Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

CAU HOI CO DAP AN HINH SU 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.98 KB, 10 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP LUẬT HÌNH SỰ 1
Câu 1: Lý giải luật Hình sự Việt Nam là một ngành luật độc lập (có đối
tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh riêng)
Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, do vậy nó sẽ có tất
cả các đặc điểm đặc trưng của một ngành luật nói chung. Tuy nhiên, với tư cách
là một ngành luật độc lập, luật hình sự có đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh riêng, phù hợp với đặc điểm của mình.
* Đối tượng điều chỉnh (Chủ thể): Trong quan hệ pháp luật hình sự, có hai
chủ thể với những địa vị pháp lý khác nhau là Nhà nước và chủ thể phạm tội.
- Nhà nước: là chủ thể có vị trí đặc biệt trong quan hệ pháp luật hình sự với
tư cách là chủ thể bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Nhà nước, thông qua các cơ quan tư pháp
hình sự nhân danh mình (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án...) có quyền
khởi tố, bắt giam, điều tra, truy tố, xét xử chủ thể phạm tội, buộc họ phải chịu
những hình phạt nhất định tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội
phạm mà họ đã gây ra. Mặt khác, với tư cách là chủ thể đại diện cho công lý,
Nhà nước đồng thời có trách nhiệm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho chủ thể
phạm tội thông qua một loạt những quy định chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của
bị can, bị cáo, người phạm tội, người bị kết án.
- Chủ thể phạm tội: bao gồm:
+ Cá nhân phạm tội: là cá nhân thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
luật hình sự coi là tội phạm.
+ Pháp nhân thương mại phạm tội (quy định mới trong Luật Hình sự 2017):
là pháp nhân thành lập vì mục đích kinh doanh và có hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị luật hình sự coi là tội phạm.
 Quan hệ pháp luật hình sự sẽ phát sinh khi có hành vi phạm tội được thực hiện,
bất chấp việc chủ thể phạm tội có bị phát hiện và xử lý hay chưa.
* Phương pháp điều chỉnh: là cách thức, phương thức mà Luật Hình sự tác
động lên các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhằm vào các mục đích nhất định.
- Phương pháp Quyền uy: Đó là phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước
trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến quan hệ pháp luật hình sự,


quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan. Quyền lực Nhà nước không bị
hạn chế bởi bất kỳ nhân tố nào (ngoại trừ việc bảo vệ lợi ích bên bị hại (bảo vệ
danh dự), không khởi tố theo yêu cầu người bị hại)
Nhà nước, thông qua các cơ quan tư pháp hình sự nhân danh mình (cơ quan
Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án...) để truy bắt , điều tra, kết án, lĩnh án

1


- Phương pháp chấp hành: Chủ thể phạm tội không có quyền từ chối hình
phạt hay thoả thuận với Nhà nước về mức hình phạt, chỉ có thể có thể xin giảm
nhẹ hình phạt (trong từng trường hợp cụ thể).
Tóm lại, quan hệ giữa Nhà nước và chủ thể phạm tội là quan hệ gần như một
chiều, chủ thể phạm tội phải luôn tuyệt đối tuân theo những quyết định của Nhà
nước.
Câu 2: Các nguyên tắc cơ bản của luật Hình sự ?
1. Nguyên tắc pháp chế: chế là một nguyên tắc hết sức quan trọng và cơ bản
của quá trình xây dựng và đổi mới pháp luật ở Việt Nam. Nói đến pháp chế tức
là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế cụ thể là:
- Về mặt lập pháp: việc sửa đổi, bổ sung, quy định tội phạm mới hay xoá bỏ
một tội phạm phải được tiến hành một cách hợp pháp, theo đúng thủ tục luật
định. Theo cơ chế này, mọi tội phạm và hình phạt phải được luật hình sự quy
định, “có luật, có tội”. Ngoài ra, nguyên tắc pháp chế còn đòi hỏi pháp luật hình
sự phải được xây dựng trên những cơ sở khoa học, được xây dựng một cách
hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các quy
định của luật hình sự phải được xây dựng một cách cụ thể, chính xác với các dấu
hiệu của từng hành vi phạm tội và hậu quả pháp lý của nó.
- Về mặt áp dụng pháp luật: Nhà nước không chấp nhận một bản án hình sự
về một tội nào đó, nếu như tội này không được quy định trong luật hình sự hiện

