Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.04 KB, 79 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đổi mới nền kinh tế theo hướng nền kinh tế mở do Đảng và Nhà nước
ta khởi xướng đòi hỏi hệ thống Ngân hàng Việt Nam, trong đó có Công ty cổ
phần thiết bị vật tư Ngân hàng phải thực sự đổi mới để phù hợp với tình hình
thực tiễn và xu thế hội nhập khu vực và thế giới.
Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng, hoạt động kinh doanh với
chức năng hạch toán kinh tế và thực hiện kinh doanh thiết bị, vât tư Ngân
hàng. Trong những năm qua Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng đã
nhanh chóng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, dần dần thay đổi cơ cấu kinh
doanh thích hợp với sự đổi mới nền kinh tế đất nước. Song cũng như mọi hoạt
động kinh doanh khác, hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng luôn
phải thay đổi theo môi trường hoạt động để thích nghi với nhiệm vụ chức
năng của Công ty thiết bị vật tư chuyên ngành ngân hàng, nên các cơ chế
chính sách luôn phải được đổi mới. Trên giác độ này, hiện nay hoạt động kinh
doanh thiết bị vật tư tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng cũng còn
khá nhiều bất cập, như: chất lượng kinh doanh chưa cao, tiềm ẩn những yếu
tố không vững chắc trong chiếm lĩnh thị trường về khách hàng, cơ cấu nguồn
vốn, nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ để mở rộng hoạt động và nâng cao
khả năng cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng chưa cao
và bền vững so với khả năng, ... Vì vậy, luận văn chọn đề tài “Giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân
hàng” làm mục tiêu nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng để tìm ra nguyên
nhân tồn tại trong hoạt động kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng của Công ty
1
cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp nâng
cao nâng cao hiệu quả kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh


doanh của lĩnh vực thiết bị, vật tư Ngân hàng; từ đó phân tích tình hình thực
tiễn hoạt động kinh doanh tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng trong
những năm đổi mới gần đây.
Luận văn tập trung chủ yếu vào những vấn đề về thực hiện cơ chế
chính sách kinh doanh thiết bị vật tư Ngân hàng, những vướng mắc tồn tại,
phương hướng cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thiết bị vật
tư ngân hnàg tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư ngân hàng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khái
quát hoá và các phương pháp lý thuyết hệ thống, thống kê, phân tích kinh tế, đánh
giá thực trạng tìm giải pháp và các phương pháp nghiên cứu thông thường.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ
phần thiết bị vật tư Ngân hàng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công
ty cổ phần thiết bị vật tư ngân hàng
2
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Khái niệm DN thường được làm rõ thông qua phạm trù xí nghiệp.
Người ta hiểu: ''xí nghiệp là một đơn vị kinh tế được tổ chức một cách có kế
hoạch để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (dịch vụ)'' [23]. Xí nghiệp được coi là
một hệ thống có các đặc trưng cơ bản là vừa phụ thuộc, lại vừa không phụ
thuộc vào cơ chế kinh tế.

Với tư cách là hệ thống không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế cụ thể, xí
nghiệp mang ba đặc trưng cơ bản: sự kết hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra sản
phẩm, nguyên tắc cân bằng tài chính và nguyên tắc hiệu quả.
Với tư cách hệ thống phụ thuộc và cơ chế kinh tế cụ thể sẽ có xí nghiệp
hoạt động trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và trong cơ chế thị trường. Từ
đó định nghĩa ''DN là một xí nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường''. Mỗi
DN đều là xí nghiệp nhưng không phải mọi xí nghiệp đều là DN.
Có thể hiểu DN từ định nghĩa tổ chức. Tổ chức là một nhóm có tối
thiểu hai người, cùng hoạt động với nhau một cách qui củ theo những nguyên
tắc, thể chế và các tiêu chuẩn (văn hoá) nhất định, nhằm đặt ra và thực hiện
các mục tiêu chung. Một tổ chức có ba đặc trưng cơ bản là:
- Một nhóm người cùng hoạt động với nhau
- Có mục tiêu chung
- Được quản trị theo các thể chế, nguyên tắc nhất đinh. Các nguyên tắc
được quan niệm như là các chuẩn mực, tiêu chuẩn cần thiết để điều hành tổ
chức một cách có trật tự nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra.
3
Có thể phân loại tổ chức theo các tiêu thức khác nhau. Xét theo tính
chất hoạt động sẽ có tổ chức chính trị, xã hội, kinh doanh,:.. Nếu xét theo mục
tiêu sẽ có tổ chức nhằm mục tiêu lợi nhuận và tổ chức không nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Xét theo tính chất tồn tại sẽ có tổ chức ổn định và tổ chức tạm thời.
Từ đó có thể hiểu DN là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị
trường. Hạn chế của khái niệm này là dựa trên cơ sở định nghĩa tổ chức là
nhóm tối thiểu hai người trong khi không nhất thiết DN cần điều kiện có tới
thiểu hai người.
Cho đến nay ở nước ta người ta vẫn hay có thói quen chỉ định nghĩa
DN theo luật. Trong Luật Doanh nghiệp có giải thích: ''DN là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động KD''
7

