Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận sự kiện vedan và một số vấn đề về công tác quản lý nhà nước về môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.5 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………. 2
I. TÌNH HUỐNG ……………………………………………………………4
II. PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG…………………………6
1. Mục tiêu xử lý tình huống………………………………………6
2. Cơ sở lý luận……………………………………………………......6
3. Phân tích tình huống……………………………………………..7
4. Phương án giải quyết tình huống……………………………..11
III. KIẾN NGHỊ …………………………………………………………….15
KẾT LUẬN …………………………………………………………………..17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………..19

1


LỜI NÓI ĐẦU

T

hế giới ngày nay đang đứng trước nhiều thách thức, trong đó những
thách thức về môi trường đang trở nên ngày càng cấp bách, mang
tính chất và quy mô toàn cầu. Ô nhiễm môi trường diễn ra ở tất cả

các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, ở nhiều ngành kinh tế đặc biệt là công
nghiệp và nông nghiệp, ở tất cả các lĩnh vực môi trường như: ô nhiễm khí
khói bụi, nước mặt, nước ngầm, chất thải, v.v...
Vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay đang là
vấn đề cấp thiết. Công tác quản lý Nhà nước về môi trường mặc dù đã có
nhiều cố gắng nhưng khách quan mà nói vẫn còn nhiều yếu kém và bất cập.
Vì vậy, có thể nói tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường ở nước ta ngày


càng trầm trọng, thậm chí có nơi, có lúc, có lĩnh vực đã và đang báo động lớn,
là một trong những trở ngại cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Một trong những tâm điểm chú ý của dư luận xã hội trong thời gian vừa
qua là những phát hiện chấn động về việc Công ty Vedan Việt Nam đã đổ
nước thải độc hại chưa hề được xử lý ra sông Thị Vải trong suốt 14 năm ròng,
đầu độc nghiêm trọng môi trường ở khu vực này. Có thể nói, sự kiện Vedan đã
được coi là vụ điển hình trong chỉ đạo xử lý về môi trường và là lời cảnh báo
cho tất cả các doanh nghiệp về tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường của Việt
Nam. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét, xử lý vụ việc này của các cơ quan
chức năng, cũng có thể rút ra nhiều vấn đề về công tác quản lý, xử lý sai
phạm về bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc ban hành và vận dụng các văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan một cách thống nhất, đồng bộ, hiệu lực
và hiệu quả.
Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước, học viên chọn đề tài “Sự kiện
Vedan và một số vấn đề về công tác quản lý Nhà nước về môi trường” làm

2


tiểu luận tình huống của khóa học với mục đích làm rõ hơn một số vấn đề
trong công tác quản lý, xử lý sai phạm về bảo vệ môi trường của các cơ quan
chức năng.
Tiểu luận sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp trên cơ sở lý luận
về quản lý hành chính Nhà nước qua bài giảng của các giảng viên
…………….., trên sự tham khảo các văn bản quản lý Nhà nước về môi
trường và thông tin về sự kiện trên các báo, tạp chí.
Trong phạm vi của một bài tiểu luận và khả năng hạn chế của học viên
đề tài chắc sẽ còn nhiều thiếu sót. Học viên rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp để đề tài hoàn chỉnh hơn.
Học viên xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo bồi

dưỡng công chức và tại chức, thầy giáo …………….. đã tận tình giúp đỡ, bổ
sung kiến thức quý báu cho em trong suốt khóa học.

