Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.79 KB, 163 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THANH HẢI

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
SAU 1986
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 9 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Đoàn Đức Phương
2. PGS TS Lưu Khánh Thơ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận án là trung thực, các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng … năm 2018
Tác giả

Vũ Thị Thanh Hải


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................................... 6
1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu lý thuyết tự sự hiện đại.................................................... 6
1.2. Tổng quan những nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam
viết về chiến tranh sau 1986 ........................................................................................... 20
Chương 2. SỰ VẬN ĐỘNG VÀ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1986........................................................... 28
2.1. Sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 ............................. 28
2.2. Đặc trưng thể loại của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 .................... 35
Chương 3. TRUYỆN KỂ VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1986........................................................... 54
3.1. Truyện kể trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 .............................. 54
3.2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 .............78
Chương 4. NHÂN VẬT VÀ NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1986 .......... 104
4.1. Nhân vật trong tự sự của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 .............. 104
4.2. Ngôn ngữ trần thuật.......................................................................................................... 125
4.3. Giọng điệu trần thuật........................................................................................................ 132
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............................................ 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 148


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự sự học (Narratology) - một bộ môn nghiên cứu đặc thù của lý luận văn học,
lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng đã trở thành lĩnh vực học thuật thu hút sự chú ý của
đông đảo các nhà khoa học trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhiều công trình
nghiên cứu đã dành sự quan tâm đặc biệt đến lý thuyết tự sự và những ứng dụng của
nó trong việc giải mã cấu trúc văn bản truyện kể. Nghiên cứu văn học từ phương diện
tự sự cũng là một hướng tiếp cận cần thiết nhằm khám phá sâu hơn cấu trúc văn bản

nghệ thuật – đặc biệt là cấu trúc tiểu thuyết với những dấu hiệu đặc thù của nghệ thuật
tự sự.
Lý thuyết tự sự học nghiên cứu nhiều phương diện phong phú và đa dạng liên
quan đến vấn đề trần thuật (loại hình trần thuật, tác giả, truyện kể, nhân vật, vai, người
kể chuyện, người nghe chuyện, ngôi kể, điểm nhìn...). Vận dụng lý thuyết tự sự để tìm
hiểu các hiện tượng văn học đòi hỏi người nghiên cứu phải nhìn từ góc độ thi pháp để
có những lựa chọn thích đáng, đi sâu vào nội dung bản chất của một ngành nghiên cứu
có khuynh hướng trung gian giữa “một phía là chủ nghĩa cấu trúc và một phía khác là
mỹ học tiếp nhận và phê bình phản xạ độc giả” [61; 205]. Luận án của chúng tôi vận
dụng những phương diện lý thuyết căn bản và trọng yếu về truyện kể, người kể
chuyện, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu để nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong tiểu
thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau năm 1986.
Ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, việc xảy ra những cuộc xung đột,
những cuộc chiến tranh là điều khó có thể tránh khỏi. Chiến tranh - đó là một trong
những hiện tượng, sự kiện lịch sử, xã hội đặc thù, một thách thức không nhỏ đối với
con người và là một đề tài lớn của văn học từ xưa đến nay. Ở Việt Nam, chiến tranh
vẫn là đề tài có tính thời sự, luôn thu hút đông đảo các thế hệ nhà văn và vẫn có sức
hấp dẫn đối với công chúng. Sau năm 1986, sự chuyển đổi mạnh mẽ trong đời sống xã
hội, văn hóa đã tác động đến đời sống văn học đương đại. Riêng ở lĩnh vực tiểu thuyết,
sự đổi mới tư duy nghệ thuật đã tạo tiền đề cho những cách tân thể loại. Tiểu thuyết
viết về chiến tranh sau năm 1986 không chỉ phong phú về số lượng mà còn đa dạng