.
Khái niệm DN ở góc độ luật sẽ mang ý nghĩa chi phối của luật pháp trong khi
chúng ta nghiên cứu DN ở nhiều góc độ khác nhau.
1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp.
Tính phổ biến của hoạt động KD và trên cơ sở đó là tính phổ biến của
hoạt động QT trước hết phụ thuộc vào từng loại hình DN. Và mỗi loại hình có
những dặc điểm hoạt động đặc trưng. Trên giác độ nghiên cứu, luận văn xem
xét cách phân loại và đặc điểm hoạt động của các loại doanh nghiệp theo một
số tiêu thức sau:
* Căn cứ vào chức năng hoạt động
Căn cứ vào chức năng hoạt động có thể phân thành DN sản xuất, DN
dịch vụ và DN sản xuất và dịch vụ.
- DN sản xuất: DN sản xuất thực hiện sự kết hợp các nguồn lực sản
xuất để tạo ra các sản phẩm cung cấp cho thị trường.
Các sản phẩm là các vật phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Vì quá trình sản xuất thường tách rời quá trình tiêu dùng sản phẩm nên cơ cấu
sản xuất của mọi DN sản xuất thường là cơ cấu khép kín, quá trình sản xuất
4
không có sự hiện diện của khách hàng. Chức năng chủ yếu của DN sản xuất
là sản xuất sản phẩm.
- DN dịch vụ: DN dịch vụ là DN thực hiện sự kết lợp các nguồn lực để
tạo ra dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Dịch vụ là một hoạt động hay một lợi ích thường không cụ thể có thể
phục vụ trực tiếp khách hàng hay bán kèm theo sản phẩm. Đa số dịch vụ có
đặc điểm cơ bản là phi vật chất, không dự trữ được nên quá trình hình thành
và cung cấp dịch vụ thường diễn ra đồng thời. Quá trình tạo ra và cung cấp
dịch vụ thường gắn với sự hiện diện của khách hàng.
Để tồn tại và phát triển, con người có nhu cầu và cầu tiêu dùng cả hai
loại sản phẩm và dịch vụ. Xã hội càng phát triển, con người càng có nhu cầu
đa dạng về dịch vụ. Vì vậy giá trị cung cấp dịch vụ ngày càng chiếm tỉ trọng

lớn trong tổng sản phầm quốc nội.
- DN sản xuất và dịch vụ: Một số DN vừa thực hiện chức năng sản
xuất, vừa thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ. Các DN này là các DN sản
xuất và dịch vụ. Đó thường là các DN sản xuất gắn liền với tiêu thụ sản phẩm,
sản xuất gắn liền với dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng,... Trong xu hướng hiện
nay một số DN lớn có thể phát triển theo hướng đa dạng hoá cả các sản phẩm
và dịch vụ.
* Căn cứ vào ngành và ngành kinh tế- kĩ thuật
Nếu căn cứ vào tiêu thức ngành kinh tế có thề phân thành các DN công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm,... Sâu
hơn, căn cứ vào các ngành kinh tế - kĩ thuật có thể phân các DN chuyên môn
hoá hẹp hơn. Ví dụ các DN công nghiệp lại được phân thành các doanh
nghiệp cơ khí, luyện kim, hoá chất, dệt may, chế biến thực phẩm,... Cũng
hoàn toàn tương tự khi phân các DN ngân hàng thành ngân hàng công thương,
nông nghiệp, đầu tư,...
5
Phân loại DN theo ngành và ngành kinh tế - kĩ thuật là để nghiên cứu tính đặc
thù của hoạt động và các kĩ năng quản trị của từng loại.
* Căn cứ vào hình thức pháp lí
DN không tồn tại chung chung mà luôn tồn tại dưới hình thức pháp lí
cụ thể. Ở mỗi giai đoạn phát triển, mỗi nước đều xác định các hình thức pháp
lí cụ thể của DN. Các hình thức pháp lý của DN nước ta hiện nay bao gồm
hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp tư nhân
(DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp
danh (CTHD), nhóm công ty, doanh nghiệp liên doanh (DNLD) và doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài (DNFDI). Ngoài ra, theo cách hiểu DN hiện đại
thì KD theo Nghị định 66/HĐBT cũng là một hình thức pháp lý của DN. Mỗi
loại có những đặc điểm hoạt động riêng. Chẳng hạn:
- Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có
nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định

của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, KD dịch vụ và
cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
- Doanh nghiệp nhà nước: Là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn
bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình
thức CTNN, CTCPNN và CTTNHHNN [12]. Theo qui định hiện hành thì
DNNN cũng hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
CTNN là DN do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ
chức quản lý. Bên cạnh CTNN độc lập, ngày nay các tổng công ty nhà nước
thành lập theo QĐ 90 và 91/1994/TTg ngày 7.3.1994,...đang chuyển dần sang
hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế, công ty mẹ - công ty con ,...
CTCPNN là CTCP mà toàn bộ cổ đông là các CTNN hoặc tổ chức
được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo qui định
của Luật Doanh nghiệp.
6
CTTNHHNN một thành viên là CTTNHH do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ, được tổ chức quản lí và đăng kí hoạt động theo qui định của Luật
Doanh nghiệp.
CTTNHHNN có hai thành viên trở lên là CTTNHH trong đó tất cả các
thành viên đều là CTNN hoặc có thành viên là CTNN và thành viên khác là tổ
chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo qui
định của Luật Doanh nghiệp.
DN có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là DN mà cổ phần hoặc
vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ; Nhà nước giữ quyền chi
phối đối với DN này. Còn DN có một phần vốn của Nhà nước nếu phần vốn
góp của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm dưới 50%. CTNN giữ quyền chi
phối DN khác là công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp
chiếm trên 50% vốn điều lệ của DN khác, giữ quyền. Quyền chi phối đối với
DN là quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức các chức danh quản trị chủ chốt, việc tổ chức quản trị và các quyết

