữ
vị trí then chốt trong các lĩnh vực quan trọng, vì thế sự sa sút đạo đức của họ sẽ là
nguy cơ đáng lo ngại cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Điều đó cho thấy, trong điều kiện
thực hiện nền KTTT ở nước ta hiện nay thì việc nâng cao đạo đức cách mạnh chống
chủ nghĩa cá nhân, trau dồi chủ nghĩa tập thể đang là một yêu cầu bức xúc. ở một bộ
phận cán bộ đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bởi vậy, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (khoá VII) của Đảng đã chỉ rõ: “ Xây dựng đạo đức
cách mạng và lối sống trong sạch của cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế, chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, lối
sống xa hoa, truỵ lạc” [12,62], là một nhiệm vụ cấp bách trong công tác xây dựng đảng
hiện nay.
Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII đã khẳng định, Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động. Điều đó cũng có nghĩa là phải xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề đạo đức
đang nảy sinh trong thực tiễn. Chính vì vậy mà tác giả chọn đề tài: “ Quan hệ cá nhân xã hội trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay” để nghiên cứu là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp bách.



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng là
tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta, cho nên đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều học giả, nhiều tổ chức khoa học trong và ngoài nước từ nhiều năm nay.
Trên thực tế nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã được xuất bản thành sách và công bố trên các báo, tạp
chí trong và ngoài nước. Chẳng hạn, về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có: “Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng” (nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1976); “Chủ tịch Hồ Chí
Minh với vấn đề đạo đức cách mạng” (nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986);
“Hồ Chí Minh về đạo đức” (nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993); “Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Truyền thống dân tộc và nhân loại” (GS. Vũ Khiêu (chủ
biên), nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993); “ Đạo đức, phong cách, lề lối làm
việc của cán bộ công chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (PTS. Thang Văn
Phúc (chủ biên), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998)....Ngoài ra còn rất
nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã được công bố bằng
nhiều hình thức khác nhau mà ở đây không có điều kiện nêu lên. Mặc dù vậy, cuộc đời
và sự nghiệp cùng với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một đề tài hết sức sinh động
phong phú và rộng lớn, dù có bao nhiêu công trình nghiên cứu, bao nhiêu cuốn sách,
bao nhiêu bài báo cũng chưa thể khai thác được đầy đủ trên mọi khía cạnh.
Vấn đề mà đề tài nghiên cứu cũng đã có một số tác giả đề cập từ nhiều góc độ
khác nhau qua nhiều công trình. Ví dụ: Đề tài cấp nhà nước: KX02 - 08 mang tên: “
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” ( Do PGS.PTS Nguyễn Văn Truy, Trung tâm
khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia làm chủ nhiệm đề tài); Đề tài cấp bộ: “Sự biến
đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với xây dựng đạo đức mới
cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” (Do PGS.PTS Nguyễn Chí Mỳ, Khoa triết học
học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài); Đề tài cấp cơ sở:
“Vấn đề nâng cao phẩm chất đạo đức cán bộ trong tình hình hiện nay” (Do PTS. Đàm
Văn Thọ, Viện xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ

nhiệm đề tài)v.v...Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ,
hệ thống về mối quan hệ cá nhân - xã hội và cách giải quyết mối quan hệ đó trong tư


tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những công trình
nghiên cứu, các bài viết đã được công bố của các tác giả, chúng tôi hy vọng sẽ phát
triển, bổ sung thêm kết quả nghiên cứu của mình để làm cho vấn đề này được sáng tỏ,
mang tính hệ thống hơn và có ý nghĩa trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ đảng viên nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng ở nước ta hiện nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin làm sáng tỏ những nội dung cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ cá nhân - xã hội và việc giải quyết
mối quan hệ đó từ góc độ đạo đức của người cán bộ cách mạng, đồng thời đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
- Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ cá nhân - xã
hội và việc giải quyết mối quan hệ này từ góc độ triết học - đạo đức học, lấy đó làm cơ
sở lý luận để tiếp cận tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Hệ thống và phân tích những quan điểm cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh về quan hệ cá nhân - xã hội và việc giải quyết mối quan hệ đó từ góc độ đạo đức
của người cán bộ cách mạng.
- Từ thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong việc giải
quyết mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay.
3.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận án



Luận án không đi sâu nghiên cứu nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Luận án cũng không nghiên cứu quan hệ cá nhân - xã hội trên mọi phương diện, luận
án chỉ tập chung nghiên cứu và phân tích tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về mối quan
hệ cá nhân - xã hội xét về phương diện lợi ích. Đồng thời, luận án chủ yếu nghiên cứu
đạo đức từ góc độ triết học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội tác động đến
nhân cách đạo đức của người cán bộ cách mạng nói chung và người cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói riêng trong việc giải quyết mối quan hệ cá nhân - xã hội về lợi ích, trong
chừng mực có đề cập đến những vấn đề đạo đức học có liên quan.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời có
sử dụng một số kết quả nghiên cứu đã được công bố của các tác giả trong và ngoài
nước có liên quan đến đề tài.
4.2.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận chung
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương
pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp trừu
tượng hoá, khí quát hoá v.v...
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ cá nhân - xã hội mà chủ yếu là mối quan hệ về lợi ích và cách
thức giải quyết mối quan hệ.
- Bước đầu đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần khắc phục sự suy
thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý trong việc giải quyết mối quan
hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội ở nước ta hiện nay.


6. ý nghĩa của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần vào công tác nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh, góp phần vào công tác lý luận và thực tiễn của Đảng ta trên lĩnh vực đạo
đức. Kết quả đó cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy đạo
đức học, công tác tuyên truyền giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, Đảng
viên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm có mở đầu, ba chương với 7 tiết, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.
Chương I
QUAN HỆ CÁ NHÂN - XÃ HỘI VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
CÁ NHÂN - XÃ HỘI TRONG ĐẠO ĐỨC
1.1. QUAN HỆ CÁ NHÂN - XÃ HỘI TRONG ĐẠO ĐỨC
Đạo đức không phải là một khái niệm trừu tượng tồn tại bên ngoài xã hội và cá
nhân. Nó là những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực được xã hội quy định nhằm điều
chỉnh ý thức và hành vi của mỗi cá nhân và toàn thể cộng đồng. Trọng tâm của sự điều
chỉnh ấy chính là đảm bảo mối quan hệ hài hoà, thống nhất giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với xã hội, tạo động lực cho sự phát triển của cả xã hội và cá nhân con
người. Bởi vậy, để có cơ sở cho việc nghiên cứu mối quan hệ cá nhân - xã hội trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ở chương này, luận án xin đề cập đến một số vấn đề cơ
bản nhất về mối quan hệ cá nhân - xã hội và việc giải quyết mối quan hệ đó theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.1.1. Quan hệ cá nhân - xã hội
Cá nhân và xã hội có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, là tiền đề tồn tại của
nhau. Lịch sử phát triển của nhân loại đã khẳng định, trong bất kỳ thời đại nào cũng
tồn tại mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (trong chế độ công xã nguyên thuỷ là quan


hệ giữa các cá nhân thành viên với thị tộc, bộ lạc). Quan hệ này phát triển không
ngừng trong thể thống nhất và đối lập giữa cá nhân và xã hội, ngay từ đầu, cá nhân và
xã hội tồn tại khăng khít với nhau, không có xã hội mà không có cá nhân và ngược lại.
Đặt vấn đề nghiên cứu về mối quan hệ cá nhân - xã hội cũng có nghĩa là phải nghiên