1


trong cách thức thể hiện, đáng chú ý là sự đổi mới nghệ thuật tự sự với sự đóng góp
của nhiều thế hệ nhà văn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết
viết về chiến tranh của những tác giả riêng biệt hay những giai đoạn trước đó, nhưng
khám phá tiểu thuyết chiến tranh sau Đổi mới từ phương diện nghệ thuật tự sự vẫn là
một vấn đề còn để ngỏ. Do vậy, việc vận dụng lý thuyết tự sự học vào nghiên cứu

phạm trù văn học này là cần thiết và có ý nghĩa. Tiếp cận văn học từ hướng đi này sẽ
đem lại một cái nhìn đa chiều, đa diện không chỉ với tiểu thuyết chiến tranh mà cả diện
mạo văn xuôi Việt Nam đương đại.
Trên đây là tất cả những lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài Nghệ thuật tự sự
trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau
1986 ở phương diện truyện kể, người kể chuyện, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu.
- Tìm ra những điểm chung trong sự đổi mới tư duy và phương thức tự sự của các
nhà văn có tác phẩm viết về chiến tranh giai đoạn từ 1986 đến nay ở thể loại tiểu thuyết.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1986 để thấy được sự thay đổi
trong quan niệm nghệ thuật, sự đa dạng trong góc nhìn và trong lối viết của các nhà
văn sau 1986 về hiện thực chiến tranh và số phận con người.
- Vận dụng lý thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích một số tiểu thuyết
viết về chiến tranh sau 1986 nhằm thấy được điểm chung, điểm riêng, sự kế thừa và cách
tân trong nghệ thuật tự sự của các nhà văn giai đoạn này.
- Thông qua việc chứng minh sự linh hoạt, sáng tạo của các nhà văn trong cách
vận dụng các phương tiện nghệ thuật để khám phá tiểu thuyết viết về chiến tranh sau
1986, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của
họ đối với thể loại tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ Đổi mới.

2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các bình diện cơ bản
như truyện kể, người kể chuyện, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu trong tiểu thuyết Việt

Nam viết về chiến tranh từ 1986 đến nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những tiểu thuyết viết về chiến tranh
xuất bản tại các nhà xuất bản ở Việt Nam từ 1986 đến nay. Song, do khối lượng tác
phẩm khá lớn và sự hạn chế về nguồn tư liệu, chúng tôi chỉ lựa chọn những tác phẩm
tiêu biểu về đề tài chiến tranh để thuận lợi cho việc nghiên cứu, đánh giá. Trong đó,
chúng tôi đặc biệt chú ý đến những tác phẩm tiểu thuyết của các tác giả có vị trí và
đóng góp to lớn cho mảng đề tài này như Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang
Thụy, Bảo Ninh... Tác phẩm của họ một mặt thể hiện được diện mạo, khuynh hướng
của tiểu thuyết chiến tranh sau Đổi mới, mặt khác còn là những tác phẩm tiêu biểu cho
hiệu quả tự sự của tiểu thuyết viết về chiến tranh giai đoạn này.
Bên cạnh đó, những tiểu thuyết viết về chiến tranh đã đạt các giải thưởng văn
học của Hội Nhà văn Việt Nam, của Bộ Quốc phòng, một số tiểu thuyết có sự cách tân
được dư luận chú ý... cũng được chúng tôi quan tâm và đưa vào trong luận án. Ngoài
ra, để tiện cho việc so sánh, làm rõ những đổi mới về kỹ thuật tự sự của tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986 viết về chiến tranh, chúng tôi còn tìm hiểu những tiểu thuyết được
viết trước năm 1986 (1975-1985) về chiến tranh (trường hợp này chúng tôi chỉ trích
dẫn những tác phẩm ở khu vực chính thống). Những tác phẩm tiểu thuyết của các tác
giả nước ngoài viết về chiến tranh Việt Nam và tiểu thuyết lịch sử không nằm trong
phạm vi khảo sát của luận án.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Về mặt phương pháp luận, chúng tôi chủ yếu sử dụng những lý thuyết nghiên
cứu hình thức từ thi pháp học (poetics) đến tự sự học (naratology) để tái hiện lại cấu
trúc tự sự của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986.
- Về các phương pháp nghiên cứu cụ thể, chúng tôi sử dụng các phương pháp
chuyên ngành của văn học sử và thi pháp học hiện đại như:

3



4.1. Phương pháp tiếp cận từ lý thuyết tự sự học: Chúng tôi vận dụng lý thuyết
tự sự học ở một số bình diện cơ bản như truyện kể, người kể chuyện, nhân vật, ngôn
ngữ tự sự, giọng điệu tự sự để phân tích, lý giải những đổi mới trong tư duy/ phương
thức tự sự của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986.
4.2. Phương pháp loại hình: Đây là phương pháp vận dụng những nguyên tắc
loại hình học trong lĩnh vực văn học, giúp chúng tôi bao quát tiểu thuyết viết về chiến
tranh (sau 1986) ở các dạng thức biểu hiện cụ thể xét từ phương diện nghệ thuật tự sự;
chỉ ra các kiểu dạng của truyện kể, ngôi kể, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu…
4.3. Phương pháp cấu trúc: Phương pháp này giúp người nghiên cứu tìm hiểu
quá trình sắp xếp, tổ chức cấu trúc tự sự của các tác phẩm tiểu thuyết Việt Nam viết về
chiến tranh sau 1986. Từ việc tìm hiểu những cấu trúc chỉnh thể cấu thành nên “bộ
khung” của mỗi tác phẩm, chúng tôi đưa ra những lý giải khoa học về giá trị của thể
loại tiểu thuyết viết về mảng đề tài chiến tranh sau Đổi mới.
4.4. Phương pháp hệ thống: Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn tiểu thuyết
Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986 như một hệ thống và đặt nó trong hệ thống lớn
hơn là tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời có thể đưa ra những đánh giá
về đóng góp và giới hạn trong nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết Việt Nam viết về
chiến tranh giai đoạn này một cách khách quan và toàn diện.
4.4. Phương pháp thống kê: Phương pháp này được áp dụng trong quá trình
khảo sát văn liệu để từ đó có thể đưa ra kết luận khoa học về các phương diện của
nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986.
4.5. Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để chỉ ra những
đóng góp cách tân về nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết viết về chiến tranh sau Đổi mới
với các giai đoạn trước đó.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án góp phần khẳng định tầm quan trọng của việc ứng dụng lý thuyết tự
sự học vào việc tìm hiểu các hiện tượng văn học sau Đổi mới, đặc biệt là ở lĩnh vực
tiểu thuyết viết về mảng đề tài chiến tranh.
- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về một số vấn đề của nghệ thuật tự sự
trong tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986.


4


- Luận án khẳng định vai trò, nỗ lực sáng tạo của các nhà văn trong việc cách
tân tiểu thuyết trên phương diện nghệ thuật tự sự, qua đó nhận diện thành tựu nghệ
thuật của tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ Đổi mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có giá trị lý luận và thực tiễn. Luận án là một trong những công trình
nghiên cứu toàn diện, có hệ thống các tác phẩm tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh
từ 1986 đến nay. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ sự vận động và
đặc trưng thể loại, truyện kể và người kể chuyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu trần
thuật của tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh sau 1986. Luận án được thực hiện
thành công sẽ bổ sung thêm nguồn tư liệu cho công tác nghiên cứu khoa học về tiểu
thuyết, về văn học chiến tranh nói riêng và văn xuôi Việt Nam đương đại nói chung.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được triển khai thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự vận động và đặc trưng thể loại của tiểu thuyết Việt Nam viết về
chiến tranh sau 1986
Chương 3: Truyện kể và người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam viết về
chiến tranh sau 1986
Chương 4: Nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam viết về chiến tranh sau 1986