3


I. TÌNH HUỐNG

N

ăm 1991, Công ty Vedan Việt Nam được thành lập và bắt đầu đi
vào hoạt động chính thức từ năm 1993 với 100% vốn của Đài
Loan, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất bột ngọt, tinh bột

biến tính, nước đường, xút, thức ăn chăn nuôi,… với tổng diện tích 120 ha
trên địa bàn xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Năm 1994, nghĩa là chỉ sau 1 năm Công ty Vedan Việt Nam chính thức
đi vào hoạt động, đã có nhiều người dân phản ánh về dấu hiệu vi phạm của
Công ty này đối với môi trường. Những ô nhiễm môi trường do Vedan gây ra
khi đó đã gây nên tình trạng đột tử hàng loạt của các loại thủy sản và làm cho
môi trường sông Thị Vải ngày càng xuống cấp trầm trọng.
Từ thời gian đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai mỗi năm
tiến hành từ 2 đến 3 cuộc thanh tra các công ty có nguồn nước xả thải ra sông
Thị Vải, trong đó có Vedan Việt Nam. Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi
trường khi đó cũng mỗi năm triển khai một lần thanh tra.
Năm 2005, Công ty Vedan Việt Nam đã phải đền bù 15 tỷ đồng cho
nông dân nuôi trồng thủy sản thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và
TP. Hồ Chí Minh. Cũng trong năm 2005, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã
thanh tra công tác bảo vệ môi trường đối với Vedan Việt Nam và đề nghị Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính 9 triệu đồng.

Trước đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai đã xử phạt cảnh cáo
đối với hành vi vi phạm xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép của Vedan
Việt Nam.
Như vậy có thể nói, việc vi phạm của Vedan Việt Nam đã diễn ra trong
một khoảng thời gian rất dài. Và những hệ lụy của việc vi phạm đó đã là nhãn
tiền trước bàn dân thiên hạ với một hiện thực nhức nhối là dòng sông Thị Vải

4


đang chết dần chết mòn vì các nguồn nước thải công nghiệp. Tuy nhiên, vẫn
chỉ là những cuộc thanh tra, xử phạt hành chính và Vedan Việt Nam vẫn
ngang nhiên hoạt động và vô tư xả hàng ngàn m3 nước thải vô cùng độc hại ra
dòng sông Thị Vải. Thậm chí, năm 2004, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Đồng Nai còn có văn bản gửi Hội đồng thi đua tỉnh đề nghị khen thưởng
Công ty Vedan Việt Nam trong khi vẫn tồn tại hàng loạt ý kiến, khiếu nại của
người dân về những vi phạm môi trường của công ty này (?!).
Chỉ đến ngày 08/9/2008, sau nhiều tháng mật phục, Cục Cảnh sát môi
trường (Bộ Công an) và đoàn kiểm tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường mới
bắt quả tang Công ty Vedan xả nước thải chưa xử lý ra sông Thị Vải qua việc
phát hiện một hệ thống đường ống ngầm được xây dựng hết sức tinh vi và
hiện đại.
Điều đáng nói ở đây là, việc phá hoại môi trường của Công ty Vedan
Việt Nam không phải là một việc làm mang tính sơ suất, nhất thời mà là một
chủ trương nhất quán và tinh vi, được “bài binh bố trận” kỹ lưỡng và đã gây
nên những hậu quả cực kỳ tai hại đối với môi trường sinh thái ở địa phương.
Tuy nhiên, trong quá trình xử lý vụ việc này, các cơ quan chức năng còn
nhiều lúng túng trong việc vận dụng quy định pháp luật để xử lý vi phạm của
Công ty cũng như việc giải quyết, xử lý vụ việc ngay từ ban đầu chưa được
kiên quyết và triệt để.