cứu vị trí vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ ấy và sự tác động lẫn nhau giữa
chúng. Để làm rõ điều này, trước hết, cần thống nhất một số quan niệm về cá nhân, tập
thể, xã hội.
- Cá nhân: Khái niệm cá nhân chỉ là điều kiện đầu tiên đánh dấu lĩnh vực đối
tượng của việc nghiên cứu con người. Tuỳ từng góc độ tiếp cận và nghiên cứu khác
nhau về cá nhân. Chẳng hạn, khi xem xét con người với tư cách là một thực thể loài
được cụ thể hoá trong những cá nhân hiện thực, giáo sư A. G. Xpirkin cho rằng: “
Khái niệm cá nhân, thứ nhất, chỉ một cá thể riêng rẽ với tư cách là đại biểu cho loài
sinh vật cao nhất Homosapiens; thứ hai, chỉ một “nguyên tử” đơn nhất, riêng rẽ của
cộng đồng xã hội” [88, 25].
Như vậy, cá nhân được xem xét trong hai loại quan hệ khác nhau, quan hệ với
loài - loài người và quan hệ với xã hội - hình thái tổ chức mà bản thân cá nhân tồn tại
và sinh sống. Ở đây, không đi sâu nghiên cứu cá nhân trong quan hệ thứ nhất, quan hệ
với loài mà chủ yếu nghiên cứu cá nhân ở quan hệ thứ hai, quan hệ với xã hội. Theo
hướng này, nhà đạo đức học G. Bandzeladze viết: “cá nhân - theo Các Mác - không
phải là tinh thần trừu tượng, nó là một thực tại cụ thể, cá nhân trước hết là con người
với bầu máu nóng, là người lính bảo vệ tổ quốc, là thành viên của xã hội, là người cha
của gia đình và cuối cùng điều quan trọng nhất là người công dân” [1, 50]. Điều đó chỉ
ra rằng, mỗi cá nhân luôn tồn tại rất nhiều tư cách đan xen nhau, song trong đó nổi lên
và quan trọng nhất là tư cách một người công dân trong quan hệ đối với xã hội. Đã là
công dân thì buộc cá nhân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với xã hội và ngược lại,
xã hội cũng phải đảm bảo cho mỗi công dân được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của
mình.
Ở nước ta, khái niệm cá nhân cũng được các nhà nghiên cứu đề cập đến từ nhiều
góc độ khác nhau. Chẳng hạn, khi xem xét cá nhân trong mối quan hệ là sản phẩm của


lịch sử xã hội, thì “cá nhân - cá thể người với tư cách là sản phẩm của sự phát triển xã
hội, là chủ thể của lao động, của quan hệ xã hội và của nhận thức. Cá nhân là một con
người hoàn chỉnh trong sự thống nhất giữa khả năng riêng có của người đó với chức

năng xã hội do người đó thực hiện” [70, 119]. Còn khi xem xét cá nhân trong mối
quan hệ vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể các hoạt động xã hội thì “cá nhân là cá thể
người với tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, là chủ thể của lao động, của
mọi quan hệ xã hội và của nhận thức do những điều kiện lịch sử cụ thể của đời sống xã
hội quy định” [68, 175].
Các định nghĩa trên cho thấy, cá nhân là cá thể người, song không phải cá thể
người nào cũng đều là cá nhân. Để có đủ tư cách cá nhân, con người trước hết phải
sống trong một xã hội nhất định và sự phát triển của cá nhân phụ thuộc vào sự phát
triển xã hội, vào những điều kiện xã hội quy định, cá nhân là sản phẩm của xã hội. Mặt
khác, cá nhân không chỉ là những sản phẩm thụ động của xã hội mà quan trọng hơn, cá
nhân còn là chủ thể các hoạt động xã hội, chính cá nhân là người sáng tạo ra xã hội, cả
tạo hoàn cảnh xã hội ngày càng tốt đẹp hơn nhằm đáp ứng nhu cầu sống của bản thân
cá nhân. Chính vì thế mà C. Mác cho rằng “Bản thân xã hội sản sinh ra con người với
tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản sinh ra xã hội như vậy” [84,
130].
Để có một quan niệm thống nhất về cá nhân, theo chúng tôi có thể định nghĩa
như sau: Cá nhân là một phạm trù triết học dùng để chỉ cá thể người với tư cách là
thành viên của xã hội, là sản phẩm đồng thời là chủ thể của hoạt động, của mọi quan
hệ xã hội do những điều kiện lịch sử cụ thể của đời sống xã hội quy định.
Ở đây, cá nhân cần phải được xem xét trong các mối quan hệ sau: Thứ nhất: Cá
nhân là sự tồn tại cảm tính, cụ thể của giống loài, là phần tử đơn nhất tạo thành xã hội,
đồng thời là thành viên của xã hội. Thứ hai: Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ
trong quan hệ với xã hội, cho nên nó là sản phẩm của xã hội. Nhưng xã hội thay đổi
theo tiến trình lịch sử, nên cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi thời đại sinh
ra là một kiểu cá nhân đặc trưng, do điều kiện lịch sử - cụ thể của đời sống xã hội quy
định. Thứ ba: Cá nhân là chủ thể của hoạt động thực tiễn tức là chủ thể của các quá


trình hoạt động sáng tạo nhằm tạo tự nhiên và xã hội. Do đó cũng là chủ thể của mọi
quan hệ xã hội. Thứ tư: Cá nhân là sự thống nhất của những yếu tố và đặc điểm riêng

biệt với các chức năng và chuẩn mực xã hội chung, được biểu hiện sinh động và cảm
tính qua từng cá thể, trong sự chế ước của điều kiện và hoàn cảnh lịch sử - xã hội.
Khái niệm cá nhân cũng cần được phân biệt với khái niệm cá tính và khái niệm
nhân cách.
Cá tính dùng để chỉ cái đơn nhất, không lặp lại trong tâm - sinh lý cá thể người.
Nói cách khác, cá tính là sự biểu hiện nội dung riêng biệt mang tính đặc thù của mỗi cá
nhân, không lặp lại và cái biểu hiện cảm tính sự khác biệt cá nhân này với cá nhân
khác. Nhưng không thể đồng nhất cá tính với cá nhân, vì nó mới chỉ biểu hiện cái riêng
biệt, cái đơn nhất mà chưa nói lên cái tương đồng, cái chung trong con người.
Khái niệm nhân cách khác khái niệm cá nhân ở chỗ: Nhân cách - đó là trung tâm
cá nhân và là sự biểu hiện những quan hệ và chức năng xã hội của con người, là chủ
thể nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn
mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực xã hội khác [88, 26]. Nói cách khác, nhân
cách, đó là sự thống nhất giữa đức và tài, giữa mặt cá nhân với mặt xã hội ở mỗi cá
nhân con người cụ thể, là thái độ ứng xử của mỗi con người đối với mối quan hệ đa
chiều với hiện thực khách quan. Những phẩm chất nhân cách con người là phát sinh từ
lối sống xã hội và từ khả năng tự ý thức của họ, vì vậy cá nhân bao giờ cũng có con
người đã phát triển về mặt xã hội. Nó là sự phân biệt giữa các cá nhân và bản sắc độc
đáo của con người trong mỗi cá nhân. Cá nhân bao giờ cũng mang nội dung, bản chất
của cá thể trong cộng đồng xã hội. Do đó, đề cập đến phạm trù cá nhân phải hiểu rõ đó
là nhân cách con người thể hiện trong mỗi cá nhân, là chỉnh thể toàn vẹn của mọi mối
quan hệ. Nhân cách là đặc trưng bản chất cá nhân trong mỗi giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử. Nó là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong của mỗi cá
nhân, với đặc điểm riêng về di truyền, về sinh lý, về gia đình, về hoàn cảnh sống... Mỗi
cá nhân tồn tại, tiếp thu và chuyển hoá những giá trị văn hoá của xã hội vào bản thân
mình, thực hiện quá trình lọc bỏ, tiếp nhận, tự đánh giá, tự giáo dục để tạo nên thế giới
riêng. Quá trình đó hình thành trong cá nhân các yếu tố về động lực, lợi ích, lòng tin,