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu lý thuyết tự sự hiện đại
1.1.1. Những dòng chủ lưu
Roland Barthes nói: “Đã có bản thân lịch sử loài người thì đã có tự sự” [135; 12].
Tự sự gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử loài người. Quả thật
như vậy, ngay từ thời cổ đại, từ Platon, Aristote người ta đã biết phân biệt các loại tự
sự: tự sự lịch sử khác tự sự nghệ thuật. Thế kỷ 5 CN, người ta tiếp tục phân biệt tự sự
mô phỏng, tự sự giải thích và tự sự hỗn hợp. Tuy nhiên, phạm vi quan tâm lúc đó mới
chỉ nằm trong giới hạn của tu từ học. Chỉ đến khoảng những năm 60 – 70 của thế kỷ
XX, khái niệm tự sự học mới bắt đầu khẳng định sự xuất hiện của mình với tư cách là
một lý thuyết nghiên cứu các đặc điểm nghệ thuật kể chuyện của văn bản tự sự.
Trong suốt một thế kỷ qua, lý thuyết tự sự không ngừng vận động và phát triển,
mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn sáng
tác. Tổng thuật quá trình nghiên cứu của lý thuyết tự sự hiện đại trên thế giới, nhà lý
luận Mỹ Gerald Prince đã chia ra làm ba nhóm, tạo thành những dòng chủ lưu sau:
Nhóm thứ nhất chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V.
Propp, Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne
Souriau… chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, đối tượng của trần thuật, trong
đó chú ý xây dựng ngữ pháp của tự sự, chức năng của sự kiện, kết cấu logic phát triển
của chúng, không đi sâu vào đặc trưng biểu đạt của chất liệu. Nhóm này xem công
trình Hình thái học truyện cổ tích thần kỳ Nga (1928) của Propp là cuốn sách mở đầu
cho tự sự học cấu trúc luận.
Nhóm thứ hai gồm G. Genette, F. Stanzel, Dolezel, S. Lanser… tập trung
nghiên cứu sự triển khai của diễn ngôn trần thuật. Họ xem nguồn gốc của tự sự là dùng
ngôn ngữ biểu đạt và vai trò của người trần thuật là quan trọng nhất do đó họ tập trung
nghiên cứu lời kể, cách kể. Genette đưa ra ba phạm trù của diễn ngôn trần thuật: thời
thái (tence) quan hệ với thời gian, ngữ thức (mood) quan hệ với cự ly và góc độ trần
thuật, ngữ thái (voice) liên quan đến tình huống, quan hệ người kể và người nhận. F.

6



Stanzel đề ra khái niệm tình huống kể (narative situation). S. Lanser và James Phelan
có những phát biểu về mối quan hệ giữa giọng điệu kể và các biện pháp tu từ. Có thể
nói lý thuyết tự sự cấu trúc chủ nghĩa là một di sản vô giá để đọc hiểu văn bản tự sự,
nó đã cung cấp một hệ thống các khái niệm công cụ rất có hiệu quả để phân tích diễn
ngôn tự sự. Tuy nhiên, điểm hạn chế của lý thuyết này là mới chỉ dừng lại ở việc miêu
tả các yếu tố hình thức cấu trúc tự sự trong thế tĩnh tại, khép kín mà chưa đi sâu tìm
hiểu cơ chế vận hành của tự sự trong ngữ cảnh tiếp nhận và văn hóa.
Nhóm thứ ba với những đai diện tiêu biểu như Gerald Prince, Seymour
Chatman, Mieke Bal quan tâm đến phương pháp nghiên cứu tổng thể. Họ cho rằng cấu
trúc diễn ngôn và cấu trúc truyện đều quan trọng như nhau nên chủ trương nghiên cứu
cả hai mặt. Mieke Bal trong cuốn Tự sự học – giới thiệu về lý thuyết tự sự chia việc kể
chuyện làm ba tầng bậc: văn bản trần thuật gồm người kể chuyện hay người trần thuật,
lời trần thuật (lời bình luận phi tự sự, lời trực tiếp, lời gián tiếp…); truyện kể gồm trật
tự sắp xếp, nhịp điệu, nhân vật, không gian, tiêu cự trần thuật; câu chuyện gồm sự
kiện, vai hành động, thời gian, địa điểm. Các khái niệm hạt nhân của mỗi tầng bậc lại
gồm nhiều khái niệm bộ phận đan kết, xuyên thấm vào nhau trong chức năng và mục
đích kể chuyện. Như vậy, M. Bal đã cung cấp một hệ thống khái niệm khá chặt chẽ có
thể làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu tự sự.
Lý thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của cấu
trúc tự sự với nhiều vấn đề cần tìm tòi, suy nghĩ: người kể chuyện, điểm nhìn, dòng ý
thức, không gian, thời gian của truyện kể, giọng điệu trần thuật… Lý thuyết này không
chỉ cho thấy kỹ thuật trần thuật của các thể loại nói chung, các nhà văn nói riêng mà
còn cho thấy được truyền thống văn học, văn hóa của mỗi dân tộc.
Khi chủ nghĩa giải cấu trúc xuất hiện, một số người vội vàng dự báo tự sự học
với tư cách một phân nhánh của chủ nghĩa cấu trúc sớm muộn cũng đi đến hồi kết. Thế
nhưng, đến những năm 80 – 90 tự sự học vẫn giữ được niềm hứng thú và theo nhận
định của một số học giả Mỹ nó còn được phục hưng và trung tâm của nó hầu như đã
chuyển sang Mỹ. Năm 1993, tạp chí Tự sự ra đời. Năm 1994, xuất hiện một loạt công
trình về tự sự học của Mỹ. Theo David Herman trong sách Tân tự sự học: “Mười năm

trở lại đây, thi pháp tự sự đã có những đổi thay đáng kinh ngạc, đến hôm nay có thể

