Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị của công ty xuất nhập khẩu xi măng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 92 trang )

1

Luận văn tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thương mại quốc tế đang trở thành lĩnh vực kinh tế quan trọng, đóng
góp to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế quốc dân, đặc biệt trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, khi Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của tổ chức WTO, đây là bước ngoặt cho nước ta, tạo thế và lực mới để
phát trriển một nền kinh tế bền vững.
Sự hội nhập với nền kinh tế thế giới đem lại nhiều cơ hội cho các
doanh nghiệp bên cạnh đó cũng không ít những thách thức, một khi Việt
Nam đã mở cửa, thị trường ngày càng được mở rộng, sẽ xuất hiện nhiều
doanh nghiệp nước ngoài trong nước hơn, điều đó đồng nghĩa với việc cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ngày một khốc liệt hơn. Để tồn tại và đứng
vững trên thị trường thì các doanh nghiệp cần có những bước đi đúng hướng
để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, cùng với sự đồng ý của ban lãnh đạo
công ty và thầy hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn, em đã chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị của công ty xuất
nhập khẩu xi măng”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu là các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu thiết bị của công ty xuất nhập khẩu xi măng nói riêng và các công
ty xuất nhập khẩu nói chung, dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích, đánh giá các
kết quả hoạt động kinh doanh, các tồn tại và nguyên nhân của các mặt tồn tại

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C




2

Luận văn tốt nghiệp

đó để từ đó đề xuất ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu
thiết bị của công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả kinh doanh nhập khẩu và
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị của
VINACIMEX.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các thông tin được thu thập thông qua giáo trính, báo, tạp chí,
Internet, sự tiếp xúc với các cán bộ nhân viên, đặc biệt là các báo cáo kết quả
kinh doanh từ các phòng ban trong công ty. Bài viết có sử dụng các phương
pháp thống kê học, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp các số liệu và
các thông tin thu thập được để từ đó luận giải tính thực tiễn của đề tài
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những lí luận cơ bản về hiệu quả nhập khẩu thiết bị
doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty
xuất nhập khẩu xi măng
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị của công
ty xuất nhập khẩu xi măng

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C



Luận văn tốt nghiệp

3

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU
THIẾT BỊ CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHẬP KHẨU THIẾT BỊ Ở DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm nhập khẩu thiết bị
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống diễn ra mạnh mẽ, thị trường trong
nước có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường ngoài nước thông qua hoạt động
ngoại thương. Sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngoại thương sẽ bảo
đảm mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường trong nước
và bảo đảm sự cân bằng giữa hai thị trường đó, vì vậy thương mại quốc tế
chính là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực
hiện chính sách mở cửa.
Nhập khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế, có vai trò rất
quan trọng, cùng với xuất khẩu, nó bổ sung kịp thời những mất cân đối của
nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định, tạo nên sức mạnh
của một quốc gia thông qua con đường ngoại thương.
Như vậy, nhập khẩu là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam
từ nước ngoài hoặc khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Ngày nay, nhập khẩu không chỉ đơn thuần là việc chuyển giao hàng
hoá từ nước này đến nước khác mà nó còn bao gồm cả việc chuyển giao
công nghệ, với xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ,
các hàng rào thương mại quốc tế cũng thay đổi nhanh chóng theo hướng xoá
SV: Hà Thị Hoa


Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

4

bỏ các hàng rào định lượng, giảm dần mức thuế quan gắn với các hàng rào
thương mại quốc tế mới. Các tổ chức và thể chế thương mại quốc tế ra đời và
hoạt động ngày càng có hiệu quả đã thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển
và đạt hiệu quả ngày càng cao không chỉ với các quốc gia phát triển mà với
cả các quốc gia đang phát triển, điều đó cho thấy khối lượng giao dịch giữa
các quốc gia trên thế giới ngày càng lớn và nhập khẩu có vai trò quan trọng,
không thể thiếu được trong việc góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
một quốc gia.
1.1.2 Vai trò của hoạt động nhập khẩu thiết bị
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập
khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống
trong nước.
Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất
được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay
thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không
có lợi bằng nhập khẩu, hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu
được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế
quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố cuả sản xuất: Công cụ lao
động, đối tượng lao động và lao động. với cách tác động đó, ngoại thương
được coi như một phương pháp sản xuất gián tiếp.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của
nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:

1.1.2.1 Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đất nước
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản
lao động thủ công sang lao động bằng cơ khí ngày càng hiện đại hơn