định hướng giá trị trong xúc cảm, niềm tin và hành động thực tiễn. Với nhân cách độc

đáo, riêng biệt, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của
mình, lựa chọn chức năng và trách nhiệm trong cộng đồng xã hội. Thành phần đặc biệt
của nhân cách là đạo đức, vì vậy cần phải thấy rằng, đạo đức là phẩm giá cơ bản của
con người, của nhân phẩm, là cái cốt lõi để hình thành nhân cách.
- Xã hội: là một thuật ngữ rất thông dụng để chỉ một tập hợp hay cộng đồng con
người có những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội chặt chẽ với nhau. Có nhiều
quan niệm khác nhau về xã hội, chẳng hạn có quan niệm về xã hội theo hai nghĩa rộng
và hẹp.
“Theo nghĩa rộng, xã hội được hiểu là một bộ phận của thế giới vật chất tách
khỏi giới tự nhiên; là nấc thang phát triển cao nhất của hệ thống sống, là hình thức phát
triển của hoạt động sống của con người”.
“Theo nghĩa hẹp, xã hội được hiểu là một kiểu hệ thống xã hội cụ thể trong lịch
sử (những hình thái kinh tế - xã hội) hoặc là những xã hội riêng biệt, cụ thể” [46,3].
Như vậy, nghĩa rộng, xem xét xã hội trong mối quan hệ với giới tự nhiên, là “bộ
phận” của tự nhiên, xem nó là nấc thang phát triển cao nhất của các hệ thống sống
trong thế giới tự nhiên và là hình thức phát triển của hoạt động sống của con người.
Nghĩa hẹp, lấy hình thái kinh tế - xã hội là tiêu chí cơ bản để phân biệt các kiểu xã hội
tồn tại trong lịch sử.
Một quan niệm khác: xã hội là “hình thức sinh hoạt chung có tổ chức của loài
người ở một trình độ phát triển nhất định của lịch sử, xây dựng trên cơ sở một phương
thức sản xuất nhất định” [82, 1100]
Theo chúng tôi, xã hội mà chúng ta nghiên cứu ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp,
vì vậy có thể quan niệm: “xã hội là một hình thức tổ chức cụ thể của loài người ở một
trình độ phát triển nhất định của lịch sử, xây dựng trên cơ sở một phương thức sản
xuất nhất định. Xã hội là quan hệ người - người.


Chúng ta đều biết, lịch sử hình thành xã hội không tách rời lịch sử hình thành
bản thân con người. Sự hình thành con người và sự hình thành xã hội là hai mặt của
quá trình thống nhất, liên hệ với nhau và quy định lẫn nhau. Do vậy, ở một trình độ

phát triển nhất định, thông qua một phương thức sản xuất cụ thể, sẽ xuất hiện một kiểu
tổ chức xã hội tương ứng của con người. Có thể nói, sự hình thành con người là sự
hình thành những quan hệ xã hội và do đó cũng là sự hình thành xã hội. Nhưng xã hội
bao giờ cũng chỉ tồn tại dưới một hình thái lịch sử cụ thể.
Như vậy, không có con người thì không có xã hội. Đặc trưng của xã hội ngoài sự
hiện diện của tập hợp, cộng đồng người còn có mối liên hệ những con người, và những
bộ phận khác nhau trong đó thành một hệ chỉnh thể duy nhất. Những mối liên hệ này
được tái tạo trong hoạt động của con người và mang tính bền vững đến mức nhiều thế
hệ con người thay thế nhau mà hình thức của những liên hệ, đặc trưng cho một xã hội
cụ thể vẫn tồn tại. Vì vậy, C. Mác viết “ Xã hội không phải là những cá thể người, mà
biểu hiện tổng số những mối liên hệ và quan hệ của chúng, trong đó những cá thể đó
tồn tại với nhau”. [46,4]
- Tập thể: Trong xã hội, mỗi cá nhân thường thuộc về một tập thể nhất định. Mỗi
cá nhân đều hành động với tư cách một thành viên của một tập thể nào đó. Nó phải hoà
nhập vào tập thể và hành động theo những yêu cầu của từng tập thể nhất định. Vậy tập
thể là gì? Theo tác giả Nguyễn Hải Khoát thì: “Tập thể là một nhóm người thống nhất
với nhau theo những mục đích chung phục vụ tiến bộ xã hội như cơ quan, đoàn thể,
các tổ đôi lao động...”[31,24]. Hoặc: “Tập thể là tập hợp những người có quan hệ gắn
bó, cùng sinh hoạt, cùng làm việc chung với nhau” [82,869]. Theo từ điển triết học,
khái niệm tập thể được qui về những đặc điểm sau: “Liên kết các cá nhân trên cơ sở
những nhiệm vụ chung nào đó; cùng nhau hoạt động và tương trợ; tiếp xúc thường
xuyên với nhau trên mức độ nhất định; có tổ chức nhất định” [83,525].
Từ đó có thể rút ra những dấu hiệu đặc trưng của tập thể như sau: Tập thể là một
nhóm người có quan hệ gắn bó, tương trợ lẫn nhau, có chung một mục đích hoạt
động; có một tổ chức chặt chẽ, có cơ quan quản lý của mình và hoàn thành chức năng
nhất định do xã hội quy định. Như vậy là trong một tập thể mọi người có lợi ích chung


giống nhau. Tất nhiên cần phải phân biệt, cũng là một nhóm người có tổ chức chặt chẽ,
nhưng chỉ hoạt động vì lợi ích riêng thì không phải là tập thể mà là phường hội.

