Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Axit folic tài liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.6 KB, 9 trang )

Axit folic

Thông tin chung
Danh pháp IUPAC

Tên khác
Công thức
SMILES
Phân tử gam
Bề ngoài
Số CAS
Tính chất
Khối lượng riêng
và pha
Độ hòa tan
trong nước
Trong êtanol,
ête, axêton
Điểm nóng chảy
Độ axit (pKa)
Độ quay riêng [α]D
Độ nguy hiểm
Thông tin chính
R/S
Số RTECS
Phổ UV/VIS
Lambda-max
(pH 13)
Hệ số tiêu tán
(pH 13)
Hợp chất liên quan




Axit folic (hay Vitamin M và Folacin), và Folat (dạng anion) là các dạng hòa tan trong nước
của vitamin B9, cần thiết cho dinh dưỡng hằng ngày của cơ thể người để phục vụ các quá trình tạo
mới tế bào. Nhu cầu về chất này tăng cao ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh. Chất này có mặt tự
nhiên trong thức ăn và cũng có thể thu từ thuốc uống bổ trợ.

Mục lục


1Vai trò sinh học
o

1.1Phụ nữ mang thai



2Dinh dưỡng



3Chú thích



4Liên kết ngoài

Vai trò sinh học[sửa | sửa mã nguồn]
Axit folic có vai trò sinh học trong việc tạo ra tế bào mới và duy trì chúng[1]. Nó đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn phân chia và lớn lên nhanh của tế bào như ở trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai. Chất

này cần thiết trong việc nhân đôi ADN và giúp tránh đột biến ADN vốn là một yếu tố gây ung thư.
Chính vì có tác dụng giúp tái tạo tế bào như vậy mà Axit folic có thể được sử dụng để phục hồi phục
sinh lực cho các cơ quan nội tạng sau mỗi sự cố thiếu máu hay tổn thương nội mạng tế bào. Điển
hình là việc Acid folic đã được đưa vào trong các sản phẩm dược phẩm và thực phẩm chức năng
dành cho người đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim. Khi bệnh nhân gặp tình trang đau thắt ngực có
nghĩa là mạch máu của họ đã có xảy ra một số sự tắc nghẽn nhỏ do đó dẫn đến thiếu máu cơ tim
một phần nhỏ. Và nếu cứ để tình trang này tiếp diễn thì khả năng xảy ra cơn nhồi máu cơ tim dẫn
đến đột tử là rất cao. Vì vậy việc bổ sung Axit folic cho những đối tượng này là điều cần thiết và
đúng đắn.
Việc thiếu axit folic làm chậm quá trình tổng hợp ADN và phân chia tế bào, ảnh hưởng đến các khu
vực có sự tái tạo tế bào nhanh như ở tủy xương. Sự thiếu hụt axit folic làm chậm sự tổng hợp ADN,
trong khi đó là không ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp ARN và protein, khiến tạo ra nhiều các tế
bào hồng cầu lớn trong máu, gọi là nguyên hồng cầu to, gây ra sự thiếu hồng cầu bình thường và
chứng bệnh thiếu máu nguyên hồng cầu to [2][3].

Phụ nữ mang thai[sửa | sửa mã nguồn]
Axit folic đặc biệt cần thiết cho tất cả các phụ nữ có ý định mang thai. Trong khoảng thời gian ngay
trước và ngay sau khi thụ thai, cần ăn đủ axit folic, để bào thai được phát triển khỏe mạnh, tránh
được các biến cố bào thai hay bệnh tật bẩm sinh nguy hiểm cho thai nhi.
Một trong các nguy cơ cho bào thai nếu thiếu axit folic là bệnh khuyết tật ống thần kinh [4][5]. Bệnh này
có thể gây ra sự hở xương sống, hở hộp sọ và thậm chí vô não. Nguy cơ này có thể giảm nếu uống
thêm thuốc bổ trợ chứa axit folic, ngoài chế độ dinh dưỡng giàu axit folic bình thường [6][7].

Acid folic (hay còn gọi là folat) là chất rất cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào
và cần cho sự hình thành của tế bào máu. Nhu cầu acid folic ở người trưởng thành


khoảng 180-200 mcg/ngày, trong khi mang thai cần tới 400 mcg/ngày để đáp ứng cho
nhu cầu phát triển của thai nhi.
Sự thiếu acid folic trong giai đoạn sớm của thai kỳ sẽ gây ra sự phân chia tế bào không

bình thường, không chỉ gây các khuyết tật về ống thần kinh mà còn gây ra các dị tật
khác như hở hàm ếch, hội chứng Down, gây sẩy thai… Folic có tầm quan trọng trong
việc ngăn ngừa các khuyết tật ống thần kinh.