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

5

Kinh tế Việt Nam từ trước đến nay cơ bản xuất phát từ một nền sản
xuất nông nghiệp qui mô nhỏ. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
xác định đến năm 2010 tỷ trọng nông nghiệp chiếm 16-17%; công nghiệp
chiếm 40-41% và dịch vụ chiếm 42-43%. Để thực hiện được chỉ tiêu này
nhập khẩu có vai trò rất quan trọng trong việc nhập khẩu công nghệ mới
trang bị cho các ngành kinh tế như điện và điện tử, công nghệ đóng tàu, chế
biến dầu khí, chế biến nông sản... Từ đó hướng các ngành kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá
1.1.2.2. Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của
nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định
Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối theo
những tỷ lệ nhất định như: Cân đối giữa khu vực 1 và khu vực 2; giữa tích
luỹ và tiêu dùng; giữa hàng hoá và lượng tiền trong lưu thông; giữa xuất
khẩu với nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế.
Nhập khẩu có tác động rất tích cực thông qua việc cung cấp các điều
kiện đầu vào làm cho sản xuất phát triển. Mặt khác, tạo điều kiện để các

quốc gia chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận hưởng được những lợi thế từ
thị trường thế giới và khắc phục những mặt mất cân đối thúc đẩy kinh tế
quốc dân phát triển
1.1.2.3 Nhập khẩu phải cải thiện và nâng cao mức
sống của nhân dân
Về hàng tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất
không đủ như thuốc chữa bệnh, đồ điện gia dụng, lương thực thực phẩm...
Đảm bảo đầu vào cho sản xuất, khắc phục lại những ngành nghề cũ,
mở ra những ngành nghề mới tạo nhiều việc làm ổn định cho người lao
động, từ đó tăng khả năng thanh toán

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

6

Mặt khác, nhập khẩu trực tiếp góp phần xây dựng nhiều ngành nghề sản
xuất hàng tiêu dùng làm cho cả sản lượng lẫn hàng tiêu dùng phát triển, khả
năng lựa chọn cuả người dân sẽ được mở rộng, đời sống ngày càng tăng lên.
1.1.2.4 Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu
Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất
hàng xuất khẩu, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang và kém
phát triển vì khả năng sản xuất của các quốc gia này còn có hạn. Do vậy
nhiều quan niệm cho rằng đây chính là hiện tượng “ Lấy nhập khẩu nuôi xuất
khẩu” và sự phát triển gia công xuất khẩu ở Trung Quốc, Việt Nam là những
minh chứng cụ thể

Tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng
hoá của một quốc gia ra nước ngoài thông qua quan hệ nhập khẩu cũng như
các hình thức thanh toán đòi hỏi kết hợp nhập khẩu với xuất khẩu.
1.1.3 Các hình thức nhập khẩu thiết bị
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, có nhiều phương thức giao dịch, mỗi
phương thức giao dịch đều có đặc thù riêng, ưu và nhược điểm khác nhau.
Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, mỗi doanh nghiệp tuỳ
vào điều kiện của mình để lựa chọn phương thức giao dịch phù hợp. Hiện
nay, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một số phương thức giao
dịch như sau:
1.1.3.1 Hình thức giao dịch trực tiếp
Giao dịch trực tiếp là hình thức giao dịch trong đó người bán và người
mua quan hệ trực tiếp với nhau để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá, giá cả và
điều kiện giao dịch khác
Nhập khẩu trực tiếp cho phép người xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu
của thị trường về số lượng, chất lượng giá cả để người bán thoả mãn tốt nhất
nhu cầu của thị trường, giúp cho người bán không bị chia sẻ lợi nhuận, giúp
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

7

xây dựng chiến lược tiếp thị quốc tế phù hợp nhưng chi phí tiếp thị thị
trường nước ngoài cao cho nên nhiều doanh nghiệp có qui mô nhỏ, vốn ít thì
nên xuất nhập khẩu uỷ thác có lợi hơn, kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp
đòi hỏi có nhiều cán bộ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: giỏi về

giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là
nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo, có như vậy mới đảm bảo kinh
doanh xuất nhập khẩu trực tiếp có hiệu quả. Đây vừa là yêu cầu để đảm bảo
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vừa thể hiện điểm yếu của đa số các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam khi tiếp cận với thị trường thế giới.
1.1.3.2 Phương thức giao dịch qua trung gian
Giao dịch qua trung gian là phương thức mua bán quốc tế được thực
hiện nhờ sự giúp đỡ của bên thứ 3, người thứ 3 này được hưởng một khoản
tiền nhất định.
Trong phương thức này, người trung gian thường là những người am
hiểu thị trường xâm nhập, pháp luật và tập quán buôn bán của địa phương do
đó họ có khả năng đẩy mạnh buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác.
Người trung gian đặc biệt là các đại lí thường có cơ sở vật chất nhất định cho
nên người ủy thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước tiêu thụ hàng và chính
nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói mà
người ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Tuy nhiên, những công ty kinh
doanh xuất nhập khẩu theo phương thức này sẽ mất đi sự liên hệ với thị
trường, công ty phải đáp ứng những yêu sách của đại lí và môi giới và một
phần lợi nhuận sẽ phải chia sẻ cho các trung gian này.
1.1.3.3 Phương thức tạm nhập tái xuất
Hàng hóa kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất là việc
thương nhân Việt Nam mua hàng từ nước ngoài đưa về làm thủ tục tạm nhập
khẩu vào Việt Nam rồi bán cho một nước khác trên cơ sở làm thủ tục tái xuất
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp


8

khẩu chính hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam. Mục đích thực hiện của giao dịch
tái xuất khẩu là mua rẻ hàng hóa ở nước này, bán đắt hàng hóa ở nước khác
và thu số vốn bỏ ban đầu, và giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước tham
gia đó là: Nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Đây là phương thức kinh doanh được thực hiện trên cơ sở hai hợp
đồng riêng biệt. Người kinh doanh thường ký kết một hợp đồng xuất khẩu và
một hợp đồng nhập khẩu. Hai hợp đồng này về cơ bản không khác những
hợp đồng xuất nhập khẩu thông thường, song chúng có liên quan mật thiết
với nhau. Chúng thường phù hợp với nhau về hàng hóa, bao bì, kí mã hiệu,
nhiều khi cả về thời hạn giao hàng và các chứng từ hàng hóa
1.1.3.4 Buôn bán đối lưu
Phương thức buôn bán đối lưu hay còn gọi là phương thức xuất nhập
khẩu liên kết là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua hàng, lượng hàng
trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Mục đích của phương thức giao
dịch này không phải là nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hóa có giá trị
tương đương.
Các hình thức buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù
trừ, chuyển giao nghĩa vụ, mua đối ứng, nhiệm vụ bồi hoàn.
Các doanh nghiệp sử dụng phương thức kinh doanh này trong trường
hợp tỷ giá hối đoái biến động sẽ giảm được rủi ro tuy nhiên, trong buôn bán
đối lưu, người ta luôn chú trọng đến yêu cầu cân bằng. Đó là yêu cầu phải có
sự cân đối giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên. Yêu cầu cân bằng đó là
cấn bằng về mặt hàng, giá cả, tổng giá trị hàng giao cho nhau và các điều
kiện giao hàng do đó các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc tìm đối
tác có cùng nhu cầu.
1.1.3.5 Phương thức đấu thầu quốc tế
SV: Hà Thị Hoa


Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

9

Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó
người mua( tức người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người
bán ( tức người dự thầu) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn
mua của người nào bán rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với
những điều kiện đã nêu.
Đấu thầu quốc tế có hai loại hình: Đấu thầu mở rộng và đấu thầu hạn
chế. Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua
sắm và thi công các công trình của nhà nước, nhất là tại các nước đang phát
triển.
1.1.3.6 Đấu giá quốc tế
Đấu giá hàng hóa quốc tế là một phương thức hoạt động thương mại,
được tổ chức ở một nơi nhất định tại đó người bán hàng tự mình hoặc thuê
người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn được
người mua trả giá cao nhất
Trong buôn bán quốc tế, những mặt hàng được đem ra đấu giá thường
là những mặt hàng khó tiêu chuẩn hóa và được đưa ra đấu giá ở những trung
tâm đấu giá quốc tế. Đấu giá được tiến hành theo nguyên tắc công khai,
trung thực, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
1.2 NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ Ở
DOANH NGHIỆP
1.2.1 Nghiên cứu thị trường nước ngoài, chọn đối tác kinh doanh
Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để định ra các chiến lược kinh

doanh của doanh nghiệp, từ chiến lược đã xác định doanh nghiệp tiến hành
lập và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, chính sách thị trường. Nội dung
nghiên cứu thị trường là nghiên cứu các yếu tố cấu thành nên thị trường của
doanh nghiệp: Cung, cầu, giá cả và sự cạnh tranh.
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

10

Nghiên cứu tổng cung hàng hoá là nghiên cứu để xác định xem khả
năng sản xuất trong một thời gian các đơn vị sản xuất có khả năng cung ứng
cho thị trường tổng số bao nhiêu hàng, khả năng nhập khẩu bao nhiêu, khả
năng dự trữ xã hội bao nhiêu.Trên cơ sở các thông tin về lao động, vật tư,
tiền vốn và các tiềm năng khác của doanh nghiệp để xác định cung của
doanh nghiệp có khả năng đưa ra thị trường.
Nghiên cứu tổng cầu hàng hoá là nghiên cứu tổng khối lượng hàng
hoá và cơ cấu loại hàng hoá tiêu dùng thông qua sử dụng với giá cả thị
trường trong một khoảng thời gian. Tổng khối lượng hàng hoá chính là quy
mô thị trường. Nghiên cứu quy mô thị trường phải nắm được số lượng đơn
vị tiêu dùng, khối lượng hàng của mỗi đơn vị tiêu dùng, bên cạnh đó doanh
nghiệp cần nghiên cứu giá hàng nhập khẩu. Nghiên cứu giá cả thị trường
phải tìm được chênh lệch giá ( trên thị trường bán) và giá mua. Có thể ước
chi phí vận chuyển và nộp thuế để xác định thị trường mua hàng và quyết
định khối lượng hàng cần đặt hàng, hàng cần thu mua hoặc nhập khẩu.
Nghiên cứu chính sách của chính phủ về loại hàng hoá kinh doanh cho
phép kinh doanh tự do, kinh doanh có điều kiện, khuyến khích kinh doanh

hoặc cấm kinh doanh. Đó là chính sách thuế, giá các loại dịch vụ có liên
quan như cước vận tải, giá thuê kho tàng, cửa hàng, đất đai và lãi suất tiền
vay ngân hàng để xác định giá cả thị trường. Căn cứ vào mục tiêu kinh
doanh, chính sách giá cả của doanh nghiệp để xác định giá mua, giá bán của
doanh nghiệp cho phù hợp
Nghiên cứu sự cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi phải xác định số
lượng đối thủ cạnh tranh, ưu nhược điểm của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp
và gián tiếp với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và xác định trạng thái
cạnh tranh trên thị trường. Số lượng đối thủ cạnh tranh càng đông quyết định
mức độ cạnh tranh càng gay gắt.
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