hành. Việc xét xử phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không để oan người vô tội. Hình phạt mà Toà án tuyên cho người phạm
tội phải phù hợp với các quy định của luật hình sự. Các cơ quan tiến hành tố
tụng khi thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo đúng và
đầy đủ các thủ tục luật định. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi sự chính xác và thống
nhất trong việc áp dụng luật hình sự, trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm và của bản thân người phạm tội. Điều đó có nghĩa
là trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam, pháp luật hình sự phải được áp dụng
như nhau, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, thành phần xã hội... của người
phạm tội. Pháp luật phải được giải thích cụ thể bởi các cơ quan chuyên môn có
thẩm quyền nhằm tránh sự hiểu và vận dụng khác nhau đối với cùng một quy
định nhưng ở những điều kiện khác nhau. Một nội dung quan trọng không kém
nữa là không áp dụng pháp luật tương tự.
- Đối với công dân, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi mỗi người dân đều phải tuân
thủ pháp luật một cách triệt để, không ngừng tăng cường cảnh giác cao độ, nâng
cao ý thức pháp luật, tích cực đấu tranh phòng và chống tội phạm.
2. Nguyên tắc dân chủ: là quyền làm chủ của nhân dân, sự tham gia rộng rãi
của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đây là một nguyên
2


tắc hiến định. Trong luật hình sự, nội dung của nguyên tắc dân chủ thể hiện ở
các điểm sau:
- Luật hình sự bảo vệ và tôn trọng các quyền dân chủ của công dân trong tất
cả các mặt của đời sống xã hội, kiên quyết xử lý các hành vi xâm phạm những
quyền dân chủ của công dân. Quyền lợi của công dân đều được bảo vệ như
nhau, không phân biệt nòi giống, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội, tình hình kinh
tế, tài sản; không quy định những đặc quyền, đặc lợi cho riêng một đối tượng,
một tầng lớp, giai cấp nào.
- Luật hình sự bảo đảm cho nhân dân lao động tự mình hay thông qua các tổ

chức xã hội tham gia vào việc xây dựng và áp dụng luật hình sự, đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm.
- Luật hình sự coi việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm là sự nghiệp
của toàn dân. Bộ luật hình sự năm 2015 quy định nội dung này tại Điều 4. Ngoài
ra, Bộ luật hình sự hiện hành (gọi tắt là Bộ luật hình sự) còn có nhiều quy định
khác tạo cơ sở pháp lý hình sự cho sự tham gia của mọi người dân trong đấu
tranh phòng chống tội phạm. Chẳng hạn như: quy định về phòng vệ chính đáng
(Điều 22), tình thế cấp thiết (Điều 23), việc thực hiện hình phạt cải tạo không
giam giữ (Điều 36), án treo (Điều 65), v.v..
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc dân chủ có một ý nghĩa lý luận và
thực tiễn hết sức quan trọng. Cùng với nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc này góp
phần phát huy hiệu quả của luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm,
duy trì kỷ cương và công lý xã hội. Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa góp
phần định hướng phát triển của luật hình sự nói chung và hoạch định các chính
sách hình sự nói riêng.
3. Nguyên tắc nhân đạo: luôn được thể hiện rõ nét trong các chính sách
hình sự của Nhà nước,. Đối với kẻ phạm tội, việc áp dụng hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam chủ yếu là nhằm mục đích cải tạo, giáo dục kẻ phạm tội trở
thành người có ích cho xã hội. Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam không
nhằm gây đau đớn về thể xác và không nhằm hạ thấp phẩm giá của con người.
Cụ thể, nguyên tắc nhân đạo có các nội dung sau:
- Luật hình sự Việt Nam khoan hồng với những người tự thú, thật thà khai
báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại.
- Luật hình sự không có mục đích trả thù, hạ thấp nhân phẩm người phạm tội
mà nhằm tạo điều kiện để họ được cải tạo trở thành người có ích cho xã hội,
sống lương thiện.
- Luật hình sự Việt Nam có nhiều quy định nhằm tạo điều kiện cho người
phạm tội tự cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,
quy định về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo), v.v..