Tập thể được xem là tổ chức trung gian giữa cá nhân và xã hội. Chỉ có thông
qua tập thể mỗi cá nhân vơi tư cách là thành viên mới gia nhập vào xã hội. Tập thể là
“tế bào” của cơ thể một xã hội hoàn chỉnh, nó là xã hội với quy mô thu nhỏ, chính ở
đây cá nhân và xã hội trực tiếp tác động lẫn nhau. Đối với cá nhân, xã hội vừa là tổng
thể những điều kiện xã hội của đời sống cá nhân vừa là kết quả của tất cả các tập thể
trung gian, có nghĩa là sự phát triển của bản thân cá nhân, vì chính cá nhân là thành
viên của mỗi tập thể đó. Song cá nhân không bị hoà tan trong xã hội, một mặt nó giữ
lại nét độc lập không lặp lại của cá tính; mặt khác nó đóng góp phần của mình vào đời
sống của chỉnh thể xã hội.
Cá nhân, tập thể, xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, là tiền đề phát
triển của nhau. Trong khi xem xét quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội thì cá
nhân thường được xem là mặt đối lập của tập thể và xã hội.
- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội, theo C.Mác: “xã hội - bất cứ dưới hình thái
nào - là gì? nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người và người” [48,788].
Xã hội không phải chỉ là tổng số của các cá nhân độc lập tách rời nhau mà xã hội bao
giờ cũng là sản phẩm của các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với
nhau.
Con người vơi tư cách cá thể loài, chỉ có thể tồn tại và phát triển với tư cách con
người trong những mối quan hệ chặt chẽ với những người khác, những mối quan hệ xã
hội. Cho nên có thể xem con người như là một thực thể sinh vật - xã hội. Trong quá
trình vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người, con người với tư cách cá nhân,
luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ thống nhất biện chứng: cá nhân - xã
hội. Trong mối quan hệ đó, cá nhân vừa là sản phẩm của sự phát triển xã hội, vừa là
chủ thể chân chính sáng tạo của xã hội.
Xã hội bao giờ cũng là môi trường, điều kiện và phương tiện để phát triển cá
nhân. Hoàn cảnh xã hội tạo nên con người. Không có môi trường xã hội thì không có


cá nhân phát triển. Môi trường xã hội cũng được đặt trong từng giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử, với những tiền đề kinh tế - xã hội mang tính lịch sử. Do đó

không có cá nhân chung chung, trừu tượng cho mọi chế độ xã hội khác nhau, mọi giai
đoạn lịch sử khác nhau. Cá nhân bao giờ cũng có tính lịch sử - xã hội cụ thể. Bởi vậy,
xã hội tiến bộ là xã hội phải tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự phát triển toàn
diện của cá nhân. Sự phát triển cá nhân là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự tiến bộ của
xã hội.
Từ đó có thể thấy rằng, hoàn cảnh xã hội là điều kiện chủ yếu để hình thành cá
nhân. Hoàn cảnh xã hội càng có tính người bao nhiêu thì nhân cách cá nhân càng được
phát triển hoàn thiện bấy nhiêu. Trái lại, cá nhân sẽ bị kìm hãm, bị tha hoá trong một
hoàn cảnh phi nhân tính. Vì thế, con người càng mong muốn tiến tới tự do cho mình
bao nhiêu thì càng phải cải tạo hoàn cảnh một cách sâu sắc và triệt để bấy nhiêu. Sự
phong phú của mỗi cá nhân sẽ tuỳ thuộc vào sự phong phú của mối liên hệ giữa cá
nhân với thế giới khách quan, bao gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Xã hội
càng văn minh bao nhiêu thì sản phẩm của nó - cá nhân con người càng tiến tới làm
chủ, sáng tạo và tự do bấy nhiêu.
Nhưng mặt khác, con người không phải là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh.
Trái lại bằng sức mạnh trí tuệ và năng lực thực tiễn, con người đã tác động trở lại đối
với hoàn cảnh, chiếm lĩnh, làm chủ và cải tạo hoàn cảnh. Nhờ khả năng sáng tạo của tư
duy trí tuệ và hành động thực tiễn, cá nhân con người tự biểu hiện, tự khẳng định với
tư cách con người xã hội trong sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, giữa tự nhiên và
lịch sử, giữa chủ thể và khách thể. Hoàn cảnh xã hội không thể tự nó thay đổi , mà phải
thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua hành động cách mạng của con người. Cho
nên với tư cách là chủ thể sáng tạo, con người đã tác động đến xã hội, cải biến hoàn
cảnh không phải ở những ước muốn chủ quan mà căn bản và trước hết là ở năng lực
hành động thực tiễn của chính bản thân mình. Đó cũng là yêu cầu cơ bản và trước hết
của cá nhân với vai trò là chủ thể của xã hội, là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển.
Động lực để thúc đẩy vai trò của cá nhân đối với xã hội chính là nhu cầu, mà nhu cầu
của con người thì vô cùng phong phú và đa dạng, bao gồm cả nhu cầu về vật chất và
nhu cầu về văn hoá tinh thần. Bởi vậy, nhu cầu cá nhân là động lực thúc đẩy sự phát



triển xã hội theo hướng đa dạng hoá và ngày càng phát triển. Sự thôi thúc thoả mãn
nhu cầu và sự tác động của lợi ích đã nảy sinh tư duy sáng tạo của cá nhân, thúc đẩy
con người hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Tất nhiên đối với cá nhân, con người
không chỉ có nhu cầu hưởng thụ mà còn có nhu cầu cống hiến. Khả năng cống hiến
của con người tuỳ thuộc vào sự kích thích lợi ích đúng đắn, vào môi trường kinh tế xã hội, vào thể chế chính trị, pháp luật và đạo đức, vào đặc điểm của thể chất và tinh
thần của mỗi cá nhân.
Có thể nói, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một quá trình tác động lẫn nhau
một cách biện chứng, trong đời sống hiện thực giữa con người và hoàn cảnh. Về bản
chất đây là một quá trình hai mặt: một mặt, cá nhân là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội,
cho nên xã hội phải tạo môi trường, điều kiện cho cá nhân phát triển; mặt khác, với tư
cách là chủ thể của xã hội, cá nhân không ngừng rèn luyện, phấn đấu vươn lên để làm
chủ hoàn cảnh, tích cực hoạt động để cải tạo xã hội. Đó là sự biểu hiện của mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội trong lĩnh vực đạo đức.
1.2.2. Quan hệ cá nhân - xã hội trong đạo đức thực chất là quan hệ lợi ích
Trong đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và
giải quyết nhằm bảo đảm cho mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội được hài hoà và
thống nhất. Là một hiện tượng xã hội, đạo đức nảy sinh do sự tất yếu phải làm sao cho
hành vi mỗi người với tư cách là thành viên và lợi ích của toàn xã hội.
Xét về phương diện xã hội cũng như phương diện hành vi của mỗi cá nhân, đạo
đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử và hành vi của con người, đem lại lợi ích cho người
khác và cho xã hội. Những chuẩn mực đạo đức ra đời và tồn tại một cách khách quan
trong cuộc sống, nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi của con người.
Xét về phương diện nội dung, đạo đức là phản ánh của tồn tại xã hội, bị quy định
bởi tồn tại xã hội. Những thời đại khác nhau, những cộng đồng người khác nhau có
những hệ thống đạo đức khác nhau, do chúng có những tồn tại xã hội khác nhau. Tồn
tại xã hội biến đổi thì đạo đức nhất định cũng biến đổi theo. Như vậy, với ý nghĩa là
một hình thái ý thức phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức chẳng qua chỉ là tồn tại được


nhận thức. Điều đó là cơ sở để giải thích tại sao những quan điểm về cái thiện và cái