Theo một số tài liệu, phụ nữ mang thai nên uống thêm khoảng 400 microgam axit folic từ thuốc bổ
trợ hằng ngày, cùng với bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Điều này giúp đạt được nhu cầu dinh
dưỡng hằng ngày về axit folic cho phụ nữ mang thai là 600 microgam như trình bày bên dưới.

Axit folic là chất cần thiết trong giai đoạn mang bầu. Mẹ bầu hãy lưu ý những điều sau để
bổ sung loại axit này hiệu quả.

Axit folic là một loại vitamin B9 giúp bảo vệ thai nhi phát triển, chống lại các khuyết tật ống
thần kinh. Loại axit này sẽ làm việc với vitamin B12 để tạo thành các tế bào hồng cầu
khỏe mạnh. Không đủ axit folic có thể làm cho cơ thể bà bầu thiếu máu, nói cách khác là
thiếu sắt.

12 tuần đầu tiên của thai kỳ là thời gian não và hệ thống thần kinh của em bé được hình
thành và phát triển mạnh nhất. Do vậy, axit này sẽ giúp ngăn ngừa các dị tật bẩm sinh ở
não và cột sống của thai nhi, giảm nguy cơ sinh non và khuyết tật tim.


Thậm chí, loại vitamin này còn có tác dụng giúp tinh trùng ở các bé nam khỏe mạnh hơn.
Đó là lý do tại sao, bà bầu nên bổ sung loại axit này ngay trong 3 tháng đầu. Khi đã đến
tuần thứ 13, bà bầu có thể ngừng uống các chất bổ sung.

Quan trọng là, nên bổ sung vừa đúng lượng axit folic ngay khi bạn quyết định sẽ có em
bé (trước khi mang thai). Bạn nên uống 400 mcg mỗi ngày đồng thời với việc nạp thực
phẩm giàu chất này.

Nếu như bạn không may có con khuyết tật ống thần kinh (NTD) thì đứa con tiếp theo tỷ lệ

mắc bệnh này cao hơn. Trong trường hợp đó, bác sỹ sẽ kê toa liều hàng ngày cao hơn
khoảng 5mg.

Nếu bạn đang có bệnh liên quan đến thần kinh, bác sỹ có thể sẽ kê toa liều cao hơn vì
những loại thuốc điều trị thần kinh có thể ngăn chặn cơ thể hấp thu axit folic.

Bà bầu đang thừa cân và có chỉ số BMI (chỉ số khối lượng cơ thể) trên 30 hoặc đang mắc
bệnh tiểu đường, cũng nên dùng liều cao hơn những bà bầu bình thường 5mg.

loại axit này không chỉ có ở thuốc uống, hãy linh động ăn nhiều thực phẩm giàu folate như
rau cải, đậu đen, măng tây, súp lơ, trứng, các loại rau lá xanh đậm hoặc thịt bò, cá hồi ...


Do folate hòa tan trong nước, bạn nên ăn những loại rau này vừa chín tới để không bị bốc
hơi hết folate trong nó
Thiếu máu megaloblastic (hoặc thiếu máu megaloblastic) là một thiếu máu (phân loại
macrocytic) là kết quả của sự ức chế tổng hợp DNA trong quá trình sản xuất hồng cầu. [1]
Khi tổng hợp DNA bị suy yếu, chu kỳ tế bào không thể tiến triển từ giai đoạn tăng trưởng G2
đến giai đoạn giảm nhẹ (M). Điều này dẫn đến sự tăng trưởng tế bào liên tục mà không có sự
phân chia, điều này thể hiện như là sự tăng sinh. Thiếu máu Megaloblastic có khởi phát khá
chậm, đặc biệt là khi so sánh với các bệnh thiếu máu khác. Các khiếm khuyết trong tổng
hợp DNA tế bào màu đỏ thường là do hypovitaminosis, đặc biệt là sự thiếu hụt vitamin B12
và / hoặc axit folic. Thiếu vitamin B12 sẽ không gây ra hội chứng với sự có mặt của folate đủ,
vì cơ chế mất sự tái chế folate phụ thuộc B12, tiếp theo là sự thiếu hụt folate thiếu tổng hợp
acid nucleic (đặc biệt thymine), dẫn đến các khiếm khuyết trong tổng hợp DNA. Bổ sung axit
folic trong trường hợp không có vitamin B12 ngăn ngừa loại thiếu máu này (mặc dù các bệnh
lý cụ thể khác của vitamin B12 có thể có mặt). Mất vi chất dinh dưỡng cũng có thể là nguyên
nhân. Thiếu đồng do kẽm dư thừa từ việc sử dụng đường uống có hàm lượng răng giả chứa
kẽm cao bất thường đã được tìm thấy là nguyên nhân. [2]
Thiếu máu hồng cầu không do hypovitaminosis có thể do các chất chuyển hóa