định quản trị quan trọng khác của DN đó.
Ngày nay, DNNN chỉ được thành lập mới ở những ngành, lĩnh vực
được phép và phải do thủ tướng quyết định thành lập.
Hạn chế chủ yếu của DNNN là sản phẩm chậm được đổi mới, cải tiến;
công nghệ kỹ thuật lạc hậu, chậm thay đổi; năng suất lao động thấp, giá thành
cao; tính năng động và HQKD thấp. Các nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
này là chưa cụ thể hoá được vai trò chủ đạo của DNNN; trình độ quản trị
thấp; chưa phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền QT, trách nhiệm của đại diện
sở hữu và của người sử dụng vốn; cho đến nay, hầu như mới chỉ có thưởng,
chưa ai phải chịu trách nhiệm về sự hoạt động kém hiệu quả của DNNN;
chính sách ưu đãi của nhà nước đã tạo thói quen ỷ lại cho DNNN.
- Doanh nghiệp tư nhân: DNTN là DN do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN.
7
DNTN không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ
được quyền thành lập một DNTN [12].
Chủ DNTN có toàn quyền quyết định về mọi hoạt động KD của DN, là
đại diện theo pháp luật của DN. Chủ DNTN có thế tự thực hiện công việc QT
hoặc thuê người khác làm thay mình. DNTN hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: CTTNHH hai thành viên trở lên là
doanh nghiệp, trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng
không vượt quá năm mươi. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn cam kết đóng góp.
Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định.
CTTNHH có tư cách pháp nhân và không được quyền phát hành cổ
phần [13]. CTTNHH một thành viên là DN do một tổ chức hoặc một cá nhân
làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty có tư cách pháp nhân và không được quyền phát hành cổ phần [14].

CTTNHH hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
CTTNHH một thành viên và hai thành viên trở lên khác nhau ở các
điềm chủ yếu sau:
- Số lượng và tính chất của chủ sở hữu
- Tính chất chịu trách nhiệm về tài sản và nghĩa vụ của thành viên
CTTNHH giống CTCP ở sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng vốn KD, ở cơ chế giám sát bên trong khá có hiệu quả.
CTTNHH khác CTCP ở:
- Giới hạn số thành viên và vốn pháp định khi thành lập
- Quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty cổ phần: CTCP là doanh nghiệp, trong đó: vốn điều lệ được
chia thành nhiều phần bằn nhau gọi là cổ phần, cổ đông có thể là tổ chức, cá
8
nhân với số lượng tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn họ đã góp cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác. CTCP có tư cách pháp nhân và có quyền phát
hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
CTCP có nhiều chủ sở hữu, mỗi chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm cao
nhất bằng vốn cổ phần của họ. Bằng cách phát hành cổ phiếu, CTCP có thể
thay đổi và tăng số chủ sở hữu trong quá trình kinh doanh. Trong CTCP,
quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách biệt khá rõ ràng. Hơn nữa,
CTCP còn được tổ chức giám sát thường xuyên và có hiệu quả bởi thị trường
chứng khoán và cơ chế hoạt động bên trong của nó.
Ngày nay, CTCP được thành lập bởi hai phương thức là thành lập mới
và CPH DNNN. Cũng có hai loại CTCP là CTCP thông thường và CTCPNN.
CTCP hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh: CTHD là DN trong đó có ít nhất hai thành viên là
chủ sở hữu chung cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành
viên hợp danh); ngoài ra còn có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp

danh là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản
nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
CTHD có tư cách pháp nhân và không được phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào [12]. CTHD hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Điểm đặc biệt là CTHD có hai loại thành viên; chi phối quyền và trách
nhiệm của mỗi loại thành viên là con người chứ không phải bằng vốn góp.
CTHD là công ty đối nhân.
- Nhóm công ty: Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ
gắn bó, lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch
vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty bao gồm các hình thức: công ty mẹ - công
ty con; tập đoàn kinh tế và các hình thức khác [12].
9
Với công ty mẹ - công ty con, quyền và trách nhiệm của công ty mẹ đối
với công ty con tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con; hợp đồng,
giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và công ty con đều phải được thiết
lập và thực hiện độc lập, bình đẳng.
Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Theo qui định hiện
nay, Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động
của tập đoàn kinh tế.
- Doanh nghiệp liên doanh và DN nước ngoài: DNLD là DN do hai bên
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh
hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt nam và Chính phủ
nước ngoài, hoặc là DNLD hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp
đồng liên doanh [11].
DN nước ngoài là DN có 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam. Trước đây DNLD và DNFDI hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Ngày nay, các DN này cũng hoạt động theo Luật đầu tư năm 2005
[10].
Ngoài ra, nếu ít vốn và muốn tự kinh doanh ở nước ta còn có loại hình
KD theo NĐ 66/HĐBT.