5


II. PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:
Những vi phạm về môi trường của Công ty Vedan Việt Nam đã quá rõ
ràng. Vấn đề ở chỗ các cơ quan chức năng phải vận dụng các văn bản pháp
luật hiện có để xử lý thật kiên quyết, triệt để và nghiêm minh bởi đây là
trường hợp điển hình trong vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, hoạt
động có tổ chức, cố ý, kéo dài, tái phạm nhiều lần, có những hành vi được che
đậy tinh vi, gây ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu tới sức
khỏe, đời sống của nhân dân trong khu vực. Việc xử lý những vi phạm của
Công ty Vedan Việt Nam phải có bước đi thích hợp nhằm bảo đảm đạt mục
tiêu là Công ty này sẽ chấm dứt xả chất thải không đạt tiêu chuẩn quy định
vào nguồn nước, đồng thời tiến hành xử lý, khắc phục hậu quả ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng do Công ty gây ra và duy trì được sản xuất, kinh doanh,
giải quyết việc làm, bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Theo thống kê của Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường trước đây
(nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường), tính đến nay, các cơ quan có thẩm
quyền ở nước ta đã ban hành gần 600 văn bản có liên quan đến bảo vệ môi
trường. Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi đã được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực
từ ngày 01/7/2006, còn có nhiều bộ luật khác liên quan hỗ trợ cho việc bảo vệ
môi trường như: Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Khoáng sản, Luật Đất
đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Dân sự, Luật
Hình sự,... và một số văn bản pháp luật cơ bản sau:

6



- Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 04/2007/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ về phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải.
- Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Nghị quyết 41-NQ/TƯ ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX)
về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
- Thông tư số 07 ngày 3/7/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
hướng dẫn phân loại và quyết định danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường
cần phải xử lý.
3. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG:
Xác định nguyên nhân:
Có thể khẳng định việc để xảy ra tình trạng Công ty Vedan Việt Nam xả
nước thải trong một thời gian dài như vậy là do trách nhiệm của các cơ quan
quản lý Nhà nước.
Thứ nhất, mặc dù trong những năm qua, việc hoạch định các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững, Nhà nước ta đã kịp thời
xây dựng nhiều chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường. Bên cạnh Luật
Bảo vệ môi trường còn có nhiều bộ luật khác liên quan hỗ trợ cho việc bảo vệ
môi trường. Chính phủ và các bộ ngành, địa phương hàng năm đều có kế
hoạch bảo vệ môi trường như: Đầu tư ngân sách, nhân lực cho các hoạt động
bảo vệ môi trường, tiến hành thanh tra nhà nước về môi trường, mở rộng hợp


7


tác quốc tế về bảo vệ môi trường, không ngừng giáo dục, nâng cao nhận thức
cho toàn dân về bảo vệ môi trường, phát động các phong trào, chương trình
quốc gia về bảo vệ môi trường… Tuy nhiên, chức năng quản lý nhà nước về
môi trường vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Sự yếu kém trong quản lý Nhà
nước về môi trường bộc lộ rõ ở các vấn đề sau:
- Khi hoạch định các chương trình, dự án phát triển chưa coi trọng yếu
tố bảo vệ môi trường ngang cấp quan hệ với phát triển kinh tế.
- Quản lý pháp luật về môi trường còn chưa nghiêm. Chưa coi trọng
công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, chưa huy động hết các lực lượng xã
hội tham gia cùng Nhà nước vào các hoạt động quản lý môi trường, nhất là
các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cộng đồng dân cư. Hoạt động giáo
dục nâng cao nhận thức về môi trường còn chưa đồng bộ, toàn diện…
Thứ hai, cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương không thường xuyên
kiểm tra các nhà máy, doanh nghiệp vi phạm môi trường và khi phát hiện ra
đã không xử lý đến nơi đến chốn. Bằng chứng là trong vụ việc Vedan, người
dân đã kiến nghị, gửi đơn kêu cứu trong một thời gian rất dài nhưng tỉnh
Đồng Nai đã không xử lý triệt để.
Thứ ba, hệ thống cán bộ chuyên trách về bảo vệ môi trường còn thiếu
và chưa có nhiều kinh nghiệm, kiến thức trong quản lý môi trường, đó là chưa
kể đến có tình trạng cán bộ thiếu trách nhiệm trong công tác thanh, kiểm tra…
Tất nhiên, việc Công ty Vedan Việt Nam qua mặt các cơ quan chức năng là do
đã áp dụng những công nghệ tinh vi như “trận đồ bát quái”. Tuy nhiên cũng
phải khẳng định hệ thống thanh tra, kiểm tra về môi trường còn vừa thiếu, vừa
yếu về nhân lực và thiết bị.
Sau sự việc ngày 08/9/2008, Cục Cảnh sát môi trường (Bộ Công an) và
đoàn kiểm tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hiện Công ty Vedan Việt
Nam sử dụng các máy bơm và đường ống kỹ thuật được trang bị hết sức tinh

vi và hiện đại nhằm xả trộm nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải, ngày

