Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Xưng hô trong giao tiếp của người việt qua ngữ liệu tác phẩm văn học giai đoạn 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.98 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*******&*******

NGUYỄN NGỌC LƯƠNG

XƯNG HÔ TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
(QUA NGỮ LIỆU TÁC PHẨM VĂN HỌC
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI – 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*******&*******

NGUYỄN NGỌC LƯƠNG

XƯNG HÔ TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
(QUA NGỮ LIỆU TÁC PHẨM VĂN HỌC
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học
TS. KHUẤT THỊ LAN

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới cô giáo TS. GV Khuất
Thị Lan - người đã định hướng chọn đề tài và tận tình hướng dẫn để em có
thể hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa
Ngữ văn, trường đại học sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập.
Do lần đầu tiên làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, hơn nữa do
thời gian có hạn và năng lực của bản thân còn hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô
và các bạn sinh viên để khóa luận của em được hoàn thiện và có nhiều ứng
dụng trong thực tế.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Ngọc Lương


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận của mình được hoàn thành bởi sự cố gắng,
nỗ lực của bản thân và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Khuất Thị Lan.
Đây là đề tài không trùng với đề tài của các tác giả khác.
Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn
để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên


Nguyễn Ngọc Lương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 5
4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 6
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6
6. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 6
7. Đóng góp khóa luận ................................................................................ 7
8. Bố cục khóa luận ..................................................................................... 7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............. 8
1.1. Khái quát về giao tiếp và hội thoại....................................................... 8
1.1.1. Giao tiếp và các vấn đề về giao tiếp ............................................. 8
1.1.2. Hội thoại và các vấn đề của hội thoại ....................................... 13
1.2. Những vấn đề về “Xưng hô”.............................................................. 21
1.2.1. Khái niệm về xưng hô.................................................................. 21
1.2.2. Các kiểu xưng hô của người Việt ................................................ 22
1.2.3. Xưng hô và các quan hệ được biểu hiện ..................................... 23
1.3. Bức tranh văn học giai đoạn 1930- 1945 ........................................... 24
1.3.1. Văn học lãng mạn 1930- 1945 .................................................... 24
1.3.2. Văn học hiện thực 1930- 1945 .................................................... 25
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM XƯNG HÔ TRONG GIAO TIẾP CỦA
NGƯỜI VIỆT ....................................................................................................... 26
2.1. Cách xưng hô trong giao tiếp của người Việt .................................... 26
2.1.1. Cách xưng hô trực diện (đúng vai) ............................................. 26
2.1.2. Cách xưng hô không trực diện (không đúng vai) ....................... 29



2.2 Từ ngữ dùng để xưng hô trong giao tiếp của người Việt.................... 33
2.2.1. Từ ngữ dùng để xưng (tự xưng)………………………………..43
2.2.2. Từ ngữ dùng để hô (gọi).............................................................. 47
2.3. Mối quan hệ giữa xưng và hô trong giao tiếp của người Việt ........... 52
2.3.1. Xưng hô thể hiện mối quan hệ tương ứng chính xác .................. 52
2.3.2. Xưng hô thể hiện mối quan hệ tương ứng không chính xác ....... 53
2.4. Lịch sự trong giao tiếp xưng hô của người Việt ................................ 55
2.4.1. Xưng hô thể hiện sự tôn trọng quy tắc lịch sự ............................ 55
2.4.2 Xưng hô thể hiện sự không tôn trọng quy tắc lịch sự .................. 56
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xưng hô là một trong những hiện tượng văn hóa ngôn ngữ chịu sự chi
phối của rất nhiều nhân tố giao tiếp, mang ý nghĩa của dụng học rõ nét. Xưng
hô ngoài biểu hiện qua các cách xưng hô, ta còn thấy rõ các đặc điểm của từ
xưng hô. Mà dễ thấy hệ thống từ xưng hô trong giao tiếp của người Việt đa
dạng và phức tạp hơn nhiều so với các loại ngôn ngữ khác. Ví dụ như cách
xưng hô lệch vai khi bà gọi cháu bằng anh, mẹ gọi con bằng chị…
Ngoài ra, khi nói đến xưng hô là nói đến các mối quan hệ được biểu hiện
giữa xưng và hô, nói đến các vấn đề lịch sự mà chúng ta vẫn quan tâm khi nó
diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội.
“Hệ thống từ xưng hô và cách xưng hô thay đổi theo lịch sử. Một ngôn
ngữ có hệ thống từ xưng hô càng lớn, câu thúc xưng hô càng nhiều thì sự biến
đổi theo lịch sử càng rõ” [4; 80]. Có thể thấy được mỗi thời kì lịch sử thì cách
xưng hô lại có những đặc trưng và màu sắc riêng.
Trong chương trình trung học, có khá nhiều tác phẩm văn học thuộc giai

đoạn 1930 - 1945 như “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam), “Chí phèo”, “Lão Hạc”
(Nam Cao), “Tắt đèn” (Ngô Tất Tố), “Số đỏ” (Vũ Trọng Phụng)…Các tác
phẩm có hệ thống từ xưng hô khá đa dạng và mang những đặc trưng dụng học
rõ nét.
Bời những lẽ đó nên chúng tôi đã chọn đề tài “Xưng hô trong giao tiếp
của người Việt qua ngữ liệu tác phẩm văn học giai đoạn 1930 - 1945” để
nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Vấn đề xưng hô trong tiếng Việt
Từ lâu vấn đề xưng hô đã được nhiều nhà ngôn ngữ Việt quan tâm và xem
xét, có thể kể tới các công trình nghiên cứu của một số nhà ngôn ngữ học như:

1


Diệp Quang Ban (chủ biên), 2009, Ngữ pháp tiếng Việt (tập 1), tái bản
lần thứ mười một, Nhà xuất bản giáo dục. Khi tác giả bàn về nhân xưng từ
tiếng Việt đã chú ý đến lớp nhân xưng từ đích thực, phân biệt với các lớp từ
khác được dùng làm nhân xưng từ. Cụ thể ông đề cập đến các lớp từ : Nhân
xưng từ đích thực; Danh từ chỉ quan hệ thân tộc; Danh từ chỉ chức vị; Và một
số từ, tổ hợp từ khác.
Theo Diệp Quang Ban, từ nhân xưng là từ dùng để chỉ ra người hay vật
tham gia quá trình giao tiếp. Từ nhân xưng được chia thành ba ngôi: Ngôi thứ
nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Trong đó, ngôi thứ nhất qui chiếu đến người
nói, ngôi thứ hai qui chiếu đến người nghe. Đặc biệt ngôi thứ ba dễ dàng dùng
trong cả hai cách qui chiếu, qui chiếu đến vật, hiện tượng ngoài văn bản và
qui chiếu đến từ ngữ trong văn bản. Ông còn cho rằng: “Trong tiếng Việt, việc
dùng từ nhân xưng trong xưng hô không thật phổ biến, vì chúng đem lại sắc
thái không kính trọng, chúng mang nhiều tính thân mật, suồng sã”. Bởi vậy,
ông đưa ra quan niệm: “Trong xưng hô hàng ngày, thay vì việc sử dụng các

nhân xưng từ đích thực thì người Việt sẽ sử dụng các danh từ thân tộc và
danh từ chỉ chức vụ để xưng hô với nhau”.
Trong các tài liệu Dụng học Việt ngữ, “xưng hô” là vấn đề được xem xét
rất kĩ trong mối quan hệ với các nhân tố giao tiếp. Theo Đỗ Hữu Châu trong
Đại Cương ngôn ngữ học tập hai, tái bản lần thứ ba, NxbGD, (2007) cho rằng
“Trước hết, để xưng hô, tất cả các ngôn ngữ đều có hệ thống các đại từ xưng
hô. Đại từ xưng hô trong tiếng Việt (ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai) là: tôi, tớ,
tao, mình, mày, bay, chúng tôi, chúng mày, chúng ta, chúng mình, bọn
mình…(không kể những đại từ phương ngữ như tui, choa, qua, bậu…) Ý
nghĩa liên cá nhân bao gồm cả ý nghĩa biểu cảm trong các đại từ xưng hô của
tiếng Việt quá đậm - tiếng Việt thiếu hẳn một đại từ ngôi thứ hai hoàn toàn
trung tính như You tiếng Anh - cho nên chúng không thể được dùng trong

2


giao tiếp ở những ngữ vực quy thức và phi quy thức, theo phép lịch sự trang
trọng, tôn kính, chúng thường chỉ được dùng trong ngữ vực thân tình với thái
độ từ thân mật đến suồng sã hoặc khinh rẻ. Tùy theo ngữ cảnh mà tiếng Việt
còn dùng các phương tiện sau đây để xưng hô: Tên riêng; Các danh từ thân
tộc; Những từ chuyên dùng để xưng hô; Một số tổ hợp dân dã.” [5; 75 - 76]
Đối với Đỗ Hữu Châu, trong cuốn “Cơ sở ngữ dụng học” ông đã đi sâu
vào việc phân tích hệ thống từ xưng hô một cách tỉ mỉ và sâu sắc, nêu lên
được đặc điểm, phạm vi cũng như cách thức sử dụng của các từ xưng hô trong
tiếng Việt. Ông nhận định “Xưng hô là hành vi chiếu vật, ở đây là quy chiếu
các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn với người nói, người tiếp
thoại. Xưng hô thể hiện vai giao tiếp” [4; 264]
Bùi Minh Toán, Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, NxbĐHSP, (2007) cho
rằng: Các đại từ xưng hô, người nói tự xưng như: tôi, tao, chúng ta, chúng
mình, chúng tớ… người nói gọi người nghe (hô) như: mày, chúng mày, mi,…

hoặc chỉ người được nói tới như: nó, hắn, thị, y, chúng, nó... Ngoài ra, trong
tiếng Việt, còn có nhiều danh từ chỉ quan hệ thân tộc được dùng như đại từ
xưng hô như: Ông, bà, anh, chị, em, cháu,…Trong đó, các đại từ xưng hô của
tiếng Việt cũng phân biệt theo ngôi và số. Còn các danh từ thân tộc dùng để
xưng hô trong gia đình và trong xã hội không phân biệt theo ngôi, cùng một từ
có thể dùng cả ba ngôi, tùy theo tình huống giao tiếp. Ông cũng nhấn mạnh
việc dùng đại từ và nhất là đại từ xưng hô, bởi người Việt rất chú ý đến việc
bày tỏ tình cảm, thái độ của mình đối với người khác trong giao tiếp. Có thể nói
đó là một trong những sắc thái riêng của đại từ xưng hô trong tiếng Việt.
Trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, Cù Đình Tú đã
cho rằng ngoài các đại từ nhân xưng và các đại từ chỉ quan hệ họ hàng thân tộc
thì còn “lấy cả tiếng đệm giữa họ và tên của nữ giới (thị) để dùng làm từ xưng
hô, thậm chí còn dùng cả cách nói trống không (từ xưng hô zero) để xưng hô”
[13; 166]. Và ông còn cho rằng: “Trong tiếng Việt, từ xưng hô, cách xưng hô là