3


- Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam có nhiều loại hình phạt
không tước tự do như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất.
Mặt thứ hai của nguyên tắc nhân đạo là phải nghiêm trị đối với những người
phạm tội là những người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố... Vì vậy, Bộ luật
hình sự đã quy định các hình phạt nghiêm khắc như tù chung thân, tử hình. Tuy
nhiên, các hình phạt này cũng chỉ được phép áp dụng trong những trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng và phạm vi áp dụng cũng có giới hạn nhất định: hình phạt
tù chung thân và tử hình không được phép áp dụng đối với người chưa đủ 18
tuổi phạm tội, hình phạt tử hình không được phép áp dụng đối với phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, người già đủ 75 tuổi trở lên, v.v..
Câu 3: Tội phạm và các dấu hiệu của nó (tính nguy hiểm cho xã hội,
tính trái PL hình sự, tính có lỗi, tính chịu hình phạt).
* Khái niệm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
* Dấu hiệu tội phạm:
1. Tính nguy hiểm: là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất quyết định những
dấu hiệu khác của tội phạm.
Tính nguy hiểm bao gồm cả việc đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
đáng kể cho các quan hệ xã hội.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một phạm trù lịch sử, hoàn toàn
có tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Nó thay

đổi phụ thuộc vào các yếu tố không gian và thời gian nhất định
Tính nguy hiểm cho xã hội có thể được con người nhận thức và nhận thức
đúng. Do vậy, khi khẳng định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì
không có nghĩa đó là sự áp đặt một ý muốn chủ quan của con người, mà đó chỉ
là sự xác nhận một thực tế khách quan được nhận thức thông qua việc đánh giá
tổng thể các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm của nhà làm luật.
2. Tính trái pháp luật hình sự: là một dấu hiệu được quy định trong luật
hình sự. Tín trái pháp luật được Luật Hình sự quy định ở 2 khía cạnh:
- Bắt buộc thực hiện: Vd: chấp hành quy định cơ quan Nhà nước, cứu người
khi có điều kiện cứu giúp, tố cáo người đang bị truy nã…
- Cấm thực hiện: Vd: giết người, cướp của, ….
4


 Giữa hai dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và tính trái pháp
luật hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm là thuộc tính khách quan, biểu hiện nội dung, bản chất chính trị, xã hội
của tội phạm. Dấu hiệu này quyết định một hành vi có được quy định trong Bộ
luật hình sự và bị coi là tội phạm hay không. Tính trái pháp luật hình sự là dấu
hiệu biểu hiện hình thức pháp lý của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm. Tuy nhiên, dù một hành vi có tính nguy hiểm cao đến đâu nhưng
chưa được quy định trong Bộ luật hình sự thì cũng chưa thể bị coi là tội phạm.
3. Tính có lỗi: là chỗ sai sót do không thực hiện đúng quy tắc và khi nó là
kết quả sai trái của người thực hiện trong điều kiện có thể tránh mắc lỗi nhưng
vẫn chọn thực hiện.
 Hành vi gây thiệt hại co xã hội nhưng không có lỗi thì không thể coi là tội
phạm.
4. Tính chịu hình phạt: tính chịu hình phạt thể hiện hậu quả pháp lý của

hành vi phạm tội, có phạm tội là có hình phạt tương ứng.Tuy nhiên, có những
chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm nhưng vì một hoặc một
số căn cứ nhất định mà được miễn trách nhiệm hình sự.
Câu 4: Phân loại tội phạm
Phân loại tội phạm: dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Được tính theo khung hình phạt. Phân loại không chỉ tính mức độ hình phạt mà
còn liên quan đến việc tố tụng (Vd: tạm giam? Thời hạn điều tra? …)
1. Tội phạm ít nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm.
2. Tội phạm nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù.
3. Tội rất nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù.
4. Tội đặc biệt nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình.
* Phân loại tội phạm pháp nhân: dựa trên mức tương ứng phân loại cá nhân
để quy định hình phạt tiền (hoặc hình phạt khác).
Câu 5: Cấu thành tội phạm?
5


a. Khái niệm CTTP.
b. Các đặc điểm của CTTP (do luật định; có tính đặc trưng, phổ biến).
c. Phân loại CTTP (theo tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và đặc điểm cấu