antimetabolites gây độc trực tiếp cho DNA, chẳng hạn như một số thuốc hóa trị hoặc kháng
sinh (ví dụ azathioprine hoặc trimethoprim).
trạng thái bệnh lý của megaloblastosis được đặc trưng bởi nhiều tế bào máu đỏ chưa trưởng
thành và rối loạn chức năng (megaloblasts) trong tủy xương [3] và cũng bởi các bạch cầu
trung tính tăng cường (những biểu hiện năm hoặc nhiều thùy hạt nhân ("phân đoạn"), với tối
đa bốn thùy là bình thường). Những bạch cầu trung tính tăng sắc tố này có thể được phát
hiện trong máu ngoại vi (sử dụng mẫu xét nghiệm phết mẫu máu)
Nguyên nhân
Thiếu vitamin B12 dẫn đến thiếu folate:
Sự hấp thu kém hấp thu do Achlorhydria gây ra
Thiếu ăn uống
Yếu tố nội tại thiếu hụt, một phân tử được tạo ra bởi các tế bào trong dạ dày cần thiết cho sự
hấp thụ B12 (thiếu máu ác tính hoặc cắt dạ dày)
Bệnh celiac
Cạnh tranh sinh học đối với vitamin B12 do siêu mầu, rò, hoại tử đường ruột, hoặc nhiễm
trùng do ký sinh trùng biển Diphyllobothrium latum (sán dây cá)
Lựa chọn hấp thu vitamin B12 chọn lọc (thiếu máu bẩm sinh thiếu niên bẩm sinh - và do
thuốc gây ra)
Viêm tụy mãn tính
Hủy bỏ và bỏ qua Ileal
Nitrous oxide gây mê (thường yêu cầu lặp đi lặp lại trường hợp).
Thiếu folate:
Nghiện rượu
Thiếu ăn uống
Nhu cầu gia tăng: mang thai, trẻ sơ sinh, tăng sinh tế bào nhanh và xơ gan
Hấp thu kém (bẩm sinh và do thuốc)
Cắt bỏ đường ruột và jejunal


(gián tiếp) Thiamine thiếu và các yếu tố (ví dụ, các enzym) chịu trách nhiệm cho sự trao đổi

chất folate.
Thiếu hụt kết hợp: vitamin B12 và folate.
Rối loạn tổng hợp Pyrimidine thừa kế: Nhiễm trùng acid niệu
Rối loạn tổng hợp DNA thừa kế
Độc tố và thuốc:
Thuốc đối kháng acid folic (methotrexate)
Các chất đối kháng tổng hợp purine (6-mercaptopurine)
Thuốc đối kháng Pyrimidin (cytarabine)
Phenytoin
Nitơ oxit
Erythroleukemia
Đột biến di truyền bẩm sinh của gen Methionine synthase
Phát hiện huyết học
Màng máu có thể hướng tới sự thiếu hụt vitamin:
Giảm số lượng tế bào hồng cầu (RBC) và nồng độ hemoglobin [4]
Tăng khối lượng thể tích trung bình (MCV,> 100 fL) và hemoglobin có nghĩa là cơ bắp (MCH)
Nồng độ hemoglobin trung bình bình thường (MCHC, 32–36 g / dL)
Số lượng hồng cầu lưới được giảm do sự phá hủy tiền thân của hồng cầu erythyllastic mong
manh và bất thường.
Số lượng tiểu cầu có thể bị giảm. [Cần dẫn nguồn]
Các bạch cầu hạt trung tính có thể cho thấy hạt nhân đa nhân ("bạch cầu trung tính già").
Điều này được cho là do giảm sản xuất và tuổi thọ dài hạn bù cho các bạch cầu trung tính
lưu hành, làm tăng số lượng các phân đoạn hạt nhân theo độ tuổi.
Anisocytosis (tăng biến thể trong kích thước RBC) và poikilocytosis (RBCs hình bất thường).
Macrocytes (lớn hơn bình thường RBCs) có mặt.
Ovalocytes (RBCs hình bầu dục) có mặt.
Các cơ quan Howell-Jolly (tàn dư nhiễm sắc thể) cũng có mặt.
Các hóa chất máu cũng sẽ cho thấy:
Mức độ khử lactic acid dehydrogenase (LDH) tăng lên. Các isozyme là LDH-2 là điển hình của
huyết thanh và các tế bào tạo máu.