3


phương tiện biểu cảm, là phương tiện phong cách” [13; 168].
Lê Biên trong cuốn “Từ loại tiếng Việt hiện đại” đã có những nghiên cứu
khá sâu về đại từ xưng hô, theo tác giả có thể chia đại từ xưng hô trong tiếng
Việt thành hai lớp là đại từ xưng hô đích thực và yếu tố được đại từ hóa dùng
để xưng hô như: các danh từ lâm thời đảm nhận chức năng đại từ, các từ chỉ
tên riêng, từ chỉ nghề nghiệp, chức danh…Bên cạnh đó, ông còn chia từ xưng
hô trong tiếng Việt thành hai lớp có phạm vi sử dụng khác nhau, gồm: những
từ xưng hô dùng trong gia tộc và những từ xưng hô dùng ngoài xã hội. Và ông
còn nhận định “Xưng hô trong giao tiếp là một vấn đề lớn, liên quan đến
nhiều nhân tố” [2; 123].
Theo quan điểm của Cao Xuân Hạo (2001); Nguyễn Đức Thắng (2002)
đều cho rằng: “Bên cạnh nhóm đại từ nhân xưng đích thực dùng trong xưng

hô, người Việt còn dùng các “đại từ nhân xưng lâm thời” gồm các danh từ
thân tộc, danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp để xưng hô”.
Ngoài ra còn có thể kể tới một vài công trình nghiên cứu khác như: Lê
Thị Sao Chi (2005), Từ hô gọi trong lời đối thoại và độc thoại của nhân vật
qua khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Ngữ học trẻ; Vũ Tiến Dũng
(2006), Cách biểu hiện của lịch sự chuẩn mực trong xưng hô, Ngữ học trẻ; Tạ
Thị Thanh Tâm (2005), Vai giao tiếp và phép lịch sự trong tiếng Việt, Tạp chí
Ngôn ngữ số một; Nguyễn Đức Thắng (2002), Về giới và ngôi ở những từ
xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số một; Bùi Minh Yến
(2000), Xưng hô vợ và chồng trong gia đình người Việt, Ngôn ngữ, Hà Nội…
cũng đề cập tới vấn đề xưng hô.
Các kết quả nghiên cứu trong các công trình trên chính là cơ sở lí thuyết
cho chúng tôi thực hiện đề tài của mình.
2.2 Nghiên cứu vấn đề “xưng hô trong giao tiếp của người Việt qua ngữ
liệu tác phẩm văn học 1930- 1945”.

4


Nghiên cứu về vấn đề xưng hô và liên quan tới các tác phẩm văn học
giai đoạn 1930 - 1945 trước đó cũng có một số khóa luận nghiên cứu,
nhưng là vấn đề về từ xưng hô trong một vài tác phẩm của một nhà văn cụ
thể như khóa luận “Từ xưng hô trong truyện ngắn trước cách mạng của
Nam Cao” (Kiều Thị Thảo); “Khảo sát các đại từ nhân xưng và lớp từ
xưng hô trong một số truyện ngắn của Nam Cao” (Trần Thị Duy Linh)…
Tuy nhiên các khóa luận, các công trình chỉ dừng lại ở viêc nghiên cứu từ
xưng hô qua một số sáng tác ở một phương diện, một phạm vi nhỏ, ví dụ
như xưng hô vợ chồng, xưng hô với quan hệ liên cá nhân…mà chưa có
công trình nào đi nghiên cứu xưng hô một cách toàn diện, cụ thể là xưng hô
của người Việt (được thể hiện qua ngữ liệu tác phẩm văn học giai đoạn

1930 - 1945).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Củng cố và nâng cao những kiến thức lý thuyết về ngôn ngữ học, cụ thể
là các vấn đề về xưng hô, giao tiếp.
Xác định đặc điểm, mô tả các phương diện cụ thể của “xưng hô” trong
giao tiếp, tìm hiểu sự tác động và chi phối của những nhân tố giao tiếp đối với
vấn đề xưng hô.
Xác định đặc trưng của “xưng hô” trong giao tiếp của người Việt thông
qua các tác phẩm văn học giai đoạn 1930- 1945, góp phần hình thành tư liệu
cho việc học tập và giảng dạy các tác phẩm văn học giai đoạn 1930- 1945
trong chương trình phổ thông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu các vấn đề lí thuyết về giao tiếp, hội thoại, xưng hô và đặc
điểm văn học giai đoạn 1930 - 1945.

5


Khảo sát, thống kê các cách xưng hô, từ xưng hô trong tác phẩm văn học
giai đoạn 1930 - 1945 của các tác giả tiêu biểu: Nam Cao, Nhất Linh, Khái
Hưng, Thạch Lam…
Phân tích, đánh giá các cuộc thoại ở các tác phẩm để làm nổi bật vấn đề
“xưng hô” trong giao tiếp của người Việt trong giai đoạn 1930 - 1945.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Xưng hô trong giao tiếp của người
Việt được thể hiện qua các tác phẩm văn học giai đoạn 1930 - 1945” là: cách
xưng hô, từ ngữ dùng để xưng hô, mối quan hệ giữa xưng và hô, lịch sự trong
giao tiếp xưng hô của người Việt.

5. Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về thời gian và dung lượng khóa luận cùng với việc “xưng
hô trong giao tiếp của người Việt” là vấn đề rộng và tương đối phức tạp, để đi
sâu tìm hiểu cần có một quá trình nghiên cứu lâu dài nên chúng tôi chỉ đi
nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề cụ thể về cách xưng hô, từ ngữ dùng để xưng
hô, mối quan hệ giữa xưng và hô trong giao tiếp của người Việt cùng với lịch
sự trong giao tiếp xưng hô của người Việt thông qua việc khảo sát 26 tác
phẩm tiêu biểu gồm có tiểu thuyết, truyện ngắn… của các tác giả như: Thạch
Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, Nam Cao… thuộc cả hai dòng văn học hiện thực
phê phán và văn học lãng mạn giai đoạn 1930 - 1945.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống các vấn đề lý thuyết: Được dùng để triển khai tìm
hiểu cơ sở lí luận của đề tài, cơ sở của việc thống kê phân loại.
Phương pháp thống kê phân loại: Để thấy được cách xưng hô, cách xây
dựng được từ ngữ dùng để xưng hô… cũng như thấy được số lượng cùng tần
suất xuất hiện của chúng.
Phương pháp phân tích: Đi sâu vào phân tích, lí giải và nhận xét cách
xưng hô, từ ngữ dùng để xưng hô trong giao tiếp, mối quan hệ giữa xưng và

6


hô, lịch sự trong giao tiếp xưng hô của người Việt.
7. Đóng góp khóa luận
Giúp cho việc tìm hiểu, việc dạy và học ngôn ngữ văn học nói chung và
ngôn ngữ văn học giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài các phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung chính của khóa luận bao gồm 2 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.

Chương 2: Đặc điểm xưng hô trong giao tiếp của người Việt.

7


NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về giao tiếp và hội thoại
1.1.1. Giao tiếp và các vấn đề về giao tiếp
1.1.1.1.Giao tiếp
Giao tiếp là hoạt động tiếp xúc giữa người và người trong xã hội, ở đó
diễn ra sự trao đổi thông tin, sự trao đổi nhận thức, tư tưởng tình cảm và sự
bày tỏ mối quan hệ, sự ứng xử, thái độ của người với người và với những vấn
đề giao tiếp.
“Giao tiếp là một hoạt động diễn ra khi chí ít có hai nhân vật cùng luân
phiên sử dụng cùng một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ để trao đổi với nhau
những nhận thức, những tình cảm và những ý muốn của mình nhằm đạt đến
một mục đích nào đó” [9; 1]. Giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu trong cuộc
sống của con người. Nó diễn ra thường xuyên, ở mọi nơi, mọi lúc, bởi vì
không ai có thể sống cô độc, lẻ loi mà không cần giao tiếp với người khác.
1.1.1.2. Giao tiếp bằng ngôn ngữ
“Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động trao đổi thông tin của
con người trong xã hội, được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ
(dạng nói hoặc dạng viết), nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, về
tình cảm, về hành động…” [16; 15]
1.1.1.3. Các nhân tố chi phối hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Mỗi hoạt động giao tiếp gồm hai quá trình: tạo lập văn bản (do người
nói, người viết thực hiện) và lĩnh hội văn bản (do người nghe, người đọc thực
hiện. Hai quá trình này diễn ra trong quan hệ tương tác. Và trong một hoạt
động giao tiếp thì luôn có sự tham gia của nhiều nhân tố. Các nhân tố giao

tiếp có thể được hiểu là các nhân tố có mặt trong cuộc giao tiếp và nó chi phối
diễn ngôn về cả hình thức và nội dung. Mỗi nhân tố có vai trò, ảnh hưởng và

8


một vị trí nhất định trong cuộc giao tiếp. Theo quan điểm truyền thống, hoạt
động giao tiếp bằng tiếng Việt gồm năm nhân tố: nhân vật giao tiếp, đối
tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện giao
tiếp. Còn theo quan niệm của ngữ dụng học thì gồm ba nhân tố: Ngữ cảnh,
ngôn ngữ và diễn ngôn. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi sẽ đi sâu vào các
nhân tố chi phối hoạt động giao tiếp theo quan niệm của ngữ dụng học.
1. Ngữ cảnh
Theo Đỗ Hữu Châu “Ngữ cảnh là những nhân tố có mặt trong một cuộc
giao tiếp nhưng nằm ngoài diễn ngôn” [5; 15]. Tức là bối cảnh mà các vai
giao tiếp và sự việc xảy ra, nhờ bối cảnh mà con người mới có thể hiểu được
nội dung và những tác động của các yếu tố xung quanh tới các sự vật hiện
tượng xảy ra. Trong ngữ cảnh phải kể tới nhân vật giao tiếp và hiện thực
ngoài diễn ngôn. Cụ thể:
a) Nhân vật giao tiếp
“Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào cuộc giao tiếp bằng
ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác
động vào nhau” [5; 15]. Đó là những con người trong xã hội cụ thể có những
đặc điểm riêng biệt về lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn… Trong hoạt động
giao tiếp các vai tham gia giao tiếp chịu tác động qua lại với nhau về tất cả
các mặt như: điệu bộ, dáng vẻ, cử chỉ, nét mặt, ngôn ngữ, người nói có thể
thay đổi tư tưởng, tình cảm, thái độ đối với người nghe và người nghe cũng
có thể làm ngược lại.
Trong một cuộc giao tiếp thì các nhân vật có sự phân vai rõ ràng: Vai nói
(Viết) tức vai phát ra diễn ngôn, kí hiệu bằng Sp1 và vai nghe (đọc) tức vai

tiếp nhận diễn ngôn, kí hiệu Sp2. Trong cuộc giao tiếp, mặt đối mặt, hai vai
nói và nghe thường có sự luân chuyển, tức là sau khi Sp1 nói thì sẽ chuyển
thành vai nghe, khi đó Sp2 sẽ trở thành vai nói và ngược lại. Tuy nhiên trong