trúc).
* Khái niệm: Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính
đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.
* Địa điểm:
a) Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm do luật định
b) Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có tính phổ biến, đặc trưng
* Phân loại cấu thành tội phạm:
a) Căn cứ theo tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
- Cấu thành tội phạm cơ bản:
- Cấu thành tội phạm giảm nhẹ:
- Cấu thành tội phạm tăng nặng:
b) Căn cứ theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm
- Cấu thành tội phạm hình thức:
- Cấu thành tội phạm vật chất:
Câu 6: Khách thể của tội phạm?
* Khái niệm: khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội
phạm xâm hại, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích và sự tồn tại của
giai cấp thống trị được Nhà nước (đại diện cho giai cấp thống trị) bảo vệ bằng
các quy phạm pháp luật hình sự.
* Phân loại:
1. Khách thể chung của tội phạm: là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị
tội phạm xâm hại và được luật hình sự bảo vệ.
2. Khách thể loại của tội phạm: là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất
được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội
phạm xâm hại.
3. Khách thể trực tiếp của tội phạm: là một hoặc một số quan hệ xã hội cụ
thể bị hành vi phạm tội cụ thể xâm hại.
Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào
tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp
6



khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm (thì phải xem người phạm tội đang hướng
tới tính nguy hiểm nào và và quan trọng là mức độ nguy hiểm ảnh hưởng đến
quan hệ xã hội)
* So sánh khách thể và đối tượng tác động của tội phạm:
Khách thể trực tiếp
- Là luôn bị xâm hại

Đối tượng tác động
- Là phương tiện thông qua đó xâm hại
khách thể
- Một khách thể được đại diện bởi nhiều - Mỗi đối tượng là đại diện cho một khách
đối tượng
thể khác nhau
Câu 7: Mặt khách quan của tội phạm
1. Mặt khách quan theo LHSVN: là tổng hợp tất cả những biểu hiện của
tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, các biểu hiện bên
ngoài của tội phạm tạo thành mặt khách quan của tội phạm bao gồm:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả;
- Các điều kiện bên ngoài khác của tội phạm (công cụ, phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm... phạm tội).
Các biểu hiện khách quan của tội phạm không phải lúc nào cũng được thể
hiện trong cấu thành tội phạm mang tính bắt buộc. Có biểu hiện được thể hiện
trong cấu thành tội phạm cơ bản của tất cả các tội phạm (hành vi nguy hiểm cho
xã hội), có biểu hiện chỉ được phản ánh trong cấu thành tội phạm của một số tội
phạm cụ thể hoặc trong cấu thành tội phạm tăng nặng, giảm nhẹ (hậu quả nguy

hiểm cho xã hội), có biểu hiện đôi lúc được thể hiện như một tình tiết tăng nặng
hay giảm nhẹ... Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng phải thấy rằng, mặt khách
quan của tội phạm là một yếu tố của cấu thành tội phạm. Không có mặt khách
quan thì không có tội phạm xảy ra, dù có thể các mặt khác của tội phạm đã hội
đủ.
Vd: một người trong suy nghĩ rất mong muốn một người khác chết và trên
thực tế người đó đã chết. Tuy nhiên, người này chết không phải do bị giết mà do
bệnh. Như vậy, không có tội phạm xảy ra trên thực tế trong trường hợp này.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan:
a. Hành vi khách quan của tội phạm: có thể được biểu hiện thông qua
hành động hoặc không hành động.
- Hành vi khách quan biểu hiện qua hành động (hành động phạm tội) là hình
thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng
7


tác động gây thiệt hại cho khách thể của nó bằng cách chủ thể phạm tội thực
hiện một việc mà pháp luật hình sự cấm
+ Hành động phạm tội có thể chỉ là một hành vi đơn giản diễn ra trong một
thời gian ngắn.
+ Hành động phạm tội có thể tổng hợp nhiều hành vi khác nhau, lặp đi lặp
lại trong một thời gian dài.
+ Hành động phạm tội có thể dùng trực tiếp bằng các bộ phận của cơ thể
người phạm tội.
+ Hành động phạm tội cũng có thể thông qua các phương tiện, công cụ
+ Hành động phạm tội có thể thông qua việc làm bằng tay chân... hoặc
cũng có thể thực hiện thông qua lời nói.
- Hành vi khách quan biểu hiện qua không hành động (không hành động
phạm tội) là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể của nó bằng việc chủ