Tăng homocysteine và acid methylmalonic trong tình trạng thiếu Vitamin B12
Tăng homocysteine trong tình trạng thiếu folate
Mức độ bình thường của cả hai axit methylmalonic và tổng homocysteine loại trừ sự thiếu
hụt cobalamin lâm sàng đáng kể với sự chắc chắn ảo. [5]
Tủy xương (thường không được kiểm tra ở một bệnh nhân nghi ngờ thiếu máu
megaloblastic) cho thấy tăng sản megaloblastic. [6]

Dinh dưỡng[sửa | sửa mã nguồn]
Các loại rau như rau chân vịt hay rau cải xanh, các loại đỗ và ngũ cốc, gan, thịt gà, và một số hoa
quả như cam, bưởi chứa nhiều axit folic. Một số thức ăn sáng ngũ cốc ở các nước phát triển (nhất
là các nước áp dụng quy định pháp luật bắt buộc để phục vụ cho chương trình sức khỏe quốc gia)
chứa từ 25 đến 100 phần trăm nhu cầu dinh dưỡng hằng ngày về axit folic trong một khẩu phần ăn.
Bảng này (PDF tiếng Anh) cho biết một số loại thức ăn chứa nhiều axit folic.
Lượng axit folic cần thiết hằng ngày được tóm tắt ở bảng sau:
Nhu cầu axit folic hằng ngày (µg)


Nam giới

Trên 19 tuổi

400 µg

1 µg thức ăn chứa axit folic = 0,6 µg axit folic trong thuốc bổ trợ
Theo các điều tra ở Hoa Kỳ (NHANES III 1988-91[8] hay 1994-96 CSFII[9]) đa số mọi người không ăn
đủ axit folic hằng ngày [10][11].
Tại Hoa Kỳ đã có chiến dịch tăng cường axit folic trong khẩu phần ăn, trong ngũ cốc và thức ăn
sáng ngũ cốc, và bước đầu đã cho kết quả khả quan [12]. Tuy nhiên chương trình tương tự ở Châu
Âu có ít hiệu quả [13].


Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
1.

^ Kamen B (1997). “Folate and antifolate pharmacology”. Seminars in oncology 24 (5 Suppl
18): S18–30–S18–39. PMID 9420019.(tiếng Anh)

2.

^ Fenech M, Aitken C, Rinaldi J (1998). “Folate, vitamin B12, homocysteine status and DNA
damage in young Australian adults”. Carcinogenesis 19 (7): 1163–71. PMID 9683174. (tiếng Anh)

3.

^ Zittoun J (1993). “Anemias due to disorder of folate, vitamin B12and transcobalamin
metabolism”. La Revue du praticien 43 (11): 1358–63. PMID 8235383. (tiếng Pháp)

4.

^ Phụ nữ mang thai và axit folic (tiếng Việt)

5.

^ Shaw GM, Schaffer D, Velie EM, Morland K, Harris JA (1995). “Periconceptional vitamin
use, dietary folate, and the occurrence of neural tube defects”. Epidemiology 6 (3): 219–226. PMID
7619926. (tiếng Anh)

6.

^ Mulinare J, Cordero JF, Erickson JD, Berry RJ (1988). “Periconceptional use of
multivitamins and the occurrence of neural tube defects”. Journal of the American Medical

Association 260 (21): 3141–3145. PMID 3184392. (tiếng Anh)

7.