* Căn cứ vào hình thức sở hữu
Căn cứ vào hình thức sở hữu có:
- DN một chủ sở hữu và DN nhiều chủ sở hữu
- DNNN, DN dân doanh, DN sở hữu hỗn hợp và DN có vốn nước
ngoài.
- DN có một chủ sở hữu gồm DNTN và CTTNHH một thành viên:
- Chủ sở hữu là cá nhân: DNTN
- Chủ sở hữu là tổ chức: Có một thành viên.
10
Ngoài ra, có thể có DNFDI và kinh doanh theo nghi định 66/HĐBT
(một người sở hữu) cũng có thể là DN một chủ sở hữu.
DN có nhiều chủ sở hữu bao gồm HTX, CTTNHH có trên một thành
viên, CTCP, CTHD:
- Chủ sở hữu là các cá nhân: HTX, CTTHHH có trên một thành viên,
CTCP, CTHD.
- Chủ sở hữu là các tổ chức: CTTNHH trên một thành viên mà các tồ
chức cùng nhau thành lập.
Ngoài ra, có thể có DNFDI và KD theo nghị định 66/HĐBT (nhiều
người sở hữu) cũng có thể là DN nhiều chủ sở hữu.
* Căn cử vào mục tiêu hoạt động chủ yếu
Mặc dù phải theo đuổi đồng thời nhiều mục tiêu hình thành hệ thống
(hàm) mục tiêu song luôn xác định được một mục tiêu bao trùm, lâu dài cho
mọi DN và mục tiêu này thường ổn định. Xét ở góc độ này, có hai loại:
DNKD và DN công ích.
- DNKD: Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau song có thể khẳng
định trong cơ chế kinh tế thị trường mọi DNKD đều nhằm vào mục tiêu bao
trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận ròng. Chỉ trên cơ sở này DN mới có thể
đứng vững trong cạnh tranh, có điều kiện để thực hiện tái sản xuất với qui mô
ngày càng lớn, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao lợi ích của người lao
động và thực hiện các nghĩa vụ với xã hội.

Mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ròng chi phối hoạt động của DN và từng
bộ phận, cá nhân bên trong nó. Hoạt động quản lý nhà nước và QTKD đều
phải hướng DNKD vào mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ròng của DN.
- DN công ích: Các DN công ích được hình thành và tồn tại trong nền
kinh tế nhằm vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích xã hội, thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế, xã hội do Nhà nước giao. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa mục tiêu này càng cần được chú trọng.
11
Mục tiêu tối đa hoá lợi ích xã hội chi phối hoạt động của DN công ích
và từng bộ phận, cá nhân của nó. Hoạt động quản lý nhà nước và QTKD đều
phải hướng DN công ích vào mục tiêu tối đa hóa lợi ích xã hội của loại DN
này.
* Căn cứ vào qui mô hoạt động .
Căn cứ vào qui mô sẽ có DN qui mô lớn, qui mô vừa và qui mô nhỏ.
Có thể có nhiều quan điểm về tiêu thức phân loại qui mô:
Quan điểm kỹ thuật phân loại qui mô dựa vào năng lực sản xuất phản
ánh ở số lượng sản phẩm, dịch vụ mà DN có thể đáp ứng như sản phẩm,
giường bệnh, số phòng phục vụ, số hành khách,... Tuy nhiên, hầu như người
ta không qui ước số lượng bao nhiêu là lớn, vừa hay nhỏ.
Nước ta hiện nay phân loại qui mô dựa trên các tiêu thức vốn và lao
động. Cần chú ý là hai tiêu thức số lượng vốn và lao động có thể mâu thuẫn
nhau: DN có vốn lớn có thể sử dụng ít lao động và ngược lại
Các DN có cùng qui mô thường mang các đặc tính giống nhau về hoạt
động và QTKD. Vì vậy phân loại DN theo qui mô có ý nghĩa lớn cả đối với
việc tổ chức hoạt động và tồ chức QTDN cũng như quản lí nhà nước đối với
hoạt động của các DN.
1.2. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Khái niệm về hiệu quả kinh doanh toàn diện đầy đủ, hiện nay còn nhiều
quan điểm khác nhau, nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá
lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp phải xác định chiến lược
kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển phù hợp với những thay đổi của
môi trường kinh doanh; phải phân bổ hợp lý, quản trị khoa học và thường
xuyên kiểm tra quá trình sử dụng các nguồn lực. Muốn kiểm tra tính hiệu quả
12
của hoạt động sản xuất kinh doanh phải đánh giá được mức độ sử dụng hợp lý
các nguồn lực của doanh nghiệp.
Mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh
doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
nhưng lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh
doanh. Xét trên khía cạnh về hiệu quả kinh tế. Có ý kiến cho rằng: ''Hiệu quả
sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà
không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có
hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó'' [19]. Thực chất quan
điểm này đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền
xuất xã hội. Theo Manfred Kuhn: ''Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy
kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho CPKD'' [15].
Xét trên giác độ lý thuyết, hiệu quả kinh doanh chỉ có thể đạt được trên
đường giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được
mức hiệu quả kinh doanh này sẽ cần rất nhiều điều kiện, trong đó đòi hỏi phải
dự báo và quyết định đầu tư sản xuất theo qui mô phù hợp với nhu cầu thị
trường. Thế nhưng không phải lúc nào điều này cũng trở thành hiện thực.
Nhiều nhà quản trị học quan niệm hiệu quả kinh doanh được xác định
bởi tỉ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Hoặc có ý kiến cho rằng: Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả
tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh
doanh là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật lực,
tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ sử dụng các nguồn lực chỉ

có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với
mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào.
Từ những ý kiến nêu trên, luận văn rút ra:
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thể hiện qua công thức sau:
13
H =K/E
Trong đó H - hiệu quả kinh doanh
K. Kết quả đạt được.
E. Hao phí nguồn lực để có được kết quả đó.
Hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản xuất
kinh doanh, trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình
sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào qui mô và tốc độ biến động của
từng nhân tố.
1.2.2. Các loại hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được đánh giá ở nhiều góc độ, đối tượng, phạm
vi và thời kỳ khác nhau. Nên từng góc độ cụ thể xem xét theo từng loại hiệu
quả kinh doanh khác nhau.
* Hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả đầu tư là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực
để đạt được các mục tiêu đầu tư xác định. Hiệu quả đầu tư gắn liền với hoạt
động đầu tư cụ thể. Do đó khi đánh giá hiệu quả đầu tư doanh nghiệp cần
đánh giá theo đối tượng đầu tư.
HQKD là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt
được các mục tiêu KD xác định. HQKD gắn liền với hoạt động KD của DN.
Do vây trong quá trình KD, DN phải đánh giá HQKD theo thời gian lịch.
* Hiệu quả kinh tế - xã hội và HQKD
- Hiệu quả xã hội:
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực
sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định.