thể không thực hiện một việc mà pháp luật yêu cầu hoặc làm không đến mức
yêu cầu dù có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện.
Tất cả các nghĩa vụ phát sinh đều dựa trên cơ sở quy định của pháp luật (có
thể quy định trong luật hoặc các văn bản dưới luật quy định về nghề nghiệp cụ
thể). Pháp luật không quy định thì không hành động không thể xem là hành vi
phạm tội. Do đó, hai điều kiện cần và đủ buộc một người phải chịu trách nhiệm
hình sự trong trường hợp không hành động phạm tội là:
+ Người đó phải có nghĩa vụ hành động (theo quy định của pháp luật);
+ Người đó có đủ khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ này.
3. Ý nghĩa của nó trong hoạt động định tội và lượng hình (hành vi, hậu
quả, mối quan hệ nhân quả, biểu hiện khác).
- Là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nó là cơ sở để xác định tội
danh.
- Mặt khách quan của tội phạm còn được thể hiện trong các cấu thành tội
phạm tăng nặng, khi ấy mặt khách quan giữ vai trò là tình tiết định khung hình
phạt. Nghiên cứu những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm còn có ý
nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, là
cơ sở để xác định mức độ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
- Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan còn có ý nghĩa xác định nội dung tâm
lý bên trong của người phạm tội qua việc xác định lỗi và mức độ lỗi của người
phạm tội. (Ví dụ, một người đã cố ý thực hiện tội phạm thì hành vi rất dứt khoát
và cương quyết, chuẩn bị mọi phương tiện, công cụ, kế hoạch để có thể thực
hiện tội phạm đến cùng).8


4. Phân biệt tội ghép, tội kéo dài, tội liên tục.
- Dạng hành vi khách quan ghép (tội ghép, tội kép) được tạo thành bởi nhiều
hành vi khách quan, mỗi hành vi xâm hại đến một khách thể nhất định nhưng
chúng lại hợp thành một tội phạm. Ví dụ, tội cướp tài sản bao gồm hành vi tấn
công vào người quản lý tài sản (quan hệ nhân thân) và hành vi chiếm đoạt tài

sản (quan hệ sở hữu). Dù hành vi gây phương hại đến nhiều khách thể trực tiếp
nhưng ta chỉ xem xét về một tội phạm.
- Dạng hành vi khách quan kéo dài (tội kéo dài) là tội phạm mà hành vi
khách quan có khả năng diễn ra không gián đoạn trong một thời gian dài. Ví dụ,
tội tàng trữ vũ khí quân dụng trái phép (Điều 304). Tội kéo dài chỉ bị coi là một
tội, có xem xét trên tổng số thời gian phạm tội để lượng hình.
- Dạng hành vi khách quan liên tục (tội liên tục) là tội phạm có hành vi khách
quan gồm nhiều hành vi cùng loại xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, cùng
xâm hại đến một khách thể và đều bị chi phối bởi một ý định phạm tội cụ thể
thống nhất. Ví dụ, thủ quỹ lấy tiền của cơ quan 2 triệu mỗi tháng, kéo dài trong
ba năm.
Câu 8: Chủ thể của tội phạm
1. Chủ thể của tội phạm theo LHSVN (tuổi, NLTNHS): Chủ thể của tội
phạm là chủ thể đã thực hiện phạm tội mà theo Bộ luật hình sự họ phải chịu
trách nhiệm hình sự. Pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành xác định chủ thể của
tội phạm có thể là cá nhân con người hoặc pháp nhân (pháp nhân thương mại).
* Cá nhân: không phải mọi cá nhân đều có thể là chủ thể của tội phạm, chỉ
người nào có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm.
Năng lực trách nhiệm hình sự được hợp thành từ hai yếu tố: khả năng nhận thức
và khả năng điều khiển hành vi, và tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
- Khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Bộ luật hình sự
không quy định một người như thế nào là thoả mãn điều kiện về khả năng nhận
thức và khả năng điều khiển hành vi mà chỉ đề cập trường hợp người mất khả
năng nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi tại Điều 21 Bộ luật hình sự
hiện hành và coi đó là những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự.
- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
+ Đủ 14  chưa 16 tuổi: chủ thể của tội phạm rất nghiêm trọng trở lên do
cố ý được liệt kê theo Điều 12 Bộ luật hình sự hiện hành.
+ Đủ 16 tuổi: là chủ thể của bất kỳ phạm tội nào.
* Pháp nhân thương mại:

9


2. Năng lực TNHS trong trường hợp say rượu do dùng chất kích thích:
3. Chủ thể đặc biệt của tội phạm:
4. Pháp nhân và những nội dung liên quan đến pháp nhân chịu TNHS:

10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×