9


thực tế hai vai nói nghe không hề đơn giản, ví dụ một diễn ngôn có thể có sự
xuất hiện của bốn vai giao tiếp như chủ ngôn, đích ngôn, thuyết ngôn và tiếp
ngôn thì trong cuộc giao tiếp ấy cần có sự khéo léo trong việc luân chuyển lời.
“Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội,
hiểu biết tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau” [5; 17]. Quan hệ liên
cá nhân bao gồm quan hệ theo chiều ngang và quan hệ theo chiều dọc giữa
các nhân vật giao tiếp. Đỗ Hữu Châu trong cuốn giáo trình “Ngôn ngữ học đại
cương” gọi mối quan hệ theo chiều ngang là trục khoảng cách hay trục thân
cận và mối quan hệ theo chiều dọc là trục quyền uy hay trục vị thế xã hội.
Giữa hai trục quyền uy và trục thân cận có sự tương ứng tỉ lệ thuận. Khoảng
cách địa vị xã hội càng lớn thì người ta càng khó gần gũi nhau. Vị thế xã hội
cũng là yếu tố thuộc hình ảnh tinh thần mà người tham gia giao tiếp xây dựng
về nhau. Có thể thấy rõ như khi chúng ta trò chuyện với người chưa từng
quen biết, thông thường chúng ta sẽ thăm dò để xác định vị thế của người giao
tiếp và chúng ta sẽ phải dựa vào những chỉ dẫn ở bên ngoài như cách ăn mặc,
điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng cho đến bên trong như những hiểu biết, hứng
thú… mà người giao tiếp với mình để lộ ra trong quá trình giao tiếp. Bên cạnh
khái niệm về vị thế xã hội còn có khái niệm về vị thế giao tiếp, vị thế giao tiếp
cũng có mạnh yếu, người nào trong một cuộc hội thoại nắm quyền chủ động
nêu đề tài diễn ngôn, lái cuộc hội thoại theo hướng của mình, điều hành việc
nói năng của những người cùng giao tiếp với mình… thì người đó ở vị thế
giao tiếp mạnh. Vị thế giao tiếp có thể thương lượng và chuyển giao từ người
này sang người kia.

b) Hiện thực ngoài diễn ngôn:
“Trừ nhân vật giao tiếp, tất cả những yếu tố vật chất, xã hội, văn hóa…
có tính cảm tính và những nội dung tinh thần tương ứng không được nói đến
trong diễn ngôn của một cuộc giao tiếp được gọi là hiện thực ngoài diễn

10


ngôn” [5; 19]. Khi trở thành hiểu biết của những người giao tiếp và người sử
dụng ngôn ngữ thì hiện thực ngoài diễn ngôn hợp thành “tiền giả định bách
khoa” hay “tiền giả định giao tiếp của diễn ngôn”.
Nhân tố hiện thực ngoài diễn ngôn gồm 4 bộ phận:
 Hiện thực - đề tài của diễn ngôn. Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu.
Theo Đỗ Hữu Châu, có thể định nghĩa đề tài của diễn ngôn là một mảng
trong hiện thực ngoài diễn ngôn được các nhân vật giao tiếp (người nói, người
nghe) thỏa thuận lấy làm đối tượng để trao đổi trong cuộc giao tiếp đó.
Có thể thấy hiện thực - đề tài của diễn ngôn là những cái tồn tại, diễn
tiến trong hiện thực ngoài ngôn ngữ, ngoài diễn ngôn, nó cũng có thể là chính
bản thân ngôn ngữ, là các cuộc giao tiếp, các diễn ngôn đã có hay đang được
thực hiện.
 Hoàn cảnh giao tiếp rộng
Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Hoàn cảnh giao tiếp rộng bao gồm những
hiểu biết về thế giới vật lí, sinh lí, tâm lí, xã hội, con người, tôn giáo, lịch sử
các ngành khoa học, nghệ thuật…ở thời điểm và ở không gian trong đó diễn
ra cuộc giao tiếp”.
 Hoàn cảnh giao tiếp hẹp (Thoại trường)
Có thể hiểu thoại trường chính là cái không gian, thời gian cụ thể bất kì
mà cuộc giao tiếp diễn ra, không gian và thời gian đó thường xuyên biến đổi.
 Ngữ huống giao tiếp
Theo Đỗ Hữu Châu : “Những yếu tố của các nhân tố, nhân vật giao

tiếp, của hiện thực ngoài diễn ngôn thay đổi liên tục suốt trong quá trình
giao tiếp… Chúng ta nói tác động tổng hợp của các yếu tố tạo nên ngữ
cảnh ở từng thời điểm của cuộc giao tiếp là các ngữ huống của cuộc giao
tiếp.” [5; 26]