ác, về nghĩa vụ và lương tâm... là khác nhau, thậm chí đối lập nhau ở những cá nhân,
những thời đại và những cộng đồng người khác nhau.
Nội dung trên được thể hiện dưới hình thức những tư tưởng quan niệm, khái
niệm, kinh nghiệm đạo đức và một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực
nhằm quy đinh và điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Những quy định, điều chỉnh đó, nó không phải là sự áp đặt tuỳ tiện theo ý
muốn chủ quan của giai cấp thống trị mà dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội, lợi ích
kinh tế, thiết chế chính trị - xã hội nhất định. Nó là sự biểu hiện những quan hệ kinh tế
cơ bản của phương thức sản xuất thống trị trong xã hội thời đường. Tuy nhiên, nếu
không có bước chuyển hoá từ những quy định của xã hội thành ý thức tự giác của
những cá nhân, nghĩa là nếu không biến những “mệnh lệnh” xã hội thành đòi hỏi tự
giác của chủ thể thì cũng chưa thành đạo đức. Vì vậy, có thể nói “điểm xuất phát của
đạo đức là từ xã hội, song điểm kết thúc của tất cả các biểu hiện đạo đức là ở hành vi
cá nhân” [37,12]. Nếu bị ép buộc phải hành động cho có đạo đức, phải miễn cưỡng
hành động dưới sự thúc ép và cưỡng chế của người khác để cho có đạo đức thì ý nghĩa
của đạo đức đã bị tước bỏ. Về nguyên tắc, hành vi đạo đức là hành vi tự giác, đó là
một tất yếu được nhận thức. Biến cái tất yếu khách quan của lịch sử thành đòi hỏi tự
giác chủ thể trong hành động đó là đạo đức chân chính theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Để đi đến một định nghĩa về đạo đức có thể điểm qua một số quan niệm khác
nhau về nó. Theo nhà đạo đức học G. Bandzeladze: “Đạo đức của con người là năng
lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã hội” và “nơi nào không
có hành động tự nguyện tự giác của con người thì nơi ấy không thể có nhân phẩm,
không thể thực sự có đời sống xã hội. Đặc trưng của đời sống con người và bản thân
tính người (hoặc nhân phẩm) là ở đạo đức và nội dung đạo đức chính là năng lực phục
vụ tự nguyện, tự giác lợi ích của người khác và toàn thể xã hội” [1, 48]. Từ đó ông
định nghĩa: “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện
tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói
chung” [1, 104]. Theo quan niệm này, bản chất của đạo đức là sự quan tâm tự giác của



những con người đến lợi ích của nhau, và lợi ích của xã hội. Do vậy, sự quan tâm tự
giác đến hạnh phúc của những người khác có tính chất tự nguyện - đó là hành vi đạo
đức của con người, nó khác với hành động bản năng của loài vật. Còn Giáo sư A.G.
Xpirkin cho rằng đạo đức là: “ Hệ thống những chuẩn mực xã hội điều chỉnh sự giao
tiếp giữa các cá nhân và hành vi con người nhằm bảo đảm sự thống nhất lợi ích của cá
nhân và tập thể” [88,84]. Với quan niệm này thì đạo đức chính là cái “công cụ” để điều
chỉnh mối quan hệ người - người nhằm tránh khỏi những xung đột về lợi ích giữa cá
nhân với cá nhân giữa cá nhân với xã hội.
Ở nước ta, trong cuốn “Giáo trình đạo đức học” xuất bản năm 1997 định nghĩa:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống những quan
điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và
biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội” [32,12].
Từ những định nghĩa trên cho thấy, thứ nhất, với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức bao giờ cũng bị chi phối bởi điều kiện kinh tế,
xã hội và lịch sử. Thứ hai, đạo đức với tư cách là hành vi của con người, nó hoàn toàn
mang tính chất tự nguyện, tự giác không chịu sự ép buộc nào, cho nên những yêu cầu
của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm không trừ một ai. Do đó, đòi hỏi chủ
thể phải có ý thức tự giác cao trong nhận thức và trong hành động, đây chính là nét đặc
trưng của đạo đức, đồng thời nó cũng phản ánh cái “đặc biệt” của đạo đức. Thứ ba,
tiêu chuẩn giá trị đạo đức phải phù hợp với một mối tương quan giữa lợi ích chung của
xã hội và lợi ích riêng của cá nhân trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Như vậy, có thể quan niệm về đạo đức như sau: Đạo đức là một phương thức
điều chỉnh mối quan hệ cá nhân - xã hội, nó bao gồm một hệ thống những quan điểm,
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, điều chỉnh hành vi của con người mang tính tự nguyện,
tự giác trong mối quan hệ với người khác và với xã hội nói chung, điều chỉnh mối
quan hệ về lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội trong những giai
đoạn lịch sử nhất định.



Qua đó cho thấy đạo đức xuất hiện như là một nhu cầu tất yếu khách quan của
lịch sử xã hội loài người. Đạo đức có các chức năng chủ yếu là giáo dục, nhận thức và
điều chỉnh hành vi của con người. Chính nhờ có các chức năng đó mà con người có
khả năng giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - xã hội, đặc biệt là quan hệ lợi ích.
Lợi ích là khái niệm nói lên đặc điểm của cái có ý nghĩa khách quan, cần thiết
cho cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung [83,332]. Người ta
cũng phân biệt một cách tương ứng lợi ích cá nhân (hay lợi ích riêng) và lợi ích tập
đoàn, lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, lợi ích xã hội (hay lợi ích chung). Lợi ích, xét
theo nghĩa rộng, bao hàm cả quan hệ về vật chất và quan hệ về tinh thần trong đời sống
con người. Lợi ích có quan hệ chặt chẽ với nhu cầu của con người. Không có nhu cầu
hưởng thụ những giá trị về vật chất và tinh thần thì lẽ tất nhiên con người không cần
đến lợi ích, vì nhu cầu mà con người cần có lợi ích. Lợi ích là cái biểu hiện cụ thể, là
phương thức thực hiện nhu cầu con người, chính điều này khiến cho nhu cầu và lợi ích
trở thành những phạm trù cùng loại. Vậy thực chất lợi ích là gì? Nếu xét từ góc độ nội
dung của khái niệm, thì đó là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Nhưng nếu
xét từ phương diện bản chất khái niệm với tư cách là một mối quan hệ xác định, thì lợi
ích là mối quan hệ giữa chủ thể - con người có nhu cầu với các sự vật và hiện tượng
của thế giới bên ngoài họ có thể thoả mãn nhu cầu đó. Ngoài ra, lợi ích còn được
người ta nhận thức từ phương diện hành động của chủ thể. Khi đó, lợi ích là một nhân
tố của quá trình hoạt động thực tiễn - xã hội của con người hướng tới một cái gì đó có
ý nghĩa đối với họ.
Có thể hiểu rằng lợi ích là sự biểu hiện cụ thể của các mối quan hệ xã hội. Nó
được biểu hiện đa dạng, phong phú từ lợi ích kinh tế đến lợi ích chính trị, văn hoá, xã
hội; từ lợi ích cá nhân đến lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; từ lợi ích trực tiếp đến lợi ích
gián tiếp; từ lợi ích vật chất đến lợi ích tinh thần, trong đó lợi ích kinh tế thường được
xem là hạt nhân, là cơ sở của toàn bộ hệ thống các lợi ích xã hội, tác động quyết định
đến các mặt khác của đời sống xã hội.
Bản thân lợi ích mang tính khách quan, vì nó là cái đáp ứng nhu cầu của chủ thể

- con người trong đời sống hiện thực. Nó là mặt tất yếu khách quan không thể thiếu