11

Như vậy, nghiên cứu thị trường giúp lựa chọn mặt hàng và lĩnh vực
kinh doanh đúng đắn, chỉ kinh doanh những mặt hàng thị trường có nhu cầu
và chỉ có thông qua nghiên cứu thị trường mới giúp doanh nghiệp làm chủ
đồng vốn, làm chủ diễn biến thị trường để kinh doanh có lãi.
1.2.2 Xây dựng chiến lược, kế hoạch và lập phương án nhập khẩu
Sau khi thu thập được các thông tin về đối tác thì để hoạt động kinh
doanh có hiệu quả thì các doanh nghiệp cần phải tiến hành xây dựng chiến
lược, kế hoạch và lập phương án kinh doanh với các công việc cụ thể sau:
+ Xác định mục tiêu chiến lược: Mục tiêu của chiến lược kinh doanh
là toàn bộ các kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp mong muốn đạt được
trong quá trình kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp

thường theo đưổi nhiều mục tiêu khác nhau, nhưng có thể quy lại ba mục
tiêu cơ bản là: Lợi nhuận, vị thế, an toàn. Tuy nhiên, các mục tiêu bao giờ
cũng phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của thị trường, khách hàng, nguồn
hàng và nguồn lực hiện tại của doanh nghiệp để đảm bảo tính cụ thể, tính
linh hoạt, định lượng, tính khả thi, tính nhất quán và tính hợp lí.
+ Xác định chính sách và điều kiện nhập khẩu: Đây là công việc tiếp
theo sau khi xác định mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
cần xác định chính sách nhập khẩu của mình với đối tác và các điều kiện
nhập khẩu phù hợp, có lợi cho cả hai bên tạo thuận lợi cho việc đàm phán và
lý kết hợp đồng.
+ Lập kế hoạch và phướng án nhập khẩu: Đây là bước rất quan trọng,
nó ảnh hưởng đến hiệu quả nhập khẩu của doanh nghiệp, có các kế hoạch
kinh doanh đúng đắn thì doanh nghiệp mới đi đúng hướng, tránh được các
rủi ro có thể xảy ra. Lập kế hoạch và phương án kinh doanh chính là việc
đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ, cùng với các biện pháp thực hiện các mục

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

12

tiêu đề ra. Công việc này thường do một bộ phận kinh doanh phụ trách, nếu
được cấp trên chấp nhận thì sẽ được đưa vào thực thi.
+ Lựa chọn đối tác: Doanh nghiệp có thể thu thập thông tin về các đối
tác thông qua các trang Web, các cơ quan, tổ chức... để biết được uy tín, quan
điểm và cách thức kinh doanh của họ, từ đó lựa chọn các đối tác làm ăn lâu

dài với mình.
+ Lựa chọn phương thức nhập khẩu: Để nâng cao hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu thì doanh nghiệp cần nghiên cứu các phương thức nhập
khẩu, ưu nhược điểm của mỗi loại phương thức đồng thời căn cứ vào tiềm
lực của doanh nghiệp để chọn phương thức nhập khẩu phù hợp nhất.
1.2.3 Tiến hành giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng nhập
khẩu hàng hóa
Đàm phán là quá trình đối thoại giữa người mua và người bán nhằm
đạt được những thoả thuận nhất trí về nội dung của những hợp đồng ngoại
thương, để sau quá trình đàm phán, người mua và người bán có thể đi đến ký
kết hợp đồng.
Đặc điểm:
Đàm phán hợp đồng ngoaị thương là quá trình không ngừng tự điều
chỉnh các nhu cầu, lợi ích của các bên đàm phán nhằm mục đích cuối cùng là
kí kết được hợp đồng ngoại thương. Như vậy, trong đàm phán hợp đồng
ngoại thương, các bên khi bàn bạc thoả thuận về các điều khoản của hợp
đồng, không chỉ biết bảo vệ lợi ích của mình mà còn phải biết chấp nhận
nhượng bộ trong điều kiện hai bên cùng có lợi thì mới mong ký được hợp
đồng có tính khả thi. Ngược lại, một bên chỉ biết bảo vệ riêng lợi ích của
mình, không quan râm đến lợi ích chính đáng của bên đối tác, hoặc không
biết hạn chế, cứ đòi hỏi phải đưa vào hợp đồng những điều kiện được xem là
lợi ích của mình nhưng lại làm thiệt hại đến quyền lợi ích chính đáng của đối
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

