Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án từ thực tiễn tại tòa án nhân dân tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 110 trang )

NGUYỄN THỊ MINH HỒNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

THỦ TỤC HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG
TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH

NGUYỄN THỊ MINH HỒNG

2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

THỦ TỤC HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN TỪ THỰC
TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH

NGUYỄN THỊ MINH HỒNG



CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN TRUNG TÍN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình” là công
trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong
luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên
cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và
phù hợp với thực tiễn.
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Hồng


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành Luận văn này, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng
dưới sự tận tình hướng dẫn, động viên của thầy giáo PGS. TS Nguyễn Trung Tín.
Tận đáy lòng mình, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo PGS. TS
Nguyễn Trung Tín. Chính sự động viên, sự thông cảm và nhiệt tình giúp đỡ của thầy
đã tiếp sức cho em rất nhiều trong suốt thời gian qua.
Trong suốt thời gian học tập tại trường Viện Đại học Mở Hà Nội, dưới sự truyền đạt,
chỉ bảo nhiệt tình của các giảng viên trong trường, em đã học được rất nhiều kiến

thức và kinh nghiệm quý báu. Những kiến thức và kinh nghiệm này sẽ trở thành
những hành trang kiến thức giúp em vững vàng và kiên định hơn nữa trên con đường
mà mình đã chọn. Cho phép em được gửi tới các thầy cô giáo trong trường Viện Đại
học Mở Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô trong Khoa đào tạo Sau đại học lời cảm ơn
chân thành nhất.
Em cũng mong muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, nhất là các cô, chú, anh,
chị đồng nghiệp tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình đã tạo điều kiện cho em trong
quá trình học cũng như trong quá trình hoàn thành Luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Học viên

Nguyễn Thị Minh Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………..……………………….1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài…………………………………………..1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………………………...3
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài………………………………….3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn……………………………………4
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài…………………………………………………….4
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn…………………………………...5
7. Kết cấu của luận văn……………………………………………………………….6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA
ÁN………………………………………………………………………………….…7
1.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại………...7
1.1.1.


Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại ……………...…………...7

1.1.2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại…………………………..….8
1.1.3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại …………..10
1.1.4. Đặc điểm của phương thức hòa giải ……………………………………..….12
1.1.5. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án…………..…12
1.2. Sự hình thành và phát triển của chế định hòa giải tranh chấp kinh doanh, thương
mại bằng Tòa án……………………………………………………………………..16
1.2.3.

Giai đoạn từ 1945 đến 1989……………………………………………. 16

1.2.3.

Giai đoạn từ 1989 đến 2005………………………………………………. 18

1.2.3.

Giai đoạn từ 2005 đến nay …………………………………...……………18

1.3. Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án
……………………………………………………………………………………….19
1.4. Các nguyên tắc của hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng Tòa án …………………………………………………………………………21
1.4.1. Tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp ………….………..22
1.4.2. Việc hòa giải các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án phải bảo
đảm tính khách quan, công bằng, hợp lý, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm


của luật, không trái đạo đức xã hội và không trái các tập quán thương mại quốc tế

………………………………………………………………………………………………23
1.4.3. Bảo vệ uy tín, bí mật, bí quyết kinh doanh của các bên tranh chấp trong
quá trình hòa giải ………………….………………………………………………………..24
1.4.4. Quyết định của Tòa án công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự có giá
trị chung thẩm, các bên có nghĩa vụ thi hành ……………………………………………24
1.5. Kinh nghiệm nước ngoài về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ
tục hòa giải bằng Tòa án ………………………………………………………...25
1.5.1. Hòa giải theo pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản …………………………25
1.5.2. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Trung Quốc …………………….26
1.5.3. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Pháp ……………………………..27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 …………………………………………...………………29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN ……………...30
2.1. Phạm vi hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án
……………………………………………………………………………………….30
2.1.1. Những vụ án kinh doanh thương mại phải tiến hành hòa giải ………...30
2.1.2. Những vụ án kinh doanh thương mại không được hòa giải ……………31
2.1.3. Những vụ án kinh doanh thương mại không tiến hành hòa giải được... 32
2.6. Pháp luật về chủ thể trong hòa giải giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng Tòa án …………………………………………………………………………33
2.2.1. Về chủ thể tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải trong giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại
bằng Tòa án ………………………………………………………………………………..34
2.2.2. Về chủ thể tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải trong giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
Tòa án……………………………………………………………………………….. 36
2.6. Nội dung của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải ……………………………………………………………………………...38
2.6. Điều kiện hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án ……………39
2.6.