được trong đời sống cá nhân và toàn thể xã hội. Nó cũng là phương thức đê thực hiện
các nhu cầu xã hội của cá nhân, là động lực trực tiếp và quyết định nhất để tạo nên sự
phát triển của mỗi xã hội và cá nhân. Đồng thời nó còn là đòn bẩy kích thích mạnh mẽ
xu hướng, hứng thú và năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân, dù trong bất cứ giai đoạn
lịch sử nào.
Lợi ích là sự tồn tại hiện thực của quan hệ giữa người với người trong đời sống
xã hội. Nó không phải là sản phẩm thuần tuý của ý thức mà là sản phẩm của ý thức
phản ánh những điều kiện xã hội khách quan, quyết định ý chí và hành động của con
người. Do đó, không thể tách lợi ích ra khỏi các quan hệ giai cấp và điều kiện lịch sử
cụ thể.
Xã hội là một hệ thống lớn được tạo nên từ những cá nhân cụ thể. Nói cách khác,
do lợi ích và thông qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân mới tập hợp, liên kết lại
với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành xã hội. Vì vậy, đây là những con
người hiện thực, xuất phát từ những điều kiện thực hiện khách quan, có nhu cầu, hứng
thú, năng lực rất khác nhau. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Chúng ta không xuất phát từ
những điều mà con người nói, tưởng tượng, hình dung, cũng không xuất phát từ những
con người chỉ tồn tại trên lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng
của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt; không,
chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và cũng chính là
xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của
những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy” [48, 277].
Những con người hiện thực cụ thể này không tồn tại một cách độc lập, hoàn toàn biệt
lập, mà vì sự sống còn của mình họ có nhu cầu liên kết với nhau. Sự hợp tác, liên kết
đó làm nảy sinh nhu cầu chung. Nhưng do mỗi con người cụ thể có những nhu cầu
riêng, lợi ích riêng, không ai giống ai, có thể phù hợp hay không phù hợp, thậm chí đối
lập với lợi ích xã hội, nên việc giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và
xã hội có vai trò và ý nghĩa to lớn. Nó đóng vai trò là cơ sở, động lực cho sự phát triển

quan hệ cá nhân - xã hội, và cũng có thể làm triệt tiêu sự phát triển đó, nếu giải quyết
không đúng quy luật của quan hệ lợi ích. Do vậy, trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, cần tránh sai lầm khi thấy sự thống nhất mà không thấy sự khác biệt giữa các loại


lợi ích, hoặc chỉ thấy sự khác biệt mà không thấy sự thống nhất giữa chúng. Tuyệt đối
hoá một trong hai mặt trên của mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội đều dẫn đến
sai lầm. Vấn đề là sự phát triển xã hội và lịch sử nói chung chỉ có thể diễn ra bình
thường, lành mạnh, đi đúng quy luật, khi cá nhân mỗi người nhận thức tự giác mối
quan hệ cá nhân - xã hội xét trên phương diện lợi ích. C.Mác đã chỉ rõ: “Chừng nào
con người còn ở trong một xã hội hình thành một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn
có sự chia cắt giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, do đó chừng nào còn có sự phân chia
hoạt động còn được tiến hành không phải một cách tự nguyện mà một cách tự nhiên
thì chừng đó hành động của bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối
lập với con người, và nô dịch với con người, chứ không phải bị con người thống trị”
[48,295]. Vì vậy, sự thống nhất biện chứng của lợi ích trong quan hệ cá nhân - xã hội
chính là cơ sở, là động lực để thúc đẩy cá nhân hành động.
Trong các loại lợi ích, lợi ích cá nhân có vai trò to lớn, vì nó trực tiếp đáp ứng
nhu cầu của con người. Lợi ích cá nhân mang tính chất trực tiếp, cụ thể, còn lợi ích
tập thể, xã hội thì mang tính chất gián tiếp. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, mỗi con
người bao giờ cũng hành động vì lợi ích của bản thân mình trước. Có thể nói lợi ích cá
nhân đóng vai trò là cơ sở, là động lực trực tiếp kích thích tính tích cực của con người.
Còn lợi ích tập thể và xã hội thể hiện vai trò động lực của nó thông qua lợi ích của mỗi
cá nhân.
Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội chỉ có thể được thực hiện đúng
đắn khi quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội được giải quyết một cách hài hoà. Để có
sự hài hoà đó cần phải có vai trò điều chỉnh của đạo đức, đúng như C.Mác viết: “Nếu
như lợi ích, hiểu một cách đúng đắn, là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức, thì điều quan
trọng là phải ra sức là cho lợi ích riêng tư của con người phù hợp với lợi ích của loài
người” [48,174].

- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và
xã hội.
Giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân luôn tiềm ẩn một mâu thuẫn nhưng nó
không phải là mâu thuẫn đối kháng. Điều đó cho phép xã hội và cá nhân điều chỉnh


mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Nguyên tắc của sự điều chỉnh này là
làm sao cho lợi ích cá nhân phải phù hợp với lợi ích xã hội, phục vụ vào lợi ích xã hội.
Vì thế, đạo đức trở thành một trong các phương thức quan trọng điều chỉnh mối quan
hệ cá nhân - xã hội, mà thực chất là tạo nên mối quan hệ hài hoà thống nhất giữa lợi
ích riêng và lợi ích chung.
Nhằm đảm bảo lợi ích chung, xã hội đòi hỏi mỗi cá nhân phải tôn trọng, khẳng
định và bảo vệ lợi ích xã hội. Để những hoạt động của cá nhân không vượt ra khỏi
những giới hạn xã hội, xã hội đưa ra những nội dung ngăn cấm, kiêng kỵ những hành
vi xâm phạm, phá hại lợi ích xã hội. Những nội dung này được thể hiện ra ở ý thức xã
hội, trong các quan điểm, quan niệm, kinh nghiệm, trong các nguyên tắc và chuẩn mực
hành vi, trong xúc cảm, tình cảm và trạng thái tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân. Nói
cách khác, nó biểu hiện ra ở ý thức đạo đức của xã hội và cá nhân. Trong ý thức đạo
đức, các nguyên tắc chuẩn mực biểu hiện như những cảm xúc trách nhiệm của con
người trước con người và xã hội. Vì vậy, ý thức đạo đức chứa đựng trong nó ý nghĩa
xã hội sâu sắc và khả năng điều chỉnh tích cực của con người. Cho nên trách nhiệm cá
nhân được đề cao và cấu thành bộ phận quan trọng trong nhân cách đạo đức cá nhân.
Trách nhiệm cá nhân về đạo đức được biểu hiện trước hết là gánh chịu sự đánh giá của
dư luận xã hội về sự lựa chọn hành vi đạo đức của mình. Sau nữa nó còn được phán xử
bởi chính lương tâm con người về những động cơ, mục đích thầm kín của bản thân. Dư
luận xã hội bao giờ cũng phê phán, lên án những ý nghĩ, hành vi phủ định lợi ích xã
hội và những ai ủng hộ khuyến khích những hành vi ấy. Bằng cách ấy, dư luận xã hội
hướng dẫn các cá nhân hoạt động trong phạm vi được phép và tránh những hành vi
không được phép.
Tất nhiên nếu ý thức đạo đức xã hội không được chuyển hoá thành ý thức đạo