13


tác, kết quả là không ký kết được hợp đông ngoại thương hoặc có đàm phán
và ký được hợp đồng thì bên đối tác cũng không thực hiện nổi những điều
khoản ghi trong hợp đồng.
Đàm phán hợp đồng ngoại thương là quá trình thống nhất các lợi ích
trong khi vẫn giữ được mối quan hệ tốt đẹp giữa đôi bên trong hợp đồng
Để thực hiện điều này, các bên đối tác cần tránh cả hai khuynh hướng
có thể xảy ra:
Một là, chỉ vì muốn giữ mối quan hệ tốt đẹp, luôn luôn nhượng bộ mọi
điều kiện của đối phương để tự gánh chịu hết mọi thiết thòi trong ký kết hợp
đồng ngoại thương;
Hai là, khăng khăng giữ lấy lập trường của mình, kiên quyết bảo vệ
lấy quyền lợi cho riêng mình, không quan tâm giữ gìn mối quan hệ giữa hai
bên làm cho việc đàm phán tan vỡ, hoặc dồn đối tác vào thế bất lợi, không
thể thực hiện được những gì đã ký kết.
Đàm phán hợp đồng ngoại thương là một môn khoa học đồng thời là
một nghệ thuật đòi hỏi người thực hiện đàm phán không ngừng nâng cao
năng lực nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương mà còn luôn trau dồi kỹ năng
đàm phán mới mong đạt được thành công.
Các hình thức đàm phán chủ yếu gồm:
Đàm phán giao dịch bằng thư tín: Là hình thức mà qua thư từ gửi
bằng bưu điện, telex, fax, hoặc email, người mua và ngưòi bán thoả thuận
với nhau những điều khoản cần thiết của hợp đồng.
Với hình thức này thì người viết thư có thời gian và điều kiện để cân
nhắc, tham khảo ý kiến của nhiều người khác trước khi gửi thư đi,ít tốn kém
và cùng một thời gian, người viết có thể giao dịch đàm phán bằng thư với
nhiều bạn hàng khác nhau. Tuy nhiên, thời gian đàm phán kéo dài, có thể trải
qua nhiều lần viết thư mới đạt được kết quả cuối cùng.
SV: Hà Thị Hoa


Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

14

Đàm phán qua điện thoại: Là hình thức qua đường dây điện thoại
quốc tế, người mua và người bán thực hiện giao dịch đàm phán với nhau để
đi đến ký kết hợp đồng ngoại thương. Với hình thức này thì sẽ có được kết
quả đàm phán rất nhanh chóng nhưng rất tốn kém, trình bày rất tốn kém và
trao đổi qua điện thoại là trao đổi miệng, không có gì làm bằng chứng cho sự
thoả thuận, quyết định trong trao đổi.
Phương pháp gặp mặt trực tiếp để đàm phán: Là hình thức có ưu
điểm so với cả hai cách thức đàm phán qua thư từ và điện thoại. Đàm phán
trực tiếp giúp đẩy nhanh tốc độ đàm phán, cho phép giải quyết những bất
đồng phức tạp giữa các bên gặp gỡ, tạo được sự thông hiểu lẫn nhau và duy
trì được mối quan hệ hợp tác lâu dài với nhau và kết quả đàm phán có được
sự xác nhận pháp lý ngay của các bên khiến cho hợp đồng mau chóng đi vào
thực hiện.
VINACIMEX là một công ty xuất nhập khẩu nhưng hoạt động chủ
yếu là nhập khẩu các thiết bị phụ tùng với quy mô nhỏ, thị trường chủ yếu là
các nước quen thuộc nên hầu như thực hiện đàm phán qua thư hoặc điện
thoại, ít khi thực hiện đàm phán giao dịch bằng cách gặp mặt trực tiếp.
Nhưng với hình thức đàm phán nào thì cũng đòi hỏi phải có những nhân viên
có năng lực chuyên môn cao, luôn trau dồi kỹ năng đàm phán thì đàm phán
mới thành công, hợp đồng được ký kết.
1.2.4 Thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, đơn vị
kinh doanh xuất nhập khẩu phải tiến hành các bước sau đây:

Thứ nhất là xin giấy phép nhập khẩu
Giấy nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lí nhập
khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy
phép nhập khẩu chuyến để thực hiện hợp đồng đó.
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

15

Khi đối tượng hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giấy phép nhập khẩu,
doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm: Hợp đồng, phiếu hạn
nghạch (nếu hàng thuộc diện quản lí bằng hạn ngạch), hợp đồng uỷ thác
nhập khẩu ( nếu đó là trường hợp nhập khẩu uỷ thác), giấy báo trúng thầu
của bộ tài chính...
Nếu hàng nhập khẩu qua nhiều cửa khẩu, cơ quan hải quan sẽ cung
cấp cho doanh nghiệp ngoại thương một phiếu theo dõi. Mỗi khi hàng thực tế
được giao nhận ở cửa khẩu, cơ quan hải quan cửa khẩu đó sẽ trừ lùi vào
phiếu theo dõi đó.
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để nhập khẩu
một số mặt hàng với một nước nhất định, chuyên chở bằng một phương thức
vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định. Đơn xin phép phải được
chuyển đến phòng cấp giấy phép của bộ thương mại. Sau 3 ngày kể từ ngày
nhận được đơn đó, phòng cấp giấy phép phải trả lời kết quả.
Thứ hai là kiểm tra chất lượng
Cơ quan giao thông phải kiểm tra niêm phong, cặp chì trước khi dỡ
hàng ra khỏi phương tiện vận tải. Nếu hàng có thể có tổn thất hoặc xếp đặt