^ Milunsky A, Jick H, Jick SS, Bruell CL, MacLaughlin DS, Rothman KJ, Willett W (1989).
“Multivitamin/folic acid supplementation in early pregnancy reduces the prevalence of neural tube
defects”. Journal of the American Medical Association 262 (20): 2847–2852. PMID 2478730. (tiếng
Anh)

8.

^ National Health and Nutrition Examination Survey

9.

^ Continuing Survey of Food Intakes by Individuals


10.

^ Alaimo K, McDowell MA, Briefel RR, Bischof AM, Caughman CR, Loria CM, Johnson CL
(1994). “Dietary intake of vitamins, minerals, and fiber of persons ages 2 months and over in the
United States: Third National Health and Nutrition Examination Survey, Phase 1, 1988-91”. Advance
Data n° 258: 1–28. PMID 10138938. (tiếng Anh)

11.

^ Raiten DJ, Fisher KD (1995). “Assessment of folate methodology used in the Third National
Health and Nutrition Examination Survey (NHANES III, 1988-1994)”. The Journal of Nutrition 125 (5):
1371S–1398S. PMID 7738698. (tiếng Anh)


12.

^ Lewis CJ, Crane NT, Wilson DB, Yetley EA (1999). “Estimated folate intakes: data updated
to reflect food fortification, increased bioavailability, and dietary supplement use”. The American
Journal of Clinical Nutrition 70 (2): 198–207. PMID 10426695. (tiếng Anh)

13.

^ Các chính sách về axit folic của Châu Âu chưa hiệu quả (tiếng Việt)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]



Axit folic và phụ nữ mang thai
Tài liệu "Trước khi quý vị mang thai" thuộc phạm vi công cộng của Cơ quan Y tế Thụy
Điển (PDF tiếng Việt)

Axit folic có trong thực phẩm nào?
Mẹ bầu có thể bổ sung axit folic trực tiếp bằng thực phẩm hàng ngày. Đây là loại axit
folic tự nhiên, tốt nhất cho cơ thể. Nếu băn khoăn axit folic có trong thực phẩm nào? Bà
bầu nên ăn gì để bổ sung axit folic, mẹ tham khảo những gợi ý thực phẩm giàu axit folic
sau nhé:










Cam: Giàu axit folic, cam còn là nguồn dồi dào của chất xơ và vitamin C. Nó vừa
giúp tăng khả năng hấp thụ sắt, lại vừa giúp giảm nguy cơ táo bón khi nạp folate vào
cơ thể.
Sữa, chế phẩm từ sữa: Ngoài axit folic, sữa chứa nhiều protein và canxi, rất tốt
cho sức khỏe của mẹ bầu và sự phát triển của thai nhi.
Măng tây: Trong các loại rau quả, măng tây chứa hàm lượng folate cao nhất. 5
cây măng tây chứa khoảng 1000 microgram axit folic. Khi chế biến, bạn nên hạn chế
nấu quá kỹ vì có thể làm mất chất.
Rau bina: Hàm lượng axit folic trong rau bina rất cao so với các loại rau sẫm
màu khác. Đây cũng là loại rau rất giàu sắt, cực kỳ lành mạnh cho phụ nữ mang thai
ăn nhiều trong thai kỳ.
Bông cải xanh: Xếp sau măng tây và rau bina, bông cải xanh là lựa chọn lý
tưởng khác cho thực đơn ăn uống hằng ngày của bà bầu giúp bổ sung thêm lượng
folate cần thiết. Bà bầu còn có thể yên tâm ngăn ngừa hiện tượng táo bón khi ăn
nhiều món rau này.


Lòng đỏ trứng: Vitamin A, vitamin D, axit folic tập trung chủ yếu ở lòng đỏ trứng



gà.






Đậu tương: Các loại đậu chứa lượng folate dồi dào, cao nhất phải kể đến đậu
tương. Các chế phẩm từ đậu tương: Sữa đậu nành, đậu phụ,…
Khoai tây: Ngoài axit folic, khoai tây còn chứa kẽm hỗ trợ cho sự phát triển dây
thần kinh não của thai nhi.
Ngũ cốc thô: Đây là món không thể thiếu nếu mẹ bầu muốn cơ thể hấp thu tốt
lượng chất xơ và một số dưỡng chất cần thiết khác.
Quả bơ: Một nửa quả bơ chứa khoảng 90mcg folate, hơn nữa còn rất giàu chất
béo lành mạnh axit béo omega 3 cực tốt cho tim mẹ và não bé.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×