Các mục tiêu xã hội thường là giải quyết công ăn, việc làm; xây dựng
cơ sở hạ tầng; nâng cao phúc lợi xã hội, mức sống và đời sống văn hoá, tinh
14
thần cho người lao động; đảm bảo và nâng cao sức khoẻ cho người lao động;
cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo vệ sinh môi trường;...
Trước hết các DN công ích với mục tiêu tối đa hóa lợi ích xã hội cần
đánh giá hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt các
mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó.
Các mục tiêu kinh tế thường là tốc độ tăng trưởng kinh tế; tổng sản
phẩm quốc nội; thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân bình quân;...
Hiệu quả kinh tế gắn với nền kinh tế thị trường thuần túy và thường
được nghiên cứu ở giác độ quản lý vĩ mô.
- Hiệu quả kinh doanh:
HQKD là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt
được các mục tiêu xác định.
Như vậy hiệu quả kinh tế - xã hội và HQKD là hai phạm trù khác nhau,
giải quyết ở hai góc độ khác nhau song có quan hệ biện chứng với nhau. Hiệu
quả kinh tế - xã hội đạt mức tối đa là mức hiệu quả thoả mãn tiêu chuẩn hiệu
quả Pareto. Trong thực tế, do các DN cố tình giảm CPKD biên cá nhân làm
cho CPKD này thấp hơn CPKD biên xã hội nên có sự tách biệt giữa HQKD
và hiệu quả xã hội. Chính vì thế thường cần các giải pháp can thiệp đúng đắn
của Nhà nước.
Tuy nhiên, với tư cách là một tế bào của nền kinh tế - xã hội, các DN
có nghĩa vụ góp phần vào quá trình thực hiện các mục tiêu xã hội. Nghĩa vụ
đóng góp ở mức độ nào là do pháp luật qui định cho từng loại hình DN (kinh
doanh hay công ích) cũng như cho từng hình thức pháp lý của DN. Mặt khác,
xã hội càng phát triển thì nhận thức của con người đối với xã hội cũng dần
thay đổi, nhu cầu của người tiêu dùng không phải chỉ ở công dụng của sản

phẩm mà còn cả các điều kiện khác như an toàn, chống ô nhiễm môi trường,...
15
Vì vậy, càng ngày các DN càng tự giác nhận thức vai trò, nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội vì điều này làm
tăng uy tín, danh tiếng của DN và tác động tích cực, lâu dài đến kết quả hoạt
động KD của chính DN. Vì lẽ đó, càng ngày các DN không chỉ quan tâm đến
HQKD mà còn càng quan tâm hơn đến hiệu quả xã hội.
* Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả ở từng lĩnh vực
- Hiệu quả kinh doanh tổng hợp:
HQKD tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng mọi nguồn lực để đạt mục
tiêu của toàn DN hoặc từng bộ phận của nó.
Do tính chất phản ánh trình độ sử dụng mọi nguồn lực nên HQKD tổng
hợp đánh giá khái quát và cho phép kết luận tính hiệu quả của toàn DN (đơn
vị bộ phận của DN) trong một thời kỳ xác định.
- Hiệu quả ở từng lĩnh vựchoạt động
Hiệu quả ở lĩnh vực chỉ đánh giá trình độ sử dụng dụng một nguồn lực
cụ thể (lao động, vốn cố định và tài sản cố định, vốn lưu động và tài sản lưu
động) theo mục tiêu đã xác định.
Vì tính chất này mà hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động không đại diện
cho tính hiệu quả của DN, chỉ phản ánh tính hiệu quả sử dụng một nguồn lực
cá biệt cụ thể. Phân tích hiệu quả từng lĩnh vực là để xác định nguyên nhân và
tìm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực và do đó góp phần nâng
cao HQKD của DN.
Trong nhiều trường hợp có thể xuất hiện mâu thuẫn giữa HQKD tổng
hợp và hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động; khi đó chỉ có chỉ tiêu HQKD tổng
hợp là phản ánh tính hiệu quả hoạt động của DN; các chỉ tiêu hiệu quả từng
lĩnh vực chỉ có thể phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động riêng biệt mà
thôi.
Giữa HQKD tổng hợp và hiệu quả từng lĩnh vực có mối quan hệ biện
chứng: HQKD tổng hợp là kết quả ''tổng hợp'' từ hiệu quả sử dụng các nguồn