không theo lô, theo vận đơn thì cơ quan giao thông mời công ty giám định
lập biên bản giám định dưới tàu. Nếu hàng chuyên chở đường biển mà bị
thiếu hụt, mất mát, phải có biên bản kết toán nhận hàng với tàu còn nếu bị đổ
vỡ - phải có biên bản hàng đổ vỡ hư hỏng. Nếu tàu chở hàng đã nhổ neo rồi
việc thiếu hụt mới bị phát hiện, chủ hàng yêu cầu VOSA cấp giấy chứng
nhận hàng thiếu.
Doanh nghiệp nhập khẩu, với tư cách là một bên đứng tên trên vận
đơn, phải lập thư dự kháng, nếu thấy nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn
thất, sau đó phải yêu cầu công ty bảo hiểm lập biên bản giám định, nếu tổn
thất xảy ra bởi những rủi ro đã được mua bảo hiểm. Trong những trường hợp
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

16

khác phải yêu cầu công ty giám định tiến hành kiểm tra hàng hoá và lập
chứng thư giám định.
Thứ ba là thuê tàu lưu cước
Tuỳ theo phương thức giao nhận mà nghĩa vụ thuê tàu sẽ do người
mua hay người bán đảm nhận. Doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa
vụ thuê tàu theo điều kiện nhóm E, F.
Khi thực hiện nghiệp vụ thuê phương tiện vận tải thì doanh nghiệp
nhập khẩu sẽ thực hiện những nghiệp vụ cụ thể sau: Liên hệ với các đại lí
thuê tàu, đại lý vận tải, lấy bản đăng ký, xem xét lịch tàu, bảng giá cước phí;
sau đó lựa chọn chuyến tàu, hãng tàu; điền vào mẫu đăng kí thuê tàu, xác
nhận vỡi hãng tàu, tổ chức giao nhận hàng, lấy giấy biên bản để đổi lấy vận

đơn và cuối cùng là thanh toán cước phí và lấy vận đơn.
Việc thuê tàu lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm, nghiệp vụ, có thông tin
về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy,
trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê
tàu, lưu cước cho một công ty vận tải khác.
Thứ tư là mua bảo hiểm
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiểu rủi ro, tổn thất. Vì
thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong
ngoại thương.
Các chủ hàng nhập khẩu của Việt Nam khi cần mua bảo hiểm, đều
mua tại các công ty bảo hiểm Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp
đồng bảo hiểm bao hoặc hợp đồng bảo hiểm chuyến. Có ba điều kiện bảo
hiểm chính: Bảo hiểm mọi rủi ro( điều kiện A), bảo hiểm có tổn thất
riêng( điều kiện B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng ( điều kiện C). Cũng có
một số điều kiện, bảo hiểm phụ như: vỡ, rò, gỉ, mất trộm, mất cắp và không
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

17

giao hàng...Ngoài ra, còn một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: Bảo hiểm
chiến tranh, bảo hiểm đình công, bạo động và dân biến.
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ sau: Điều
khoản hợp đồng, tính chất hàng hoá, tính chất bao bì và phương thức xếp
hàng, loại tàu chuyên chở.
Thứ năm là làm thủ tục hải quan

Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải
làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau:
Đầu tiên là doanh nghiệp phải khai báo hải quan, doanh nghiệp phải
khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai bao gồm các nội dung: Loại
hàng, tên hàng, số, khối lượng, gia trị hàng, tên công cụ vận tải...tờ khai hải
quan phải được xuất trình kèm theo với một số chứng từ khác, mà chủ yếu
là: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết.
Sau đó, doanh nghiệp phải đưa hàng đến địa điểm theo qui định để
tiến hành kiểm tra. Chủ hàng sẽ phải chịu chi phí và nhân công về việc đóng,
mở kiểm tra các kiên hàng.
Cuối cùng, sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hóa xong, nếu hợp pháp
thì doanh nghệp sẽ tiến hành nộp thuế nhập khẩu, nếu không thì phải điều
chỉnh lại cho phù hợp.
Thứ sáu là giao nhận hàng với tàu
Các cơ quan vận tải (ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập
khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hóa đó
trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo
lệnh giao hàng của tổng công ty đã nhập hàng đó. Do đó, đơn vị kinh doanh
nhập khẩu phải, hoặc trực tiếp thông qua một đơn vị nhận uỷ thác giao nhận.
Thứ bảy là làm thủ tục thanh toán