11


2. Ngôn ngữ
Tất cả các cuộc giao tiếp đều phải sử dụng một tín hiệu làm công cụ, trong
trường hợp giao tiếp bằng ngôn ngữ thì hệ thống tín hiệu là các ngôn ngữ tự
nhiên. Các phương diện sẽ chi phối diễn ngôn của ngôn ngữ tự nhiên gồm:
Kênh thính giác và kênh thị giác của ngôn ngữ: Kênh thính giác là
đường kênh cơ bản của ngôn ngữ tự nhiên, còn sau này, cùng với sự phát triển
của xã hội, ngôn ngữ có đường kênh thị giác. Từ đó mà diễn ngôn có hai dạng
thức là diễn ngôn nói và diễn ngôn viết.
Các biến thể của ngôn ngữ - biến thể chuẩn mực hóa, biến thể phương ngữ
địa lí và phương ngữ xã hội, ngữ vực và phong cách chức năng: Chính là điểu
dễ thấy trong các diễn ngôn khi mà các nhân vật giao tiếp sử dụng ngôn ngữ
không theo chuẩn, mà nó bị ảnh hưởng bởi vùng miền hay văn hóa nơi đó.
Loại thể: Là những biến thể sử dụng của các diễn ngôn. Loại thể đã khởi
động và tâm lí tiếp nhận và quy tắc thuyết giải diễn ngôn theo loại thể khi gặp
những diễn ngôn được viết theo một loại thể nào đó.
3. Diễn ngôn
Theo Đỗ Hữu Châu, diễn ngôn được hiểu: “Là lời của từng người nói ra
trong một cuộc giao tiếp. Cũng có những diễn ngôn do hai hay hơn hai nhân
vật giao tiếp xây dựng nên (như trường hợp trong một cuộc thoại tay ba, hai
người liên kết với nhau để chống lại người thứ ba).” [5, 34]
Hay cũng có thể hiểu một cách khác như bản dịch của Lã Nguyên về
định nghĩa diễn ngôn của Teun Adrianus Van Dijk trong cuốn “Các lí thuyết

diễn ngôn hiện đại”: Diễn ngôn là sự kiện giao tiếp diễn ra giữa người nói và
người nghe (người quan sát…) trong tiến trình hoạt động giao tiếp ở một ngữ
cảnh thời gian, không gian hay những ngữ cảnh khác nào đó. Hoạt động giao
tiếp này có thể thay bằng lời nói, bằng văn viết, những bộ phận hợp thành
diễn ngôn có thể bằng lời và không lời.

12


Có thể kể tới các chức năng của diễn ngôn như: Chức năng thông tin,
chức năng tạo lập quan hệ, chức năng biểu hiện, chức năng giải trí, chức năng
hành động… Các chức năng này được thực hiện đồng thời trong một cuộc
giao tiếp, trong một diễn ngôn chứ không theo lối riêng rẽ.
Chức năng thông tin cũng chính là một trong hai thành tố biểu thị nội
dung của diễn ngôn - nội dung thông tin. Thành tố còn lại chính là nội dung
liên cá nhân. Hai thành tố này có thể tồn tại một cách hàm ẩn, tức người giao
tiếp phải suy từ nội dung tường minh - nội dung qua câu chữ của diễn ngôn
mới có thể nắm bắt được nội dung đó.
1.1.2. Hội thoại và các vấn đề của hội thoại
1.1.2.1. Khái niệm hội thoại
“Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, căn bản phổ biến của
ngôn ngữ và nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”.
[5; 201]. Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ đều được giải thích dựa
vào hình thức căn bản này.
Các cuộc thoại có thể khác nhau ở:
Thứ nhất là không gian, thời gian, khả năng can thiệp của những người thứ
ba đối với cuộc thoại đang diễn ra cuộc hội thoại. Không gian ở đó có thể là nơi
công cộng như: ngoài chợ, quán ăn, cửa hiệu, hội nghị… hay cũng có thể là nơi
riêng tư như trong phòng khách giữa chủ và khách, trong phòng ngủ…
Thứ hai là ở số lượng người tham gia. Trong một cuộc thoại có thể có tới

hai, ba, bốn hay thậm chí là nhiều hơn thế nữa các nhân vật tham gia hội thoại
như ở các hội nghị, hội thảo…
Thứ ba là nói tới cương vị và tư cách của những người tham gia hội
thoại. Đó có thể là một người có vị thế giao tiếp mạnh, chủ động trong cuộc
giao tiếp hay là một người ở vị thế giao tiếp yếu… Sự khác biệt giữa các yếu
tố ấy tạo nên sự khác nhau giữa các cuộc thoại.

13


Thứ tư đó chính là các cuộc hội thoại khác nhau ở tính có đích hay
không có đích. Tức là nói tới đặc tính nội dung của cuộc hội thoại đó, có cuộc
hội thoại có nội dung nghiêm túc, có cuộc hội thoại lại nói những chuyện tào
lao, có cuộc hội thoại bày tỏ nỗi niềm riêng tư, có cuộc hội thoại lại đề cập tới
vấn đề chính trị của một quốc gia…
Và cuối cùng, các cuộc thoại có thể khác nhau về tính hình thức hay
không có hình thức. Đối với những cuộc họp, những buổi hội thảo… thì
hình thức tổ chức chặt chẽ, mang tính nghi lễ nên việc sử dụng từ ngữ bắt
buộc trang trọng, nghiêm túc hơn chứ không suồng sã, thân quen như ở
buổi họp chợ…
Chính sự khác nhau ở các cuộc hội thoại đã tạo nên tính đa dạng,
phong phú về cách thức cũng như biểu hiện về xưng hô trong giao tiếp của
con người.
Ví dụ trong đoạn hội thoại giữa Thị và chồng:
“Nhà còn gạo không?
 Làm gì mà còn gạo?
 Thế thì làm sao được?
 Muốn làm sao thì làm. (…)
 Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy?”
(Trẻ con không được ăn thịt chó - Nam Cao)

Rõ ràng trong đoạn hội thoại trên, khi ta đọc dễ thấy người thứ ba - tức
bạn của chồng Thị có mặt ở ngay đó nên “giá phải lúc khác” thì Thị đã bị anh
“cho cái tát”. Để giữ thể diện, anh chồng thay vì nói một cách trống không thì
đã thay đổi cách gọi thành “bu mày” - cách nói có chút suồng sã nhưng lại
thân mật hơn, kiểu “nịnh nọt” hơn. Bởi vậy, có thể nói rằng chính các yếu tố
tạo nên sự khác nhau giữa các cuộc thoại cũng tạo nên sự khác biệt ngay
trong cách xưng hô của con người.