8


19/9/2008, đoàn kiểm tra liên ngành Bộ Tài nguyên và Môi trường đã lập biên
bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và tài nguyên nước
đối với Công ty Vedan Việt Nam và chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để
làm rõ.
Ngày 19/9/2008, sau hơn 8 giờ làm việc, tranh cãi với đoàn kiểm tra
liên ngành, Công ty Vedan Việt Nam đã phải ký biên bản vi phạm hành chính,
thừa nhận 10 hành vi vi phạm như sau: Xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật
môi trường về nước thải; Nộp không đầy đủ các số liệu điều tra, khảo sát,
quan trắc và các tài liệu liên quan khác cho cơ quan lưu trữ dữ liệu thông tin
về môi trường; Không đăng ký cam kết bảo vệ môi trường; Không lập báo
cáo đánh giá tác động môi trường; Thải mùi hôi thối, khó chịu trực tiếp vào
môi trường; Quản lý chất thải nguy hại không đúng quy định; Không tuân thủ
giấy phép xả nước thải vào nguồn nước.
Ngày 20/9/2008, Viện Khoa học hình sự (C21) và Cục Cảnh sát Môi
trường đã tiến hành kiểm tra hệ thống đường ống và hệ thống xử lý nước thải
của Công ty Vedan Việt Nam.
Ngày 25/9/2008, sau 1 tuần thực hiện khám nghiệm hiện trường, Đoàn
kiểm tra liên ngành có kết luận chính thức về những sai phạm của Công ty
Vedan Việt Nam đối với các quy định về bảo vệ môi trường.
Trong hai ngày 6 và 7/10/2008, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường Phạm Khôi Nguyên đã ký các văn bản về việc xử lý những sai phạm
về bảo vệ môi trường, trong đó đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai ra quyết định
đình chỉ hoạt động đối với Công ty Vedan Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ riêng việc
quy định đơn vị nào có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động của
Vedan thì không xác định được. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, ông Ao

Văn Thinh cho rằng “Nếu chỉ căn cứ vào văn bản đề nghị của Bộ Tài nguyên
và Môi trường mà ra quyết định tạm đóng cửa thì quả thực chúng tôi không
đủ căn cứ”. Theo ông Thinh, lẽ ra, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường

9


nên ra quyết định tạm đóng cửa Vedan luôn. Trong khi đó, ông Phạm Khôi
Nguyên, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường lại cho rằng Bộ chỉ có
quyền xử phạt về vi phạm hành chính, còn việc dừng các khâu sản xuất của
nhà máy là trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Ngày 06/10/2008, Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê
Quốc Trung đã ký ban hành Quyết định số 131/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm
hành chính về bảo vệ môi trường đối với Công ty Vedan Việt Nam với 12
mức phạt cho các hành vi vi phạm khác nhau, tổng số tiền phạt là 276,5 triệu
đồng và khoản truy thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp
hơn 127 tỷ đồng.
Ngày 05/11/2008, tại buổi làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường
và UBND tỉnh Đồng Nai, đại diện Công ty Vedan Việt Nam đề nghị được nộp
127 tỷ đồng truy thu phí bảo vệ môi trường trong 2 năm thay vì trong 1 tháng
như quyết định xử phạt. Phương án Vedan được đề nghị chia ra trong 2 năm
2008 và 2009 và các cơ quan chức năng đã chấp nhận đề nghị này. Tại cuộc
họp này, Bộ Tài nguyên và Môi trường và tỉnh Đồng Nai cũng thống nhất tạm
hoãn quyết định đình chỉ hoạt động của Vedan. Biện pháp này sẽ được áp
dụng nếu Công ty Vedan Việt Nam không thực hiện quyết định xử phạt hành
chính và đình chỉ xả thải.
Hiện nay, công ty này đã nộp 267,5 triệu đồng tiền phạt về các hành vi
vi phạm hành chính, tháo dỡ 1.059 m đường ống sắt chôn ngầm dưới đất để
xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải. Đối với hệ thống xử lý nước thải
và xả thải của Công ty Vedan Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã

thành lập hội đồng thẩm định trong đó một số nhà khoa học, sẽ tiến hành
thẩm tra, đánh giá hiệu quả của hệ thống xử lý nước thải. Nếu đạt tiêu chuẩn
môi trường, Công ty Vedan Việt Nam sẽ được tiếp tục hoạt động xử lý nước
thải trước khi xả thải.

10


Ngày 18/11/2008, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã làm việc với lãnh
đạo UBND tỉnh Đồng Nai về kế hoạch giám sát việc khắc phục ô nhiễm môi
trường và chuyển hồ sơ vi phạm của Công ty Vedan Việt Nam cho tỉnh Đồng
Nai xử lý theo quy định của pháp luật. Theo đó, trong thời gian tới sẽ củng cố
thêm chứng cứ để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với một số cá
nhân lãnh đạo Công ty Vedan Việt Nam liên quan đến việc vận hành hệ thống
xử lý nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải đồng thời sẽ xử lý nặng hơn
nếu nước thải của Công ty Vedan Việt Nam vẫn không đạt tiêu chuẩn cho
phép.
4. PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
Mặc dù “án phạt” đã được công bố đối với Công ty Vedan Việt Nam
nhưng vẫn còn nhiều ý kiến tiếp tục được bàn thảo xung quanh trách nhiệm
của các cơ quan chức năng trong sự việc này. Vì vậy, để giải quyết một cách
triệt để và hiệu quả, cần phải “mổ xẻ” vấn đề một cách kỹ càng để đưa ra
phương án giải quyết một cách thấu đáo.
- Về trách nhiệm hành chính:
Trên cơ sở biên bản vi phạm hành chính đã được lập, Công ty Vedan
Việt Nam bị xử phạt hành chính đối với từng hành vi vi phạm theo quy định
của Nghị định 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và Nghị định 34/2005/NĐ-CP ngày
17/3/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ
môI trường. Việc tiến hành xử phạt hành chính đối với Công ty Vedan Việt

Nam được hiểu là việc áp dụng trách nhiệm hành chính đối với pháp nhân là
công ty. Bên cạnh đó, việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp
khắc phục hậu quả cũng cần được xem xét, áp dụng trong trường hợp này.
Các hình phạt bổ sung có thể là tước giấy phép môi trường không thời hạn,
cấm hoạt động, buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm

11


môi trường do hành vi vi phạm hành chính gây ra. Như vậy, trách nhiệm làm
sạch sông Thị Vải không phải là trách nhiệm dân sự mà là trách nhiệm hành
chính. Đây là trách nhiệm của chủ thể có hành vi vi phạm đối với Nhà nước,
đối với cộng đồng. Chủ thể có hành vi vi phạm phải có nghĩa vụ thực hiện các
biện pháp khôi phục lại tình trạng môi trường đã bị thay đổi phù hợp với các
quy chuẩn về chất lượng môi trường theo quy định của các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
- Về trách nhiệm dân sự:
Tại điều 623 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định: “Cá nhân, pháp nhân
và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường
không có lỗi”. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không được loại trừ
ngay cả khi tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường không có lỗi. Công ty
Vedan Việt Nam đã có hành vi vi phạm pháp luật môi trường (xả nước thải
không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường) và như vậy phải bồi thường
thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân
sự 2005, các bên phải đưa ra bằng chứng, chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu, quan điểm của mình. Như vậy, để buộc Công ty Vedan Việt Nam phải bồi
thường thiệt hại, bên bị thiệt hại phải chứng minh được có thiệt hại thực tế
xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm của Công ty Vedan với
thiệt hại đã xảy ra.