Phương pháp hòa giải tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án…….42
2.6.1.

Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử áp dụng phương pháp phân tích, gợi

mở, khai thác các yếu tố tâm lý, tình cảm của các bên………………………….. 42
2.6.2.

Thái độ của Thẩm phán phải mềm mỏng, linh hoạt: …………………..43


2.6.3.

Nếu các đương sự không tự đưa ra được các phương thức giải quyết

tranh chấp, Thẩm phán sẽ đưa ra một số phương án giải quyết tranh chấp cho
các bên lựa chọn ………………………………………………………………………43
2.6.4.

Thẩm phán hòa giải cần phải thực hiện tốt tôn chỉ “thấu lý, đạt

tình”……………………………………………………………………………………..43
2.6.5.

Thẩm phán tạo điều kiện thuận lợi cho các bên đang tranh chấp trực

tiếp gặp nhau và thể hiện quan điểm, nguyện vọng của mình ……………….…..44
2.6.


Thủ tục hòa giải các tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án……... 44
2.6.1.

Thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm……………. 45

2.6.2.

Thủ tục hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm …………………………………..58

2.6.3.

Thủ tục hòa giải tại cấp phúc thẩm ………………………………………60

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 …………………………………………………………...63
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỈNH NINH BÌNH VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THỦ TỤC HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN ……………………………………..64
3.2.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh doanh, thương

mại tại TAND tỉnh Ninh Bình ………………………………………………64
3.2.1.

Kết quả đạt được trong hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh doanh,

thương mại tại TAND tỉnh Ninh Bình ………………………………………………64
3.2.2.


Tồn tại, hạn chế trong hoạt động hòa giải các tranh chấp kinh doanh,

thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình ………………………………….67
3.2.

Phương hướng hoàn thiện các quy định về hòa giải tranh chấp kinh doanh

thương mại bằng Tòa án …………………………………………………………….83
3.2.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh

chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án …………………………………………83
3.2.2.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp kinh doanh,

thương mại bằng Tòa án ……………………………………………………………..84
3.2.3.

Kiến nghị một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật hòa giải

tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án ở Việt Nam………………….. 85
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3…………………………………………………………...
92
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………..94


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

PLTTGQCVADS Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế
TAND

Tòa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ninh Bình là tỉnh nằm ở cực Nam của Đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội
93 km về phía Nam, phía Bắc giáp với tỉnh Hà Nam, dãy núi Tam Điệp chạy theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam, làm ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh
Bình, phía Đông giáp với tỉnh Nam Định, phía Tây giáp với tỉnh Hòa Bình và một
phần phía Đông Nam của Ninh Bình giáp với Biển Đông. Trong những năm vừa qua,
từ một tỉnh còn nhiều khó khăn sau khi tái lập, Ninh Bình đã từng bước phát triển lớn
mạnh với sự đầu tư phát triển đồng đều về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội... Trong