14


1.1.1.2. Các quy tắc hội thoại
a. Quy tắc điều hành luân phiên lượt lời
Quy tắc luân phiên lượt lời có mục đích: Phục vụ cho sự phát triển của
vấn đề mà cuộc thoại chấp nhận làm nội dung.
Sacks và đồng các tác giả đã phát biểu quy tắc này bằng một hệ thống
những điều khoản như sau:
Thứ nhất, vai nói thường xuyên thay đổi nhau trong một cuộc thoại.
Thứ hai, mỗi lần chỉ có một người nói.
Thứ ba, lượt lời của mỗi người thường thay đổi về độ dài do đó cần có
những biện pháp để nhận biết khi nào thì một lượt lời chấm dứt.
Thứ tư, vị trí ở đó nhiều người cùng nói một lúc tuy thường gặp nhưng
không bao giờ kéo dài.
Thứ năm, thông thường lượt lời của đối tác này chuyển tiếp cho đối tác
kia diễn ra không bị ngắt quãng quá dài, cũng không bị dẫm đạp lên nhau.
Thứ sáu, trật tự nói trước, nói sau của những người nói không cố định,
luôn luôn thay đổi. [5; 219]
b. Quy tắc điều hành nội dung của hội thoại: Quy tắc điều hành nội dung
hội thoại có mục đích giúp cho hội thoại đi đúng hướng. Tác giả của nguyên
tắc này là Grice.

Quy tắc điều hành nội dung hội thoại gồm hai nguyên tắc là: nguyên tắc
cộng tác hội thoại và nguyên tắc quan yếu.
 Nguyên tắc cộng tác hội thoại
Nguyên tắc cộng tác hội thoại có dạng tổng quát như sau: “Hãy làm cho
phần đóng góp của anh chị đúng như nó được đòi hỏi ở giai đoạn mà nó xuất
hiện phù hợp với đích hay phương hướng của cuộc hội thoại mà anh chị chấp
nhận tham gia vào.” [5; 229].

15


Theo Grice, nguyên tắc này bao gồm bốn phạm trù: phạm trù lượng,
phạm trù chất, phạm trù quan hệ, phạm trù cách thức theo tinh thần các phạm
trù của nhà triết học Kant. Mỗi phạm trù đó tương ứng với một phương châm
và mỗi phương châm lại bao gồm một số tiểu phương châm.
Phương châm về lượng được phát biểu bằng hai tiểu phương châm:
Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin đúng như đòi hỏi.
Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin lớn hơn đòi hỏi.
Phương châm về chất được phát biểu bằng hai tiểu phương châm:
Đừng nói những điều mà anh tin rằng không đúng.
Đừng nói điều mà anh không có bằng chứng xác thực.
Phương châm quan hệ được phát biểu:
Hãy quan yếu.
Phương châm cách thức được phát biểu bằng bốn tiểu phương châm:
Tránh lối nói tối nghĩa.
Tránh lối nói mập mờ.
Hãy ngắn gọn, tránh dài dòng.
Hãy nói có trật tự.
[5; 230].
 Nguyên tắc quan yếu: Xuất phát từ việc các phương châm hội thoại

của Grice không giải quyết được tất cả các vấn đề của hội thoại nên nguyên
tắc này ra đời, lấp đầy những lỗ hổng trong các nguyên tắc của Grice. Tác giả
của nguyên tắc này là Wilson và Sperber.
Một phát ngôn có tính quan yếu là một phát ngôn có tác động đối với
ngữ cảnh.
Theo Wilson và Sperber, nguyên tắc quan yếu được phát biểu như sau:
“Người nói làm hết sức mình để làm cho phát ngôn càng quan yếu càng tốt.”
[5; 249].

16


Tính quan yếu của phát ngôn:
Một phát ngôn càng quan yếu khi nó càng làm giàu thêm hoặc làm thay
đổi càng nhiều hiểu biết và quan niệm của người nghe.
Tất cả các phát ngôn đều có tính quan yếu bất kể nó xuất hiện ở vị trí nào
trong cuộc hội thoại.
Cách xác định tính quan yếu của phát ngôn:
Xác định tính quan yếu của phát ngôn là nhiệm vụ của người giao tiếp.
Đối chiếu với ngữ cảnh, người nghe suy ý từ nghĩa của phát ngôn mà tìm ra
tính quan yếu của phát ngôn tiếp nhận được.
Ở trong tác phẩm “Relevance”, nguyên tắc này được phát biểu lại
thành: “Tất cả các hành vi chuyển đạt trực chỉ chuyển đạt dự ước về tính
quan yếu tối ưu của mình” . Nguyên tắc này gọi tắt là nguyên tắc quan yếu
tối ưu. [5; 250].
c. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân - phép lịch sự.
Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội,
hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Quan hệ liên cá nhân
giữa các nhân vật giao tiếp có thể xét theo hai trục: trục vị thế xã hội (địa vị,
quyền uy) và trục quan hệ khoảng cách (thân cận).