Theo đó, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và
hậu quả xảy ra trong lĩnh vực môi trường có một số đặc thù.
Trước tiên, một hành vi vi phạm pháp luật môi trường cũng có thể gây
ra nhiều loại thiệt hại như thiệt hại trực tiếp, thiệt hại gián tiếp, thiệt hại thứ
sinh, thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người, thiệt hại
cho môi trường (suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường),…

12


Hai là, một hậu quả (thiệt hại) xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau
xuất phát từ nhiều hành vi khác nhau, trong đó có thể có những hành vi là
hành vi vi phạm pháp luật, có thể có hành vi không vi phạm pháp luật.
Ba là, thiệt hại cũng có thể xảy ra do sự tích tụ, cộng dồn của các chất
gây ô nhiễm. Theo Điều 133 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng quy
định: Bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường được thực hiện theo
nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên và thiệt hại đến đâu, bồi
thường đến đó. Nguyên tắc này bảo đảm lợi ích của cả bên bị thiệt hại và bên
bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp không thỏa thuận được, các bên có thể
giải quyết thông qua tòa án.
-Về trách nhiệm hình sự:
Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng có thể “khởi tố hình sự Công ty Vedan
Việt Nam”, song một vấn đề cần giải quyết là việc truy cứu trách nhiệm hình
sự được áp dụng đối với ai? Công ty Vedan Việt Nam hay cá nhân thuộc công
ty? Và nếu truy cứu trách nhiệm hình sự thì với nguyên tắc của Luật Hình sự
Việt Nam là “cá thể hóa trách nhiệm hình sự”, tức là trách nhiệm hình sự chỉ
được áp dụng với thể nhân (cá nhân) mà không được áp dụng đối với các
pháp nhân (tổ chức). Như vậy, có thể khẳng định là: Không thể truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với Công ty Vedan Việt Nam, là một pháp nhân.
Bên cạnh đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với thể nhân (cá

nhân) thuộc Công ty Vedan Việt Nam cũng cần xem xét tới yếu tố cấu thành
tội đó. Hành vi gây ô nhiễm nguồn nước có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định của điều 183 Bộ Luật Hình sự 2000. Tuy nhiên, theo điều
183 Bộ Luật Hình sự 2000, yếu tố cấu thành cơ bản phải là “đã bị xử phạt
hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền”. Do đó, nếu đặt vấn đề truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trong Công ty Vedan Việt Nam thì người
này phải “đã bị xử phạt hành chính”. Theo quy định về đối tượng bị xử phạt

13


vi phạm hành chính thì tổ chức, cá nhân đều bị xử phạt hành chính khi có
hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm trước đây của Công ty Vedan Việt Nam,
nếu bị xử phạt hành chính, thì Quyết định xử phạt hành chính cũng áp dụng
đối với công ty (pháp nhân) chứ không áp dụng với thể nhân (cá nhân) trong
công ty vì hành vi vi phạm được coi là hành vi của Công ty Vedan Việt Nam.
Như vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự Công ty Vedan Việt Nam (vì
công ty là pháp nhân), cũng như cá nhân (vì thiếu yếu tố “đã bị xử phạt hành
chính”) theo Điều 183 Bộ Luật Hình sự năm 2000. Tuy nhiên, có thể xem xét
trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trong Công ty Vedan Việt Nam với tội
danh khác, chẳng hạn như tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”
theo Điều 285 Bộ Luật Hình sự năm 2000.
Ngoài những trách nhiệm nêu trên, do công ty xả nước thải có chứa độc
tố vào môi trường, Công ty Vedan Việt Nam còn phải bị truy thu phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải công nghiệp theo quy định tại Nghị định
67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
và Nghị định 04/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 67/2003/NĐ-CP về
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
*Nhận xét:

Như vậy, theo kết quả xử lý đến thời điểm này, Nhà nước đã có những
quyết định hợp lý vừa đảm bảo để Công ty Vedan Việt Nam sẽ chấm dứt xả
chất thải không đạt tiêu chuẩn quy định vào nguồn nước, đồng thời tiến hành
xử lý, khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do Công ty gây
ra, vừa duy trì được sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, bảo đảm quyền
lợi cho người lao động.
Tuy nhiên, trong quá trình xử lý vụ việc, còn một số lúng túng cần rút
kinh nghiệm. Đó là:
- Việc thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và
tỉnh Đồng Nai trong xử lý vụ việc, để xảy ra tình trạng ô nhiễm kéo dài, gây

14


bức xúc trong nhân dân và sự thiếu chủ động, thống nhất trong việc ban hành
và tổ chức thực hiện các quyết định xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường đối với Công ty Vedan Việt Nam.
- Trong quá trình thanh tra, giám sát, cơ quan chức năng cần xử lý vụ
việc một cách sát sao và triệt để hơn nữa.
- Cần chú ý đến tiếng nói người dân trong quá trình phát hiện, xử lý vụ
việc.

* Kiến nghị các bước xử lý:
Công ty Vedan Việt Nam bao gồm nhiều nhà máy hoạt động ở nhiều
lĩnh vực, vì vậy, cần tiến hành theo từng bước một cách hợp lý, hiệu quả:
Thứ nhất, tiến hành thanh tra, kiểm tra xem những nhà máy nào không
tạo ra chất thải thì vẫn để hoạt động bình thường.
Thứ hai, những nhà máy nào đang xả thải thì phải xem xét phương án
xử lý phù hợp mới tiếp tục cho hoạt động.
Thứ ba, những nhà máy nào không thể xử lý được hệ thống xả thải thì

kiên quyết đình chỉ hoạt động và yêu cầu phải xây dựng phương án khôi phục
lại môi trường hiện trạng ban đầu.
Thứ tư, tìm ra những cá nhân có chủ trương trong việc chỉ đạo xây
dựng hệ thống xả thải trái phép để xử lý thật nghiêm theo luật pháp.

15


III. KIẾN NGHỊ

B

ảo vệ môi trường hiện nay không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam
mà còn là vấn đề nóng của cả toàn cầu. Vì vậy, học viên xin có
một vài kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu quả công tác quản lý

Nhà nước về lĩnh vực này:
Một là, cần nâng cao nhận thức cho toàn dân, nhất là các cấp lãnh đạo
từ trung ương đến địa phương về tầm quan trọng, lợi ích lâu dài của vấn đề
bảo vệ môi trường.
- Xây dựng tư tưởng bền vững, phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo
vệ môi trường. Kiên quyết loại bỏ tư tưởng “phát triển kinh tế trước, giải
quyết môi trường sau”, “phát triển kinh tế bằng mọi giá”.
- Xây dựng sự đồng thuận và quyết tâm của toàn xã hội trong sự nghiệp
bảo vệ môi trường. Cần sớm đưa các kiến thức về bảo vệ môi trường vào
giảng dạy ở tất cả các cấp học từ mẫu giáo đến đại học.
Hai là, trong tất cả các quyết sách phát triển, các chương trình và dự án
cần phải khẳng định rõ các ưu tiên về bảo vệ môi trường. Chính phủ và chính
quyền các cấp cần nhanh chóng hoàn thiện việc gắn quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội với quy hoạch về môi trường.