đức của mỗi cá nhân thành viên trong xã hội thì cũng không thể có hành vi đạo đức
của cá nhân. Vì vậy đòi hỏi: Thứ nhất, cá nhân phải nhận thức được những yêu cầu
đạo đức của xã hội. Nói cách khác, cá nhân phải nhận thức được tính tất yếu của lợi
ích xã hội và cách thức hiện thực hoá tất yếu ấy. Sự nhận thức này phải thông qua môi
trường giáo dục của nhà trường , gia đình và xã hội. Đó chính là quá trình chuyển hoá
ý thức đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Nó làm cho phương thức điều


chỉnh đạo đức mang tính tự giác. Thứ hai, cá nhân phải chuyển hoá sự nhận thức thành
nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình nhằm đồng thời xác lập cả
lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Biểu hiện của sự chuyển hoá này là hành vi của cá
nhân tuân thủ những ngăn cấm, khuyến khích những chuẩn mực phù hợp với đòi hỏi
của xã hội. Chính vì vậy mà sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, tự giác của
mỗi cá nhân. Thứ ba, cá nhân phải chịu sự hướng dẫn của dư luận xã hội trong các
hành vi của mình. Thông qua dư luận xã hội, cá nhân mới có khả năng để chỉnh hành
vi sao cho phù hợp với đạo đức xã hội. Mặt khác dư luận xã hội cũng là “phương tiện”
để xác định giá trị các hành vi đạo đức của cá nhân. Đạo đức, xét về bản chất là tự do
của mỗi con người, mà tự do là phải nhận thức được cái tất yếu. Do vậy, cá nhân khi
thực hiện đầy đủ những yêu cầu trên đây, thì cũng có ý nghĩa là hành vi của họ đã
mang tính tự nguyện, tự giác được xã hội thừa nhận và do đó cũng là những hành vi
mang nội dung tất yếu là tự do.
Có thể nói sự điều chỉnh của đạo đức được thực hiện trong mối liên hệ giữa cá
nhân và xã hội, mối liên hệ ấy tạo thành hai cực: cá nhân và xã hội. Mỗi cực đều ở
trạng thái đòi hỏi lẫn nhau và đáp ứng những đòi hỏi của nhau. Điều đáng chú ý là bất
cứ hệ thống đạo đức nào trong lịch sử cũng điều chỉnh theo nguyên tắc ưu tiên lợi ích
xã hội (sự khác biệt là ở chỗ quan niệm về lợi ích xã hội trong mỗi chế độ xã hội đó là
như thế nào).
Sự đối nghịch giữa cá nhân và xã hội là đặc trưng riêng của xã hội có đối kháng
giai cấp có tính lịch sử. Trong điều kiện của CNXH, mối quan hệ qua lại giữa cá nhân
và xã hội được đặc trưng bằng tính quy luật mới, bằng việc kết hợp lợi ích cá nhân và

lợi ích xã hội xu hướng cuối cùng là việc kết hợp hài hoà hai loại lợi ích đó. Dưới chế
độ XHCN, khả năng thoả mãn và xu hướng chung của lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
là phù hợp với nhau. Cả xã hội nói chung cũng như mỗi thành viên trong xã hội đều
quan tâm đến việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, đến việc thoả mãn ngày
càng cao các nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội. Sự thống
nhất giữa các lợi ích xã hội và cá nhân về những vấn đề cơ bản trong đời sống không
loại trừ những mâu thuẫn riêng biệt, cho nên đòi hỏi lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi
ích xã hội. Sự kết hợp đúng đắn các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân một mặt lệ thuộc


vào sự tăng thêm của cải xã hội và hoạt động của các chủ thể lãnh đạo; mặt khác lệ
thuộc vào chỗ mỗi người tự giác phục vụ lợi ích xã hội đến đâu. Đạo đức vì thế mà giữ
vai trò là phương thức điều chỉnh mối quan hệ lợi ích cá nhân và với lợi ích xã hội
trong tiến trình phát triển của xã hội khi mà giữa các lợi ích ấy còn tồn tại mâu thuẫn.
Như vậy, có thể thấy rằng mối quan hệ cá nhân - xã hội trong đạo đức thực chất
là quan hệ về lợi ích. Lợi ích cũng chính là cơ sở là động lực của mối quan hệ đó trong
sự phát triển của lịch sử. Tuỳ theo trình độ phát triển của nền kinh tế và tính chất của
chế độ xã hội mà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội được xem xét và giải
quyết một cách khác nhau. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội là yêu cầu khách quan của đạo đức, đồng thời khẳng định sự tiến bộ của đạo đức
trong lịch sử nhân loại.
1.2. GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN - XÃ HỘI TRONG ĐẠO
ĐỨC
1.2.1. Giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội là vấn đề cốt lõi
của đạo đức
Vấn đề cơ bản, cốt lõi của đạo đức là giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội như là vấn đề then chốt của mọi vấn đề trong lịch sử tư tưởng đạo
đức. Vì đạo đức chỉ được đặt ra trong sự liên hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Cách giải quyết vấn đề này cũng hết sức khác nhau trong mỗi chế độ chính trị - xã hội
khác nhau. Điều đó được lý giải chủ yếu ở các quan niệm về thiện, ác, hạnh phúc,

nghĩa vụ, lương tâm.... Vấn đề là ở chỗ không phải các chế độ chính trị và các học
thuyết đạo đức xưa nay đều đã quan tâm đến lợi ích cá nhân chính đáng của con người
và lý giải đúng đắn mọi mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích với
hạnh phúc và tinh thần nghĩa vụ.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội ra đời và phát triển là do nhu cầu của xã hội,
nhu cầu duy trì và phát triển quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội.
Khi các quan hệ này thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi nội dung của nó.


Trong xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, khi mà cộng đồng còn thống trị và
cá nhân chưa tách khỏi thị tộc, ý thức về cá nhân chưa phát triển thì trong ý thức đạo
đức cũng chưa có sự phân biệt lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Lợi ích cá nhân thống
nhất và hoà tan trong lợi ích thị tộc. Lợi ích của mỗi thành viên chỉ có thể được xác lập
khi lợi ích của cộng đồng được xác lập khi lợi ích của cộng đông được xác lập, “Để
bảo đảm an toàn cho bản thân mình, mỗi cá nhân đều dựa vào sự bảo vệ của thị tộc và
đã có thể dựa như thế; ai xúc phạm đến một cá nhân trong thị tộc là xúc phạm đến toàn
thể thị tộc” [51, 137]. Vì vậy, lợi ích, nguyên tắc đạo đức của thời đại bình đẳng
nguyên thuỷ, “chủ nghĩa tập thể” nguyên thuỷ.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức đạo đức phân hoá thành đạo đức thống trị và
đạo đức bị trị. Dĩ nhiên: “trong mỗi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là
những tư tưởng thống trị... giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì
cũng là lực lượng tinh thần thống trị” [48,314]. Do vậy, ở giai đoạn đầu của xã hội có
giai cấp (chế độ nô lệ, chế độ phong kiến) đạo đức tôn giáo, duy tâm thời kỳ cổ đại
không bao giờ đứng về phía lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Luân lý Phật
giáo hay Thiên chúa giáo đều xây dựng trên nguyên tắc khuyên nhủ con người từ bỏ
lạc thú trần gian, rao giảng một thứ đạo đức khổ hạnh đè nén dục vọng xác thịt, hy
sinh lợi ích thiết thực, chính đáng nơi trần thế để đổi lấy sự siêu thoát chốn thiên
đường. Đạo đức Nho giáo lại ràng buộc cá nhân theo lợi ích duy nhất của một ông vua,
một dòng họ. Nó phê phán luân lý con người hướng về điều “lợi”, coi điều lợi là xấu,
là ác, đối lập với “nghĩa”, đòi hỏi con người phải giữ “nghĩa” và bỏ “lợi”. Nhưng cái