Trục vị thế xã hội có thể khác nhau do chức quyền, tuổi tác, nghề
nghiệp... mà thành. Trục khoảng cách có hai cực thân tình và xa lạ. Giữa hai
trục quyền uy và thân cận có sự tương ứng. Khoảng cách địa vị xã hội càng
cao thì người ta càng khó gần gũi nhau. Quan hệ liên cá nhân có khả năng chi
phối cả tiến trình giao tiếp, cả nội dung và hình thức của diễn ngôn. Vì vậy,
qua xưng hô mà người nhận biết người phát đã xác định quan hệ vị thế và
quan hệ thân cận giữa anh ta với mình như thế.
Theo Đỗ Hữu Châu, phép lịch sự sẽ đề cập tới các phương diện của quy
tắc chi phối quan hệ liên cá nhân, chính vì vậy có thể xem xét các quy tắc chi
phối quan hệ liên cá nhân thông qua phép lịch sự :

17


“Những người tham gia hội thoại có thể lựa chọn cách xử sự lịch sự,
tránh cục cằn, thô lỗ. Họ còn có thể lựa chọn cách xử sự tùy thích không đếm
xỉa đến tình cảm và nguyện vọng của người khác. Họ còn có thể dựa vào
những hiểu biết của mình về các quy tắc lịch sự để tỏ ra cục cằn, thô lỗ một
cách cố ý.” (Theo G.M Green)
Có ba quan điểm về lịch sự tiêu biểu mà chúng ta cần quan tâm sau: :
Quan điểm lịch sự của R. Lakoff, của G. N Leech và của P. Brown và S.
Levinson.
Ba quan điểm đó tương đối hoàn chỉnh về phép lịch sự và có những hiệu
quả nhất định đối với việc nghiên cứu lịch sự.
 R. Lakoff thể hiện quan điểm về lịch sự trong ba quy tắc:
Thứ nhất là quy tắc lịch sự quy thức, đó là quy tắc không được áp đặt.
Thứ hai phi quy thức hơn, đó là quy tắc dành cho người đối thoại sự lựa
chọn.
Thứ ba là quy tắc về phép lịch sự bạn bè hay thân tình, đó là quy tắc
khuyến khích tình cảm bạn bè.

 G. N Leech xây dựng quan điểm về lịch sự dựa trên khái niệm “lợi
ích” và “tổn thất”. Nó được thể hiện bằng các phương châm cụ thể sau:
(Trong những điều kiện khác như nhau) hãy giảm thiểu biểu hiện của
những niềm tin không lịch sự ; (trong những điều kiện khác nhau) hãy tăng tối
đa biểu hiện của những niềm tin lịch sự.
Siêu nguyên tắc này bao trùm 6 phương châm lịch sự lớn và một số
phương châm phụ khác nhau, cụ thể:
Thứ nhất là phương châm khéo léo: Ở phương châm này, G. N Leech
đưa ra hai tiểu phương châm nhỏ là “giảm thiểu tổn thất cho người” và “tăng
tối đa lợi ích cho người”.
Thứ hai là phương châm rộng rãi, ông đưa ra hai tiểu phương châm nhỏ:
“Giảm thiểu lợi ích cho ta” và “tăng tối đa tổn thất cho ta”.
18


Thứ ba là phương châm tán thưởng, gồm hai tiểu phương châm: “Giảm
thiểu sự chê bai đối với người” và “tăng tối đa khen ngợi người”.
Thứ tư là phương châm khiêm tốn gồm hai tiểu phương châm là: “Giảm
thiểu khen ngợi ta” và “tăng tối đa sự chê bai ta”.
Thứ năm là phương châm tán đồng gồm tiểu phương châm: “Giảm thiểu
sự bất đồng giữa ta và người” và “Tăng tối đa sự đồng ý giữa ta và người”
Cuối cùng là phương châm thiện cảm, được ông phát biểu qua hai tiểu
phương châm: “Giảm thiểu ác cảm giữa ta và người” và “tăng tối đa thiện
cảm giữa ta và người”.
[5; 261 - 262].
Theo Leech, mức độ lịch sự của một hành vi ở lời phụ thuộc vào ba nhân
tố: Bản chất của hành vi đó; Hình thức ngôn từ thể hiện hành vi đó; Theo mức
độ quan hệ giữa người cầu khiến và người được cầu khiến.
 Lịch sự theo lí thuyết của Brown và Levinson gồm:
 Thể diện, thể diện dương tính, thể diện âm tính.

Thể diện được Brown và Levinson định nghĩa là “Hình ảnh về ta công
cộng mà mỗi thành viên muốn mình có được” [5; 264].
Thể diện gồm hai phương diện là thể diện âm tính và thể diện dương
tính. Có thể hiểu thể diện âm tính là “mong muốn không bị can thiệp, mong
muốn được hành động tự do theo như cách mình đã lựa chọn” (Theo J.
Thomas). Còn thể diện dương tính có thể hiểu là cái “đượcphản ánh trong ý
muốn của mình được ưa thích, tán thưởng, tôn trọng, đánh giá cao” (J.
Thomas) hay là “sự thỏa mãn khi một giá trị của mình được tán thưởng” (G.
M. Green).
Lịch sự được định nghĩa lại theo khái niệm thể diện: “Lịch sự trong
tương tác có thể được xác định là những phương thức được dùng để tỏ ra
rằng thể diện của người đối thoại với mình được thừa nhận và tôn trọng.”
[5; tr.267].
19


×