những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, Nền
kinh tế của tỉnh Ninh Bình đã có những bước phát triển vượt bậc, tạo bước đột phá về
chuyển dịch cơ cấu kinh tếvới sự phát triển vượt bậc của các ngành công nghiệp và
ngành dịch vụ, văn hóa - xã hội phát triển; đời sống nhân dân ngày càng được nâng
cao, giảm thiểu các tệ nạn xã hội; quốc phòng được tăng cường, an ninh chính trị vững
chắc, trật tự an toàn xã hội luôn được đảm bảo. Sự phát triển kinh tế của tỉnh Ninh
Bình trong những năm gần đây kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các mô hình doanh
nghiệp với quy mô khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, vì
nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, giữa các nhà kinh doanh cũng có khi
phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi và tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Nhà nước,
xã hội nhất là các doanh nghiệp luôn luôn có một đòi hỏi bức xúc là những tranh chấp
kinh doanh, thương mại này phải được giải quyết một cách nhanh gọn, có hiệu quả và
ít tốn kém.
Thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại, như: thương lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục trọng tài, giải quyết
theo thủ tục tư pháp. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp theo phương thức hòa giải
bằng Tòa án có nhiều ưu điểm và được áp dụng phổ biến trên thế giới. Nó không
những góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đang có
tranh chấp kinh doanh, thương mại, của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến tranh chấp mà còn bảo đảm cả lợi ích của Nhà nước và của xã hội. Hòa giải thành
1


có tác dụng làm cho các bên tranh chấp tự nguyện, tự giác thi hành quyết định công
nhận sự thỏa thuận của họ, tránh việc phải sử dụng những biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước trong quá trình thi hành án. Đồng thời, vụ việc tranh chấp cũng không phải
xử đi xử lại nhiều lần, giảm bớt tốn kém về nhiều mặt của các bên.
Kết quả của việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình cho thấy từ khi
được thành lập đến nay, đã đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Tòa Kinh tế đã vận

dụng rộng rãi phương thức hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại giảm đáng kể số vụ tranh chấp phải đưa ra xét xử.
Tuy nhiên, trong quá trình hòa giải tranh chấp kinh doanh, thương mại Tòa án
nhân dân tỉnh Ninh Bình còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện thủ tục hòa giải. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày
01/7/2016 quy định về thủ tục hòa giải vụ án dân sự nói chung và án kinh doanh,
thương mại nói riêng đã đạt được những kết quả, hiệu quả đáng ghi nhận, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, quá trình triển
khai thực hiện còn một số quy định còn chưa đầy đủ, cụ thể, phù hợp, gây khó khăn
trong quá trình thực thi pháp luật về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại Tòa án.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện về mặt lý luận cũng như
thực tiễn về thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng
Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại không những mang tính thời sự đối với ngành Tòa án mà còn đáp ứng
những đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật tố tụng của Tòa án ở Việt Nam. Sau khi nghiên cứu các quy định của Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2015, luận văn đã mạnh dạn nêu ra một số đánh giá, nhận xét và
đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thủ tục hòa giải trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án được quy định trong Bộ luật
tố tụng Dân sự 2015.
Trên cơ sở đó, học viên đã chọn vấn đề “Thủ tục hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân
tỉnh Ninh Bình” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy thủ tục hòa giải là một hoạt động quan trọng trong giải quyết các vụ án
kinh doanh, thương mại tại Tòa án, nhưng từ trước đến nay, khoa học pháp lý ở Việt

Nam còn có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập chế định hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án là: Giáo trình Luật Kinh tế (2015) của
Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam (2015) của Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài "Các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế
ở Việt Nam" thuộc Dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp; Luận văn thạc sĩ của Đào Văn
Hội (1996) về đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án", Luận văn tiến sĩ của
Đào Thị Xuân Lan với đề tài "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở
Việt Nam" năm 2004.
Tuy vậy, tất cả những công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận chế định hòa giải
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án từ góc độ trước khi Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực nên chưa nghiên cứu đến thủ tục hòa giải này một
cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống theo quy định của pháp luật hiện hành. Các
công trình đó cũng chưa có những đề xuất, kiến nghị một cách tổng thể, đầy đủ và cụ
thể về việc hoàn thiện thủ tục hòa giải trong pháp luật tố tụng kinh tế ở Việt Nam theo
quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu chế định hòa giải trong thủ
tục giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nói chung và tại Tòa
án nhân dân tỉnh Ninh Bình nói riêng một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả về lý
luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc hòa giải, tránh để xảy ra những sai
lầm, thiếu sót trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
và làm phong phú thêm lý luận về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về
hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án từ thực
tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình.
3



Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thủ tục hòa giải trong giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình;
- Phân tích thực trạng pháp luật về thủ tục hòa giải trong giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh
Bình;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục hòa giải trong
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án
nhân dân tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan hệ về thủ tục hòa giải trong
việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án.
Phạm vi nghiên cứu là các quan hệ về thủ tục hòa giải trong giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, cũng sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa,
so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp lịch sử đã được tác giả sử dụng để làm rõ quá trình hình thành
và phát triển của chế định hòa giải trong pháp luật nước ta; phương pháp mô hình hóa
cũng được tác giả luận văn sử dụng để trình bày phương thức giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng thủ tục hòa giải tại Tòa án.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích, đánh giá các nguồn tài liệu
phản ánh về lý luận chung của thủ tục hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại bằng Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

4


Trên cơ sở đó tổng hợp các vấn đề đã phân tích, đánh giá thành một chỉnh thể để tạo
ra một hệ thống lý luận đầy đủ, hoàn chỉnh về thủ tục hòa giải trong việc giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án.
+ Phương pháp đàm thoại: Tổ chức trao đổi với các Thẩm phán, Thư ký Tòa
án về các vấn đề liên quan đến thực trạng thủ tục hòa giải trong việc giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Trên cơ sở đó đánh giá, tổng kết thực trạng thủ tục hòa giải trong việc giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình.
+ Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp số liệu liên quan đến thủ tục hòa
giải, những tranh chấp kinh doanh, thương mại hòa giải thành được Tòa án ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập thông tin thông qua đọc, nghiên
cứu tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở cho
lý luận của đề tài, hình thành giả thuyết khoa học, nhằm xây dựng những mô hình lý
thuyết chung nhất. Đồng thời còn thu thập thông tin, số liệu thực tiễn về thủ tục hòa
giải tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh
Bình, để có cái nhìn khách quan, toàn diện về thực trạng cũng như đề ra giải pháp
nâng cao hiệu quả thủ tục hòa giải tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Có thể nói, luận văn này là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ thạc sỹ đầu
tiên ở nước ta đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về thủ tục
hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án từ thực
tiễn tỉnh Ninh Bình theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn là:
- Luận giải những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh

doanh, thương mại bằng Tòa án ở Việt Nam.

- Làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục hòa giải tại Tòa án.
- Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nước

ta về thủ tục hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án.
5


Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án cũng như trong việc giảng dạy, nghiên cứu về thủ tục hòa giải các tranh chấp kinh
doanh, thương mại theo thủ tục tư pháp ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại bằng Tòa án;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại bằng Tòa án;
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục hòa giải tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình và phương hướng hoàn thiện
pháp luật về thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng
Tòa án.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC HÒA GIẢI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,

THƯƠNG MẠI BẰNG TÒA ÁN
1.1.

Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại

1.1.2. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại

Tranh chấp, theo Từ điển Tiếng Việt (1992), là sự tranh đấu, giằng co khi có ý
kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên [75, tr.135].
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta được diễn ra trong bối cảnh sự
phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng
chưa từng có để từng bước khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị
trường thế giới. Phụ thuộc vào các đặc trưng của từng chủ thể kinh tế ở từng giai đoạn
phát triển mà nội hàm, phạm vi của khái niệm tranh chấp kinh tế cũng rất khác nhau.
Tranh chấp kinh tế là một khái niệm kinh tế - pháp lý. Tuy còn nhiều ý kiến
khác nhau, song đa số các nhà khoa học đều thống nhất rằng, tranh chấp kinh tế được
hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong
Luật thương mại ngày 10/5/1997 [51, tr.9]. Theo luật này thì tranh chấp thương mại là
tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng
trong hoạt động thương mại (Điều 238). Ngoài ra, khái niệm “hoạt động thương mại”
theo quy định của Luật Thương mại lại có nội hàm rất hẹp so với quan niệm phổ biến
của các nước trên thế giới về thương mại. Quan niệm này đã loại bỏ nhiều tranh chấp
không được coi là tranh chấp thương mại, mặc dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi
các tranh chấp đó là tranh chấp thương mại trong ngữ cảnh đương đại.
Luật thương mại 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 định nghĩa
khái niệm hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác (khoản 1 Điều 3) [52, tr.8]. Quan niệm về hoạt động thương