16
lực; hiệu quả sử dụng mỗi nguồn lực là điều kiện tiền đề góp phần tạo ra hiệu
quả KD tổng hợp.
* Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn
- Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn:
HQKD ngắn hạn là HQKD được xem xét, đánh giá ở những khoảng
thời gian ngắn như tuần, tháng, quí, năm, vài năm,...
- Hiệu quả kinh doanh dài hạn:
HQKD dài hạn là HQKD được xem xét, đánh giá trong khoảng thời
gian dài, gắn với các chiến lược, các kế hoạch dài hạn hoặc thậm chí, nói đến
HQKD dài hạn người ta hay nhắc đến hiệu quả lâu dài, gắn với quãng đời tồn
tại và phát triển của DN.
- Mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh ngắn và dài hạn:
Cần chú ý rằng, giữa HQKD dài hạn và ngắn hạn vừa có mối quan hệ
biện chứng với nhau và trong nhiều trường hợp có thể mâu thuẫn nhau.
HQKD ngắn hạn là cơ sở để có HQKD dài hạn. Trong thực tế, nếu xuất hiện
mâu thuẫn giữa HQKD ngắn hạn và dài hạn, chỉ có thể lấy HQKD dài hạn
làm thước đo chất lượng hoạt động KD, vì nó phản ánh xuyên suốt quá trình
lợi dụng các nguồn lực sản xuất của DN.
Về nguyên tắc, chỉ có thể xem xét và đánh giá HQKD ngắn hạn trên cơ
sở vẫn đảm bảo đạt được HQKD dài hạn trong tương lai.
1.2.3. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
* Chỉ tiêu định tính
HQKD đối với DN được thể hiện qua trình độ sử dụng các nguồn lực
chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với
mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào trong
một khoảng thời gian. Do đó, về mặt định tính, chất lượng hoạt động kinh
doanh được đánh giá qua các mặt:
17
Một là, hoạt động kinh doanh phải bảo đảm để DN thực hiện được chức

năng vốn có của nó, đồng thời phải mang lại thu nhập cho DN đủ để trang trải
các khoản chi phí liên quan và hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro (không thu
hồi được vốn đầu tư hoặc thu hồi chậm, không đủ...).
Hai là, HQKD đối với DN còn thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt nhu cầu
của khách hàng.
Ba là, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng, địa
phương và cả nước. Kết quả này đạt được khi cả khách hàng của DN và DN đều
hoạt động tốt. Tức là, hoạt động của DN sẽ đóng góp vào việc tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy phát triển kim ngạch
xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, tạo
thêm việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống người dân, ....
Nhìn chung, HQKD của DN là một chỉ tiêu tổng hợp, được đánh giá
trên quan điểm lợi ích của cả ba đối tượng: Lợi ích DN, khách hàng và nền
kinh tế-xã hội. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ đánh giá HQKD đối
với DN một cách khái quát. Muốn có những kết luận chính xác hơn, cần phải
dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể liên quan đến xác định
HQKD đối với DN. Riêng nhân tố kinh tế - xã hội rất khó có các chỉ tiêu định
lượng để đo lường tác động cụ thể đối với từng hoạt động kinh doanh của DN
đến sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ
thể, ta có thể đánh giá HQKD của DN trên cả hai mặt định tính và định lượng.
Đôi khi chỉ đánh giá trên các khía cạnh định lượng hoặc định tính.
* Chỉ tiêu định lượng về hiệu quả kinh doanh tống hợp
Sử dụng hệ thống chỉ tiêu này để xác định được kết quả cụ thể, có thật
sự có hiệu quả hay không? Có nhiều loại chỉ tiêu định lượng để đánh giá
HQKD của DN; nhưng thông thường người ta thường dùng một số chỉ tiêu
định lượng về hiệu quả kinh doanh tống hợp chủ yếu sau:
+ Chỉ tiêu tuyệt đối: Là tổng lợi nhuận thu được của DN trong một kỳ
tính toán.
18
+ Chỉ tiêu tương đối:

- Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng [15]
D
TR
(%) = ∏
r
x 1OO/TR (3)
Với D
TR
- Lợi nhuận của doanh thu bán hàng của một thời kỳ

r
- Lợi nhuận thu được của thời kỳ tính toán
TR - doanh thu bán hàng của thời kỳ tính toán đó.
Đối với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng thì doanh thu
bán hàng được tính bằng tổng doanh số cho vay, đầu tư để đánh giá một đồng
cho vay và đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu này càng lớn, càng tốt và chỉ sử dụng để so sánh các DN cùng
ngành nghề.
- Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn[15]
Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn được xác định theo công thức:
D
VKĐ
(%) = (∏
r
+ TL
VV
) X 1OO/V
KD
(1)
Với D

VKD
- Lợi nhuận của toàn bộ vốn KD của một thời kỳ

r
- Lợi nhuận thu được của thời kỳ tính toán
- TL
VV
- Lãi vốn vay của thời kỳ đó
- V
KD
- tổng vốn kinh doanh bình quân của kỳ tính toán.
Đây là chỉ tiêu tốt nhất, phản ảnh chính xác nhất tính hiệu quả cho mọi
DN thuộc mọi ngành kinh tế. Chỉ tiêu này có giá trị càng lớn, càng chứng tỏ
hiệu quả cao.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu [15]
D
VTC
(%) = ∏
r
x 100/V
TC
(2)
Với D
VTC
- Lợi nhuận vốn chủ sở hữu của một thời kỳ tính toán