7


nói tự sự đã phục hưng, nói cách khác tự sự học đã từ giai đoạn kinh điển của chủ
nghĩa cấu trúc, một giai đoạn của Sausure vốn khá xa cách với văn học đương đại để
bước sang giai đoạn hậu kinh điển” [21; 2-3].
Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, lý luận phê bình văn học đã ghi
nhận sự đổi mới, mở rộng đáng kể của tự sự học. Khi tự sự học kinh điển bị công kích
bởi chủ nghĩa giải cấu trúc và chủ nghĩa lịch sử, tự sự học hậu kinh điển ra đời. Nếu tự
sự học kinh điển coi văn bản tác phẩm là một hệ thống tự thân khép kín, không có liên
hệ với bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa thì tự sự học hậu kinh điển lại là một hướng
nghiên cứu mở. Nó kết hợp quan niệm phê bình phản ứng người đọc với hướng nghiên
cứu văn hóa để nghiên cứu tự sự trong quan hệ với người đọc, ngữ cảnh và với các
lĩnh vực tự sự ngoài văn học.
Tự sự học hiện nay có nhiều hướng đi mới mẻ. Hướng thứ nhất nghiên cứu đặc
trưng chung của tác phẩm tự sự, sự khác nhau về phương tiện và thể loại (văn học,
điện ảnh, truyện tranh, báo chí...). Hướng thứ hai chuyển từ phân tích cấu trúc tự sự
trừu tượng sang tập trung phân tích cấu trúc tự sự của tác phẩm cụ thể. Trường hợp
công trình Mơ hồ và tầng bậc tự sự (1982) của nhà nghiên cứu Israel, bà Rimmon
Kenan phân tích các tác phẩm của Hemingway là một ví dụ. Hướng thứ ba là mô hình
tự sự học hôm nay có công thức “tự sự học + X”, trong đó nhân tố “X” có thể là chủ
nghĩa nữ quyền hay nghiên cứu giới tính, nghiên cứu văn hóa hay nghiên cứu hậu thực
dân, nghiên cứu tự sự học tâm lý, tự sự học pháp luật, tự sự học lịch sử (như H.
White), tự sự học hậu hiện đại (như M. Coli), tự sự học tu từ (Phelan, Karl Kao)…
1.1.2. Hướng nghiên cứu lý thuyết tự sự ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, lý thuyết về tự sự
học mới được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức. Trần Đình Sử là một trong
những người đầu tiên đưa tự sự học vào giới thiệu ở Việt Nam. Năm 2001, hội thảo

quy mô toàn quốc về tự sự học đã được tổ chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Trong bài viết Tự sự học – một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng và Tự sự
học không ngừng mở rộng và phát triển, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược những
vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon, Aritoste, Tz.
Todorov, G. Genette… Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự sự học. Sau