“nghĩa” đó, nó chỉ là cái “lợi” trá hình của giai cấp thống trị. Bởi theo quan niệm đó,
sống có ý nghĩa với bề trên là phải hết mình vì lợi ích của bề trên, muốn thế phải hy
sinh lợi ích riêng của cá nhân mình. Hạnh phúc của mỗi con người là ở chỗ thực hiện
không điều kiện nghĩa vụ của kẻ bề tôi đối với bề trên. Đó là một thứ luân lý đặt ra để
bảo vệ lợi ích ích kỷ của giai cấp phong kiến thống trị mà người ta vẫn thường gọi đó
là chủ nghĩa “vị tha” của phong kiến và nhà thờ. Nó khuyên nhủ con người hy sinh
một cách mù quáng cho lợi ích của giai cấp bóc lột, thống trị trong xã hội. Trong khi
đó, chủ nghĩa vị tha theo đúng nghĩa của nó là dựa trên nguyên tắc đạo đức đòi hỏi


chăm lo một cách vô tư đến lợi ích của người khác, sẵn sàng hy sinh lợi ích của cá
nhân mình cho lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng.
Giai cấp tư sản trên con đường hình thành và phát triển đã dựa vào chủ nghĩa vị
kỷ “hợp lý” của các nhà duy vật cổ đại xây dựng lên thành lý luận đạo đức mới, chống
lại chiêu bài “vị tha” của phong kiến và nhà thờ. Các nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ
XVII - XVIII như: Henvêtiut, Hônbách, Điđơrô và về sau là nhà triết học Đức thế kỷ
thứ XIX Phoiơbăc đã cố gắng giải thích một cách khoa học những cơ chế tự nhiên chi
phối hành vi đạo đức của con người. Theo họ, sẽ là vô ích nếu chỉ đòi hỏi con người
bất cứ cái gì cũng với danh nghĩa duy nhất là nghĩa vụ, bởi vì hành động của con
người không phải là tự do mà tuân theo sự tất yếu của tự nhiên, trước hết là tuân theo
sự tác động của lợi ích. Henvêtiút viết: “Nếu vũ trụ hữu hình phải phục tùng những
quy luật của vận động thì vũ trụ đạo đức phải phục tùng không kém những quy luật
của lợi ích”. Hônbách cũng viết: “Muốn rằng con người phải có phẩm hạnh thì nó phải
có quyền lợi” [78]. ở đây, các ông muốn chỉ ra rằng động cơ chi phối hành vi đạo đức
của con người không phải ở nghĩa vụ đạo đức trừu tượng mà là lợi ích của bản thân nó.
Theo họ, lợi ích cá nhân hiểu một cách đúng đắn sẽ bảo đảm tuân theo lợi ích xã hội.
Đó là một bước tiến bộ quan trọng về lý luận đạo đức so với luân lý thần học và phong
kiến. Tuy nhiên, những nhà tư tưởng đó lại xuất phát từ khả năng có thể kết hợp hài
hoà lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội trong khi vẫn duy trì chế độ tư hữu. Đây là một
ảo tưởng. Thực tiễn của CNTB đã phá tan cái ảo tưởng về tính chất hợp lý đó trong

XHTB.
Sự sai lầm của nhà vị kỷ “hợp lý” không phải ở chỗ đã giải thích sự phát triển
của xã hội và đạo đức bằng quy luật lợi ích mà còn ở chỗ đã không phân biệt con
người cá nhân tư sản với con người nói chung, đã đồng nhất lợi ích cá nhân tư sản với
lợi ích xã hội, đồng nhất lợi ích cá nhân với nghĩa vụ đạo đức. Theo lôgíc đó, một
người tư sản luôn luôn chạy theo lợi ích cá nhân cũng đã góp phần vào lợi ích xã hội,
một kẻ chỉ biết xoay xở, chỉ nghĩ cách kiếm lợi cho bản thân mình cũng vẫn hiện diện
như là một người đạo đức, một người có công đối với xã hội. Giai cấp tư sản đã tìm
thấy sự bào chữa tinh vi cho đạo đức của nó trong lý luận về lợi ích của các nhà duy
vật Pháp. Với lý thuyết này, người công nhân bán sức lao động cho nhà tư bản, nhà tư


bản bóc lột công nhân, hai bên sử dụng lẫn nhau và cùng có lợi, đó là một việc hoàn
toàn hợp với đạo đức. Vì vậy, sau khi giai cấp tư sản đã nắm quyền thống trị xã hội,
mâu thuẫn trong xã hội tư sản đã trở thành gay gắt thì thứ đạo đức học vụ lợi đó đã
mất đi tính chất tương đối tiến bộ của nó và trở thành công cụ biện hộ cho chế độ bóc
lột TBCN.
Ở thời kỳ thống trị của CNTB, chủ nghĩa vị kỷ “hợp lý” đã hoàn toàn vứt bỏ cái
“hợp lý” của nó ở giai đoạn đầu để hiện nguyên hình một thứ chủ nghĩa cá nhân ích kỷ
cực đoan và tàn bạo. Cơ sở triết lý và đạo đức của nó được tìm thấy trong triết học
Nítse. Xét từ góc độ đạo đức học, chủ nghĩa phát xít chính là hình thức cao nhất, cực
đoan nhất của chủ nghĩa cá nhân tư sản. Nó mở rộng chủ nghĩa cá nhân vô hạn độ cho
một số dân tộc gọi là “thượng đẳng” được quyền đi xâm lược và nô dịch các nước
khác. Có thể nói ở hình thức cực đoan của nó, chủ nghĩa cá nhân tư sản cũng quay trở
lại con đường đàn áp cá nhân và lợi ích cá nhân, hy sinh lợi ích cá nhân cho tham vọng
điên cuồng của các tập đoàn tư bản quân phiệt. Với bản chất của chế độ bóc lột dựa
trên tư bàn chiếm hữu tư nhân TBCN thì chủ nghĩa cá nhân cực đoan tư sản đã trở
thành nguyên tắc đạo đức thống soái trong XHTB. Từ đó, nó đã đối lập giữa cá nhân
này với cá nhân khác và đối lập lợi ích của cá nhân với lợi ích của xã hội. Vì vậy,
trong xã hội đó, theo Ph.ăngghen: “Mọi người đều chỉ coi nhau như những cái có thể

lợi dụng được, mỗi người đều bóc lột người bên cạnh mình, kết quả là kẻ mạnh hơn
chà đạp kẻ yếu hơn dưới chân một nhúm kẻ mạnh, tức là còn có cuộc sống trần trụi”
[52,34]. V.I.Lênin cũng cho rằng: “Xã hội cũ xây dựng trên nguyên tắc sau đây: Anh
ăn cắp của người khác hoặc người khác ăn cắp của anh; anh làm cho người khác
hưởng hoặc người khác làm cho anh hưởng; anh làm chủ nô hoặc anh làm nô lệ. Và dễ
hiểu rằng người được đào tạo trong xã hội đó, có thể nói khi còn bú mẹ đã nhiễm phải
một tâm lý, một tập quán và một quan điểm sau đây: hoặc là chủ nô, hoặc là nô lệ,
hoặc là tiểu chủ, là viên chức nhỏ, là quan lại nhỏ, là người tri thức, tóm lại là một
người chỉ lo nghĩ về của riêng mình chứ không quan tâm đến người khác” [42,370].
Một xã hội như thế, không không thể có sự thống nhất, hài hoà giữa cá nhân và xã hội.
Trong xã hội đó để có được hạnh phúc của người này, chỉ có thể thực hiện bằng sự đau


×