r
- Lợi nhuận thu được của thời kỳ tính toán
19
V

TC
- tổng vốn chủ sở hữu bình quân của thời kỳ đó.
Chỉ tiêu này có giá trị càng lớn, càng tốt.
Nhiều nhà quản trị học cho rằng phải xem xét xem liệu chỉ tiêu tỷ suất
lợi nhuận vốn chủ sở hữu có phải là mô hình lựa chọn kinh tế [23]? Theo
H.Hax thì tối đa hoá doanh lợi vốn chủ sở hữu không phải là không có vấn đề
[8]. Thực chất, doanh thu bán hàng của một thời kỳ tính toán cụ thể luôn là
kết quả của việc sử dụng toàn bộ lượng vốn KD hiện có chứ không thể là kết
quả của riêng số vốn chủ sở hữu của DN. Hơn nữa, chỉ tiêu này còn có hạn
chế nữa là nếu đánh giá HQKD thông qua chỉ tiêu này thì DN đi vay vốn càng
nhiều, hiệu quả sẽ càng cao.
- Tỷ suất lợi nhuận tổng chi phí sản xuất kinh doanh: Là Lợi nhuận thu
được trên 100 đồng chi phí sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ tính toán
- Ngoài ra còn sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận trên số lượng lao động để xác
định một lao động tạo ra bao nhiêu lợi nhuận trong một thời kỳ tính toán
Trong những trường hợp sử dụng chỉ tiêu giá trị sản lượng của thời kỳ
thay thế cho chỉ tiêu doanh thu bán hàng và sử dụng chỉ tiêu CPKD sản xuất
của thời kỳ thay cho chỉ tiêu CPKD của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ sẽ đánh
giá riêng cho khu vực sản xuất. Chỉ tiêu này có hạn chế là chỉ đánh giá với giả
định về giá dự kiến.
Các chỉ tiêu HQKD tổng hợp được sử dụng đánh giá HQKD ở phạm vi
toàn DN cũng như từng đơn vị bộ phận bên trong DN. Các chỉ tiêu trên được
xác định dễ dàng, đặc biệt ở các đơn vị bộ phận hạch toán độc lập.
1.2.4. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh
Nâng cao HQKD là điều kiện sống còn để DN tồn tại, phát triển và
thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi DNKD là tối đa hoá lợi nhuận. Để
thực hiện mục tiêu này, DN phải sản xuất sản phẩm dịch vụ cung cấp cho thị
trường; trên cơ sở sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhất định. DN càng
20

tiết kiệm sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có cơ hội để thu được
nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Thông qua đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
mà biết hiệu quả sử dụng từng nguồn lực và các nguồn lực ở mức độ nào. Từ
đó mới biết chiến lược có còn đúng ở mức độ nào, phân bổ nguồn lực còn
đúng ở mức độ nào,. .. để điều chỉnh chiến lược kinh doanh. Và việc, đánh giá
và nâng cao hiệu quả kinh doanh là một yêu cầu tất yếu của hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Điều tất yếu nêu trên thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
- Nguồn lực khan hiếm: Các nguồn lực sản xuất xã hội là một phạm trù
khan hiếm, càng ngày người ta càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ các nhu cầu khác nhau của
con người.
- Nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng tăng và đa dạng. Trong
khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm thì nhu cầu của con người
lại ngày càng đa dạng và tăng không có giới hạn. Điều này phản ánh qui luật
khan hiếm. Qui luật khan hiếm buộc mỗi DN phải lựa chọn và trả lời chính
xác ba câu hởi: sản xuất kinh doanh cái gì? Sản xuất kinh doanh như thế nào?
Và sản xuất kinh doanh cho ai? Vì thị trường chỉ chấp nhận các DN nào
quyết định sản xuất đúng loại sản phẩm với số lượng và chất lượng phù hợp.
Mỗi DN trả lời không đúng ba câu hỏi nêu trên sẽ sử dụng các nguồn
lực sản xuất xã hội để sản xuất sản phẩm dịch vụ không tiêu thụ được trên thị
trường - tức KD không có hiệu quả, lãng phí nguồn lực sản xuất xã hội - sẽ
không có khả năng phát triển và tồn tại.
- Yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao: Mặt khác, KD trong cơ chế kinh tế
thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập, DN phải chấp nhận và đứng vững
trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh DN phải luôn tạo ra và
duy trì các lợi thế cạnh tranh: chất lượng và sự khác biệt hoá, giá cả và tốc độ
cung ứng sản phẩm dịch vụ. Để duy trì lợi thế về giá cả DN phải sử dụng tiết
21
kiệm các nguồn lực sản xuất hơn so với các DN khác. Chỉ trên cơ sở sản xuất

KD với hiệu quả cao, DN mới có khả năng đạt được điều này.
HQKD là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm
các nguồn lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao
trùm, lâu dài của DN. HQKD càng cao càng phản ánh việc sử dụng tiết kiệm
các nguồn lực sản xuất. Vì vậy, nâng cao hiệu quả là đòi hỏi khách quan để
DN thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỜNG ĐẾN HIỆU QỦA KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Nhân tố ảnh hưởng đến HQKD của DN có nhiều và trên nhiều khía
cạnh khác nhau, song trong luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu một số
nhân tố chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp đến HQKD của DN theo cách phân chia
theo nhóm bên trong DN nghiệp và bên ngoài DN.
1.3.1. Các nhân tố bên trong
* Lực lượng lao động
Dù trong điều kiện khoa học kỹ thuật công nghệ đã trở thành lực lượng
lao động trực tiếp. Áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng
HQKD. Song yếu tố lao động là quan trọng hàng đầu, vì:
Một là, máy móc dù tối tân đến đâu cũng do con người chế tạo ra. Và
các máy móc thiết bị hiện đại đó, chính là sản phẩm lao động sáng tạo của
con người
Hai là, máy móc thiết bị dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với
trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng máy móc của người lao
động. Thực tế cho thấy nhiều DN nhập tràn lan thiết bị hiện đại của nước
ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng suất
cao lại vừa tốn kém tiền của cho hoạt động sửa chữa, kết cục là HQKD rất
thấp. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng
phù hợp với cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm của DN có thể bán
22
được tạo cơ sở để nâng cao HQKD. Lực lượng lao động tác động trực tiếp
đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc

thiết bị, nguyên vật liệu,...) nên tác động trực tiếp và quyết định HQKD.
Khi sự phát triển khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là hàm lượng khoa
học kết tinh trong sản phẩm rất cao. Đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực
lượng rất tinh nhuệ, có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Điều này càng khẳng
định vai trò quyết định của lực lượng lao động đối với việc nâng cao HQKD.
Nên, nhân tố lao động phải được yếu tố quan trọng hàng đầu.
* Công nghệ kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
Công nghệ quyết định năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Máy
móc thiết bị là công cụ mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao
động. Sự hoàn thiện của máy móc, thiết bị, công cụ lao động gắn bó chặt chẽ
với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm và
hạ giá thành. Như vậy, tiếp đến công nghệ kỹ thuật là nhân tố hết sức quan
trọng tạo ra năng suất, chất lượng, tăng HQKD. Chất lượng hoạt động của các
DN chịu tác động mạnh mẽ của trình độ công nghệ kỹ thuật, cơ cấu, tính đồng
bộ của máy móc thiết bị, chất lượng công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc
thiết bị,... Tuy nhiên, công nghệ kỹ thuật cũng đều do con người.
Thực tế trong những năm chuyển đổi cơ chế kinh tể ở Việt Nam vừa
qua cho thấy DN nào được chuyển giao công nghệ sản xuất và hệ thống thiết
bị hiện đại, làm chủ được yếu tố kỹ thuật thì phát triển được sản xuất KD, đạt
được kết quả và HQKD cao, tạo được lợi thế cạnh tranh so với các DN cùng
ngành và có khả năng phát triển.
Một khi, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chu kỳ sống của
các sản phẩm công nghệ ngày càng ngắn hơn, hiện đại hơn, đóng vai trò ngày
càng to lớn, mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm dịch vụ. Điều này đời hỏi DN phải tìm ra giải pháp đầu tư
đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ tiên tiến
23
của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ được công
nghệ kỹ thuật hiện đại để tiến tới ứng dụng kỹ thuật ngày càng tiên tiến, sáng

tạo công nghệ kỹ thuật mới,... làm cơ sở cho việc nâng cao HQKD của mình.
* Nhân tố quản trị doanh nghiệp
Khi sản xuất kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng phát
triển, nhân tố QT đóng vái trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất KD của
DN. QT tác động đến việc xác định hướng đi đúng đắn cho DN trong môi
trường KD ngày càng biến động. Chất lượng của chiến lược KD là nhân tố
đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công, HQKD cao hay thất
bại, KD phi hiệu quả của một DN. Định hướng đúng và luôn định hướng
đúng là cơ sở để đảm bảo hiệu quả lâu dài của DN.
Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh
tranh. Các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm dịch vụ, giá cả
và tốc độ cung ứng đảm bảo cho DN chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc
chủ yếu vào nhãn quan và khả năng QT của các nhà QT. Đến nay, người ta
cũng khẳng định ngay cả đối với việc đảm bảo và ngày càng nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ của một DN cũng chịu ảnh hưởng nhiều của nhân tố
QT chứ không phải của nhân tố kỹ thuật; QT định hướng chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO 9000 chính là dựa trên nền tảng tư tưởng này.
Trong quá trình kinh doanh, QTDN khai thác và thực hiện phân bổ các
nguồn lực sản xuất. Chất lượng của hoạt động này cũng là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến HQKD của mỗi thời kỳ.
Với phẩm chất và tài năng của mình, đội ngũ các nhà QT mà đặc biệt là
các nhà QT cao cấp có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh hướng có tính quyết
định đến sự thành đạt của DN. Kết quả và hiệu quả hoạt động của QTDN phụ
thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các nhà QT cũng như cơ
cấu tổ chức bộ máy QT, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
từng bộ phận, cá nhân và thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ
cấu tổ chức đó.
24
* Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Khi sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - kỹ thuật đang

làm thay đổi hằn nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó công nghệ tin học đóng vai
trò đặc biệt quan trọng. Thông tin được coi là hàng hoá, là đối tượng KD và
nền kinh tế thị trường hiện nay là nền kinh tế thông tin hoá. Để đạt được
thành công khi KD trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt,
các DN rất cần nhiều thông tin chính xác về cung cầu thị trường hàng hoá, về
công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ cạnh tranh,... Ngoài ra, DN
còn rất cần đến các thông tin về kinh nghiệm thành công hay thất bại của các
DN khác ở trong nước và quốc tế, cần biết các thông tin về các thay đổi trong
các chính sách kinh tế của Nhà nước và các nước khác có liên quan,...
Trong KD nếu biết mình, biết người và nhất là hiếu rõ được các đối thủ
cạnh tranh thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh, có chính sách
phát triển mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Kinh nghiệm thành công của
nhiều DN cho thấy nắm được các thông tin cẩn thiết và biết xử lí và sử dụng
các thông tin đó kịp thời là một điều kiện rất quan trọng để ra các quyết đinh
KD có hiệu quả cao, đem đại thắng lợi trong cạnh tranh. Những thông tin
chính xác được cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để DN xác định
phương hướng KD, xây dựng chiến lược KD dài hạn cũng như hoạch định các
chương trình sản xuất ngắn hạn. Nếu không được cung cấp thông tin một cách
thường xuyên và liên tục, không có trong tay các thông tin cần thiết và xử lý
một cách kịp thời thì DN không có cơ sở để ban hành các quyết định KD dài
và ngắn hạn và do đó dễ dẫn đến thất bại.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là của công nghệ thông tin
đã thúc đẩy và đòi hỏi mỗi nước bắt tay xây dựng nền kinh tế tri thức Một
trong các đòi hỏi của việc xây dựng nền kinh tế tri thức là các hoạt động KD
phải dựa trên cơ sở sự phát triển của công nghệ tin học. Nhu cầu về thông tin
của các DN đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ hệ thống thông tin dưới nhiều
25

×