8


cuộc hội thảo này, nhiều bài tham luận đã được tập hợp và in thành cuốn: Tự sự học –
Một số vấn đề lý luận và lịch sử (phần 1 và phần 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội,
2004 & 2008) do Trần Đình Sử chủ biên. Đây là một trong những công trình có ý
nghĩa lớn, nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về lý thuyết tự sự học cũng
như những ứng dụng trong việc lý giải các hiện tượng văn học cụ thể. Tiếp đó, trong
công trình Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử đã xác định vị trí của thi pháp học
trong khoa nghiên cứu văn học, đối tượng, phạm trù và phương pháp nghiên cứu thi
pháp, ông tập trung đi sâu hệ thống, cắt nghĩa những khái niệm thuộc về trần thuật học
như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian – không gian nghệ thuật, tác giả và
kiểu tác giả, tính quan niệm và cấu trúc thể loại, cấu trúc của văn bản trần thuật…
Cuối năm 2017, Gs. Ts. NGND Trần Đình Sử cùng với nhóm các nhà nghiên cứu
(Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu, La Khắc Hòa…) đã biên soạn và cho ra mắt công
trình Tự sự học – Lý thuyết và ứng dụng. Có thể nói, đây là công trình công phu và
toàn diện nhất từ trước tới nay về các nội dung cơ bản của tự sự học, một ngành
nghiên cứu văn học hiện đại. Nội dung công trình bao gồm ba phần chính: Phần một –
Tự sự học kinh điển, gồm 10 chương, trình bày sự phát triển của tự sự học kinh điển,
các phạm trù cơ bản của tự sự học kinh điển (Tự sự và mô hình cấu trúc tự sự; Sự kiện,
nhân vật và tình tiết truyện; Thời gian trần thuật, không gian trần thuật, văn bản trần
thuật…). Phần hai – Tự sự học hậu kinh điển, gồm 7 chương, trình bày sự phát triển
của tự sự học hậu kinh điển với bốn hướng nghiên cứu chính: tự sự học tri nhận, tự sự
học gắn với phái tính (tự sự học nữ quyền và đồng tính luận), tự sự học tu từ, tự sự học

điện ảnh và nghệ thuật thị giác. Phần ba – Tự sự học ứng dụng, gồm 3 chương. Ở phần
này, tác giả giới thiệu việc ứng dụng tự sự học trong phân tích tác phẩm tự sự hoặc nghiên
cứu loại hình của các thể loại tự sự qua trường hợp ở Nga, Trung Quốc và Việt Nam.
Tìm hiểu các công trình, bài viết về tự sự học chúng tôi nhận thấy có các hướng
nghiên cứu tự sự học ở Việt Nam như sau:
Hướng thứ nhất: giới thiệu, dịch thuật lý thuyết tự sự của các học giả nước
ngoài. Có thể kể đến các công trình như: Cấu trúc truyện kể của A.L. Greimas
(Nguyễn Đức Dân giới thiệu và lược dịch), Tự sự học của M. Bal (Nguyễn Thị Ngọc
Minh giới thiệu và lược dịch), Tự sự học của S. Onega & J.A.G. Landa (Lê Lưu Oanh

9


và Nguyễn Đức Nga giới thiệu và lược dịch), Lý thuyết tự sự của H. White (Trần Ngọc
Hiếu giới thiệu và lược dịch), Điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg
(Cao Kim Lan giới thiệu), Lý thuyết về người nghe chuyện trong tác phẩm tự sự của G.
Prince (Nguyễn Thị Hải Phương giới thiệu và lược dịch), Trần thuật học, nhập môn lý
thuyết trần thuật của M. Jahn (Nguyễn Thị Như Trang dịch), roust và lời gián tiếp
của G. Genette (Phùng Kiên dịch)… Bên cạnh đó, các tiểu luận quan trọng như Thi
pháp học của Tz. Todorov, Cơ sở của kí hiệu học của R. Barthes, Cấu trúc văn bản
nghệ thuật của Ju. Lotman cũng được dịch và giới thiệu bởi hai nhà nghiên cứu Trịnh
Bá Đĩnh và Lã Nguyên. Ngoài ra phải kể đến những công trình dịch và nghiên cứu
diễn ngôn của Trần Đình Sử, Lã Nguyên, Lê Thời Tân, Nguyễn Thị Ngọc Minh… như
là nỗ lực kiến giải những thuật ngữ gây tranh luận trong lý thuyết tự sự học hiện nay.
Trong công trình hai tập Lý luận phê bình văn học thế giới (Lộc Phương Thủy
chủ biên và nhiều tác giả tham gia dịch thuật) đã tuyển dịch một số công trình quan
trọng liên quan đến Tự sự học của Tz. Todorov (Hai nguyên tắc của truyện kể), G.
Genette (Ngôi, Trật tự). Ngoài ra, công trình Thi pháp văn xuôi của Tz. Todorov
(Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch) cũng đã tập hợp những bài nghiên cứu liên quan
đến truyện kể, đặc biệt trong đó có công trình Ngữ pháp câu chuyện mười ngày.

Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nhà xuất bản Văn học đã phối hợp cho ra
mắt công trình Những vấn đề văn học phương Tây hiện đại – Tự sự học kinh điển. Đây
là công trình dịch thuật những tiểu luận của một số nhà tự sự học (nhóm dịch giả Duy
Châu và Xuân Lộc), trong đó đáng chú ý là R. Barthes (Đề dẫn về phân tích kết cấu
ngôn ngữ truyện kể), A.J. Greimas (Luận về những thành tố tạo nên sự diễn đạt truyện
thần thoại), Tz. Todorov (Những phạm trù của truyện kể văn học), G. Genette (Biên giới
của truyện kể), Wayne C. Booth (Khoảng cách và điểm nhìn)…
Ban Văn học nước ngoài của Viện Văn học đã thực hiện đề tài Tự sự học, lý
luận và ứng dụng, tập trung nghiên cứu tự sự học từ những vấn đề lịch sử, lý thuyết
đến ứng dụng ở một số nền văn học như Trung Quốc, Nga, Pháp, Anh, Mỹ, Ấn Độ,
Nhật Bản và chủ yếu là Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu đầu tiên đã được chọn
lựa, giới thiệu trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9/2010 với chuyên đề Tự sự học.

10


Trần Huyền Sâm là một trong những người có nhiều tâm huyết trong việc đưa
bộ môn tự sự học vào giảng dạy và nghiên cứu ở Việt Nam. Bên cạnh công trình biên
soạn, giới thiệu lý thuyết tự sự học kinh điển, Trần Huyền Sâm còn có một số bài
nghiên cứu về “Ba nhà tự sự học kinh điển của Pháp” (R. Barthes, Tz. Todorov, G.
Genette) cùng những công trình quan trọng làm nên diện mạo tự sự học ở Pháp. Ngoài
ra, tác giả còn đóng góp nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như: Lý thuyết tự sự học
kinh điển của G. Genette, Discours du récit (Diễn ngôn truyện kể), Nouveau discours
du récit (Diễn ngôn mới về truyện kể). Từ lý luận đến thực tiễn nghiên cứu, tác giả còn
vận dụng khá nhuần nhuyễn các phạm trù của tự sự học trong việc giải mã một số hiện
tượng văn học ở Việt Nam và thế giới.
Biên soạn và nêu ra một cách hệ thống các yếu tố cơ bản của tự sự học có công
trình Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và
Hoa Kỳ thế kỷ XX của nhóm những nhà nghiên cứu Nga (I.P. Ilin và E.A. Tzurganova
chủ biên – Lại Nguyên Ân, Trần Hồng Vân và Đào Tuấn Ảnh dịch). Đây là một dạng

từ điển thuật ngữ về các yếu tố cơ bản của tự sự học, trong đó có trần thuật học. Giới
thuyết những thuật ngữ trọng yếu về trần thuật học (chẳng hạn như trần thuật học, các
cấp độ trần thuật, các bậc trần thuật, người trần thuật, người nghe chuyện, tiêu cự hóa,
các kiểu trần thuật của vai, của tác giả…), các tác giả làm rõ những vấn đề cơ bản của
lý thuyết tự sự học một cách có hệ thống. Công trình này là cẩm nang thiết yếu cho
những ai muốn tìm hiểu về truyện kể và nghệ thuật cấu trúc truyện kể trong các tác
phẩm văn chương.
Trong lời giới thiệu công trình Discourse (Diễn ngôn), Sara Mills đã tổng thuật
định nghĩa và quan điểm nghiên cứu diễn ngôn của nhiều nhà lý luận, lịch sử phát triển
của thuật ngữ, đặc biệt là những tư tưởng cơ bản của Foucault về diễn ngôn… Năm 2013,
Lã Nguyên đã biên dịch, giới thiệu “22 đoạn trích” luận bàn về thuật ngữ “diễn ngôn”
được rút ra từ công trình Các lý thuyết diễn ngôn hiện đại: phân tích đa ngành. Cuốn sách
tập hợp công trình nghiên cứu của các học giả nổi tiếng Bỉ, Hà Lan, Úc, Nga với nội dung
tập trung vào hai bình diện: Lý thuyết diễn ngôn của các khuynh hướng, trường phái Âu,
Mỹ, Nga và Phân tích các loại diễn ngôn.
Hướng thứ hai: tiếp cận các tác phẩm cụ thể từ góc độ tự sự học hiện đại

11


Luận án đủ ở file: Luận án full













×