mại theo đó cũng đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi.
7


Hướng tiếp cận này cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã được mở rộng
tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật
Doanh nghiệp năm 2005 và nay là Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định về tranh chấp kinh doanh, thương
mại với các nội dung liệt kê thì tranh chấp về kinh doanh, thương mại thực chấp là
tranh chấp về thương mại. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không sử dụng thuật ngữ
“tranh chấp thương mại” mà sữ dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương
mại”, nhưng nội dung của các tranh chấp thương mại đó thực chất là các tranh chấp
thương mại theo hướng tiếp cận của Luật thương mại năm 2005.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về tranh chấp kinh doanh, thương mại, song từ
góc độ pháp lý, có thể định nghĩa tranh chấp kinh doanh, thương mại như sau: Tranh
chấp kinh doanh, thương mại là sự bất đồng quan điểm giữa các bên về việc một hoặc
một số bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà mình cam kết
trong hoạt động kinh doanh, thương mại gây thiệt hại tới lợi ích chính đáng của một
hoặc một số bên khác.
1.1.2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo Từ điển tiếng Việt (1992) thì Giải quyết tranh chấp có nghĩa là làm cho
các xung đột, bất đồng không còn thành vấn đề nữa [74, tr.255]. Thông thường, khi
xảy ra tranh chấp, các chủ thể có thể lựa chọn, sử dụng một hoặc một số phương thức
phù hợp để giải quyết tranh chấp của mình.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, tính đa dạng và phức tạp trong các quan hệ
kinh doanh, thương mại và dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, tranh chấp kinh
doanh, thương mại do vậy cũng trở nên phong phú hơn về nội dung, chủng loại, gay
gắt, phức tạp hơn về tính chất, quy mô xuất phát từ lợi nhuận của các bên và sự hấp
dẫn của nền kinh tế. Chính vì vậy việc áp dụng các hình thức và phương thức giải
quyết tranh chấp cho phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan hết sức quan

trọng và cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh,
đảm bảo nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo môi trường pháp lý lành
mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế các bên có
tranh chấp kinh doanh, thương mại không chỉ dùng một phương thức mà thường dùng
kết hợp một vài phương thức để giải quyết tranh chấp. Việc kết hợp này phải đáp ứng
8