Ba là, mặc dầu đã được chỉnh sửa nhiều lần nhưng đến nay, Luật Bảo
vệ môi trường của nước ta vẫn chưa phù hợp với thực tiễn phát triển, thiếu
đồng bộ, chưa cụ thể, tính hiệu lực, hiệu quả và nghiêm minh chưa cao, chưa
khuyến khích và huy động được các lực lượng xã hội tham gia vào sự nghiệp
bảo vệ môi trường,…
- Việc hướng dẫn thi hành các điều khoản cụ thể trong luật, có liên quan
đến từng lĩnh vực quản lý của từng bộ, ngành đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Bởi
vậy, Quốc hội cần tiếp tục xem xét sửa đổi bộ luật này theo tinh thần bảo vệ

16


môi trường để phát triển bền vững. Cần coi trọng công cụ kinh tế trong quản
lý môi trường, các chế tài về khen thưởng và xử phạt đều phảI căn cứ từ hiệu
quả kinh tế. Cần bổ sung thêm các điều làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các
doanh nghiệp và người dân trong bảo vệ môI trường, khuyến khích toàn xã
hội tham gia bảo vệ môi trường,…
Bốn là, trong điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp cần có
kế hoạch, phân công, phân cấp cụ thể, bao quát toàn diện các hoạt động về
quản lý môi trường. Cần tổ chức thi hành đúng, nghiêm túc Luật bảo vệ môi
trường.
- Tăng cường công tác quan trắc, đánh giá, kiểm soát, kiểm tra, thanh
tra về môi trường trong phạm vi toàn quốc, đặc biệt ở các khu công nghiệp,
khu kinh tế tập trung, đô thị, khu giáp ranh giữa các vùng dân cư,… Trước
mắt, Chính phủ cần có các biện pháp quyết liệt nhằm ưu tiên cải thiện nhanh
chóng các dòng sông bị ô nhiễm, cải thiện môi trường sống ở các khu công
nghiệp, cải thiện không khí ở các đô thị lớn, nhất là các thành phố Hà Nội, Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,… ; hạn chế tình trạng rừng bị tàn phá, sự sụt
lở của các dòng sông.
Năm là, có chính sách và tạo điều kiện huy động các nhà khoa học,

cũng như toàn xã hội tích cực tham gia vào các hoạt động nghiên cứu và bảo
vệ môi trường. Phát huy vai trò tham vấn, tư vấn, phản biện của các tổ chức
khoa học, của các nhà khoa học về bảo vệ môi trường,…

17


KẾT LUẬN

V

ấn đề bảo vệ môi trường đang ngày càng được nhiều quốc gia coi
như một điều kiện không thể thiếu trong hoạt động giao lưu
thương mại hiện nay. Để phát triển công nghiệp hóa theo hướng

thân thiện với môi trường, giải pháp cấp bách là tiếp tục hoàn thiện các cơ
chế, chính sách, cần có quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng coi
phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo, trong đó đặc biệt
coi trọng việc áp dụng công nghệ sạch, công nghệ thích hợp trong sản xuất và
xử lý ô nhiễm môi trường.
Sự nghiệp bảo vệ môi trường, phát triển tài nguyên đang là vấn đề cấp
bách của toàn Đảng, toàn dân. Nhận thức được những thách thức về bảo vệ
môi trường và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên trong bối cảnh phát triển
nền kinh tế theo cơ chế thị trường hiện nay, là cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, thực hiện chiến lược phát
triển bền vững, từng bước đưa Việt Nam phát triển ngang tầm thời đại, hoàn
thành mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh./.

18



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước (chương trình
chuyên viên chính).
2. Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi.
3. Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
4. Nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.
5. Nghị định số 04/2007/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ
về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
6. Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
7. Nghị quyết 41-NQ/TƯ ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về
bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
8. Thông tư số 07 ngày 3/7/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng
dẫn phân loại và quyết định danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường
cần phải xử lý.
9. Các báo: Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Lao động, Thanh niên, Thời
báo Tài chính, An ninh Thế giới, VN Express.

19



×