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

18


Sau khi tiếp nhận hàng hoá xong và kiểm tra, xử lí các sai xót phát
sinh thì doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thực hiện thanh toán theo như trong hợp
đồng đã thoả thuận. Tuỳ theo sự thoả thuận về phương thức thanh toán trong
hợp đồng mà doanh nghiệp sẽ tiến hành các bước thanh toán khác nhau.
Hiện nay, trong các hợp đồng xuất nhập khẩu thường sử dung các phương
thức thanh toán chủ yếu như: Thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán bằng
phương thức nhờ thu.
Thứ tám là khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện
thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì cần lập hồ sơ
khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại. đơn khiếu nại phải kèm theo
những bằng chứng về việc tổn thất như: Hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn
bảo hiểm...
1.3 HIỆU QUẢ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
THIẾT BỊ Ở DOANH NGHIỆP
1.3.1 Khái niệm liên quan đến hiệu quả
Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế thực sự là mối quan tâm hàng
đầu của mọi nền sản xuất xã hội và của mọi doanh nghiệp.Thị trường chính
là nơi chỉ ra nền kinh tế nói chung hay một doanh nghiệp nói riêng có hiệu
quả kinh tế hay không. Khi đề cập đến hiệu quả kinh tế thì có thể đứng trên
nhiều góc độ khác nhau để xem xét.
Xét một cách chung nhất, hiệu quả kinh tế thương mại phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn lực của xã hội trong lĩnh vực thương mại thông qua
những chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - kỹ thuật được xác định bằng tỉ lệ so sánh
giữa các đại lượng phản ánh kết quả đạt được về kinh tế với các đại lượng
phản ánh chi phí đã bỏ ra với các nguồn vật lực đã được huy động vào trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại. Hiệu quả kinh tế thương mại chính là biểu
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C



19

Luận văn tốt nghiệp

hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Chúng biểu hiện
ở lợi nhuận và sự đa dạng về mặt giá trị sử dụng của hàng hóa và xét về mặt
hình thức, đó là một đại lượng so sánh giữa chi phí và kết quả bỏ ra
Hiệu quả KTTM

=

Kết quả đầu ra
Chi phí đầu vào

Xét ở góc độ khác, hiệu quả kinh tế không tồn tại một cách biệt lập với
sản xuất. Những kết quả do thương mại mang lại tác động nhiều mặt đến nền
kinh tế, chúng được đánh giá và đo lường trên cơ sở các chỉ tiêu hiệu quả
kinh tế liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất. Chỉ tiêu đó chính là năng
suất lao động xã hội, là sự tiết kiệm lao động xã hội trên quy mô toàn nền
kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả lao động xã hội được
xác định bằng việc so sánh giữa lượng lao động hữu ích cuối cùng thu được
với hao phí lao động xã hội.
Về mặt lí luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế thương mại là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động xã hội, là
sự tiết kiệm lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân, qua đó tạo thêm
nguồn tích lũy cho sản xuất và nâng cao mức sống, mức hưởng thụ của
người dân trong nước.
1.3.2 Phân loại hiệu quả nhập khẩu

1.3.2.1 Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động
thương mại của từng doanh nghiệp, của từng thương vụ kinh doanh. Biểu
hiện chung của hiệu quả cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được
và đó chính là hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh tế – xã hội mà thương mại mang đến cho nền kinh tế quốc
dân là sự đóng góp của hoạt động thương mại vào việc phát triển sản xuất,
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

20

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích lũy ngoại tệ,
tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân...
Trong quản lý thương mại, hiệu quả cá biệt của từng doanh nghiệp,
từng thương vụ rất được coi trọng trong nền kinh tế thị trường vì hoạt động
kinh doanh có hiệu quả thì mới có cái để doanh nghiệp mở rộng và phát triển
quy mô kinh doanh. Nhưng quan trọng hơn là phải đạt hiệu quả kinh tế-xã
hội đối với nền kinh tế quốc dân, đó là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự
phát triển. Hiệu quả kinh tế-xã hội và hiệu quả cá biệt có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế-xã hội đạt được
trên cơ sở hiệu quả của các doanh nghiệp thương mại, hiệu quả cá biệt, tuy
nhiên vẫn có hiệu quả cá biệt của một số doanh nghiệp nào đó không đảm
bảo nhưng hiệu quả chung kinh tế-xã hội vẫn thu được. Điều này có thể xảy
ra trong những trường hợp nhất định, trong những thời điểm nhất định do
những nguyên nhân khách quan mang lại.

1.3.2.2 Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho
toàn doanh nghiệp, cho các bộ phận trong doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho
từng bộ phận của doanh nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất.
Tại mỗi doanh nghiệp, chi phí bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh
suy đến cùng cũng đều là chi phí lao động xã hội, nhưng khi đánh giá hiệu
quả kinh tế, chi phí lao động xã hội biểu hiện dưới dạng chi phí cụ thể như:
- Chi phí trong quá trình sản xuất sản phẩm
- Chi phí ngoài quá trình sản xuất sản phẩm.
Bản thân mỗi loại chi phí trên có thể phân chia chi tiết theo những tiêu
thức nhất định. Do đó, khi đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động thương
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

21

mại cần phải đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên đây đồng
thời lại phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí. Đó là đòi hỏi cần thiết
giúp cho công tác quản lý kinh doanh tìm được hướng giảm chi phí cá biệt
và giảm chi phí tổng hợp nhằm tăng hiệu quả kinh tế.
1.3.2.3 Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương
án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra.
Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực
hiện một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu được

những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ
ra chi phí hay không cho thương vụ đó. Vì vậy, trong công tác quản lý kinh
doanh, bất kỳ công việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí dù với một lượng lớn
hay nhỏ cũng đều phải tính toán hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả so sánh chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của
các phương án. Mục đích chủ yếu của công việc tính toán này là so sánh mức
độ hiệu quả của các phương án, từ đó cho phép lựa chọn một cách làm, một
phương án có hiệu quả cao nhất.
Giữa hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh mặc dù độc lập với nhau
nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và làm
căn cứ của nhau. Trên cơ sở của hiệu quả tuyệt đối người ta sẽ xác định được
hiệu quả so sánh, từ hiệu quả so sánh sẽ xác định được phương án tối ưu.
1.3.3 Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả
nhập khẩu thiết bị, vật tư
Đối với doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu góp
phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp từ đó doanh nghiệp có thể tái sản

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


Luận văn tốt nghiệp

22

xuất mở rộng, tăng ưu tín và thế lực cũng như vị thế cho doanh nghiệp trên
thị trường quốc tế.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thì hiệu quả chính là
thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh, và khả

năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là vấn đề sống còn của doanh
nghiệp. Do đó, nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường quan trọng giúp
cho các doanh nghiệp có thể thắng lợi trong điều kiện nền kinh tế khó khăn
như hiện nay
Đối với người lao động thì hiệu quả kinh doanh chính là kết quả lao
động nên khi hiệu quả kinh doanh cao chính là động lực thúc đẩy người lao
động làm cho họ nhiệt tình, hăng say, yên tâm và luôn có tinh thần trách
nhiệm cao trong công việc đối với công ty từ đó đóng góp những công sức
của họ cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp có ý nghĩa
quan trọng đối với xã hội. Nó không những đóng góp thêm vào ngân sách
Nhà nước, giúp nền kinh tế ngày càng phát triển, mà nó còn tạo thêm việc
làm cho người lao động. Từ đó, nó tạo điều kiện thuận lợi đê chúng ta có thể
hội nhập khu vực, hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần ổn định kinh tế chính
trị của đất nước
1.3.4 Một số chỉ tiêu đánh giá nhập khẩu thiết bị, vật tư

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


23

Luận văn tốt nghiệp

Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình
độ sử dụng các yếu tố tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh đồng thời là
phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá. Đây là yếu tố mà các doanh
nghiệp sử dụng để đánh giá kết quả đạt được sau khi kết thúc quá trình nhập

khẩu. Một số chỉ tiêu hiệu quả mà các doanh nghiệp sử dụng đó là:
a) Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp
* Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu: Là đại lượng so sánh giữa khoản thu do việc
nhập khẩu mang lại với chi phí đã phải bỏ ra để mua hàng nhập khẩu.
Tỷ suất ngoại tệ
nhập khẩu

=

Tổng thu nhập do bán hàng nhập khẩu( Bằng bản tệ)
Tổng chi phí do mua hàng nhập khẩu( Bằng ngoại tệ)

Nếu tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu > tỷ giá hối đoái thì hoạt động nhập
khẩu có hiệu quả
Nếu tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu < tỷ giá hối đoái thì hoạt động nhập
khẩu không có hiệu quả.
* Kim ngạch nhập khẩu trong kỳ: Là giá trị của hàng hoá má doanh nghiệp
nhập khẩu về.
Kim ngạch nhập khẩu = ∑Qi x Gi
Qi: Tổng khối lượng mặt hàng i nhập khẩu trong kỳ
Gi: Giá mặt hàng i nhập khẩu trong kỳ
* Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
+) Chỉ tiêu lợi nhuận:
Là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận chính là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, nó giúp cho doanh
nghiệp có thể tồn tại và phát triển trên thị trường. Chỉ tiêu lợi nhuận của hoạt
động kinh doanh nhập khẩu được tính như sau:
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C



24

Luận văn tốt nghiệp

LNnk = DTnk – CPnk
Trong đó:
LNnk: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
DTnk: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
CPnk: Chi phí hoạt động kinh doanh nhập khẩu
+) Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu là tỷ số giữa lợi nhuận nhập khẩu và chi
phí nhập khẩu:
P
P’ =
C
P: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu
C: Chi phí hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra
mang lại bao nhiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp.
* Doanh lợi doanh thu nhập khẩu: Được xác định bằng tỷ số giữa lợi
nhuận nhập khẩu và doanh thu nhập khẩu
Pnk = Lợi nhuận nhập khẩu / Doanh thu nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận
b) Nhóm chỉ tiêu sử dụng vốn
Mức sinh lợi của vốn lưu động
Tổng lợi nhuận kinh doanh

Mức sinh lợi của vốn lưu động =
SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


25

Luận văn tốt nghiệp

Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Mức sinh lợi của vốn cố định
Tổng lợi nhuận kinh doanh
Mức sinh lợi của vốn cố định =
Vốn cố động bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được trên một đồng vốn cố định
hoặc số vốn cố định cần thiết để tạo ra một đồng lợi nhuận.
Thời gian hoàn vốn
Là thời gian cần thiết để tổng doanh thu có thể hoàn lại toàn bộ vốn bỏ
ra để kinh doanh
C
T

=
DT

C : Vốn kinh doanh
DT: Doanh thu phân bố cho nhiều hạng mục: Khấu hao, trả lãi vay...

c)Hiệu quả sử dụng lao động nhập khẩu
 Năng suất lao động bình quân: Được xác định bằng số doanh thu nhập
khẩu tạo ra trong một lao động hao phí
DTNK
WL =
L
Trong đó:

SV: Hà Thị Hoa

Lớp: QTKDTM 47C


×