yêu cầu là vừa giữ được những nguyên tắc đặc thù của mỗi phương thức, đồng thời
bảo đảm tác dụng, nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp.
Như vậy, Giải quyết tranh chấp thương mại theo nghĩa chung nhất có thể được
hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các
xung đột nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác, bảo vệ trật tự
kỷ cương của xã hội.
Tùy thuộc vào trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội và do những
ảnh hưởng của những đặc điểm về phong tục, tập quán, cơ chế giải quyết tranh chấp
thương mại được pháp luật của mỗi quốc gia được quy định không giống nhau. Tuy
nhiên xuất phát từ đặc trưng riêng của hoạt động kinh doanh và nhu cầu điều chỉnh của
pháp luật, việc giải quyết tranh chấp thương mại có thể bằng các phương thức khác
nhau. Điều 317 Luật Thương mại năm 2005 quy định các hình thức giải quyết tranh
chấp gồm: Thương lượng giữa các bên; Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải; Giải quyết tại
Trọng tài hoặc Toà án. Mỗi phương thức đều có những đặc trưng riêng, được thực
hiện thông qua các nguyên tắc, hình thức và thủ tục riêng, tạo nên những ưu điểm và
hạn chế của mình. Việc lựa chọn phương pháp thích hợp cần được cân nhắc dựa trên
hàng loạt vấn đề: mục tiêu cụ thể cần đạt được, bản chất của tranh chấp, mối quan hệ
kinh doanh giữa các bên, chi phí, thời gian cần bỏ ra để giải quyết tranh chấp. Tuy
nhiên, tất cả các phương thức giải quyết tranh chấp đều có chung mục đích là bằng
việc loại bỏ các bất đồng, xung đột phát sinh để khôi phục, bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên đã bị xâm phạm, để duy trì và phát triển các quan hệ kinh doanh
vốn có giữa các bên, để góp phần tạo lập và ổn định môi trường pháp luật lành mạnh
cho các hoạt động kinh tế.
Trong thời kỳ phát triển kinh tế toàn cầu, tranh chấp thương mại ngày càng
nhiều, trở thành một phần tất yếu trong quan hệ thương mại. Việc giải quyết tranh
chấp thương mại có vai trò rất lớn trong việc bảo đảm quyền lợi giữa các bên tham gia,
góp phần tạo dựng môi trường kinh doanh văn minh, lành mạnh. Vì vậy, giải quyết
tranh chấp thương mại nhanh gọn, hiệu quả, ít tốn kém có ý nghĩa quan trọng đối với
các quốc gia, nhất là đối với Việt Nam, một nền kinh tế đang phát triển.
9


1.1.3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo Từ điển Tiếng Việt thì Hòa giải là“thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt
xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [74, tr.430]. Khái niệm này đề cập đến
hành động và mục đích của hòa giải nhưng chưa nêu được các yếu tố như bản chất, nội
dung và chủ thể của hòa giải.
Trong Từ điển pháp lý của Rothenberg, hòa giải (reconciliation) là“hành vi thỏa
hiệp giữa các bên sau khi cỏ tranh chấp, mỗi bên nhượng bộ một tí” [78, tr.410]. Còn
Từ điển luật học của Black cho rằng, hòa giải là “sự can thiệp; sự làm trung gian hòa
giải; hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết
phục dàn xếp hoặc tranh chấp giữa họ”[5, tr.152]. Định nghĩa của Rothenberg đã nêu
được bản chất của hòa giải nhưng chưa nêu được hành vi, vai trò trung gian của bên
thứ ba trong hòa giải. Điều này đã được khắc phục trong Từ điển luật học của Black.
Cả ba khái niệm nêu trên cho thấy hòa giải có ba yếu tố. Thứ nhất là phải có
tranh chấp giữa hai bên. Thứ hai là có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết
tranh chấp thông qua việc mỗi bên nhượng bộ một ít. Thứ ba là trong quá trình hòa
giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để cho ý kiến tư vấn đồng thời công
nhận thủ tục hòa giải thành giữa các bên trong tranh chấp. Nếu không có sự tham gia
của bên thứ ba thì quá trình này không gọi là hòa giải mà là thương lượng giữa các

bên. Trong tố tụng dân sự bên thứ ba này chính là Thẩm phán - đại diện cho Tòa án.
Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hòa giải. Có
quan điểm cho rằng “Hòa giải là quá trình giải quyết những tranh chấp, bất đồng giữa
các bên. Trong quá trình hòa giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung lập, làm trung
gian giúp các bên tranh chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa
thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện
những thỏa thuận đó” [67, tr.10].
Có quan điếm cho rằng: “Hòa giải là một biện pháp giải quyết các tranh chấp,
theo đó, với sự giúp đỡ của một bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian, các bên
tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội” [66, tr.14].
Khái niệm này được nhiều người thừa nhận hơn cả, bởi đã thể hiện được bản
chất, đặc điểm của hòa giải và vai trò của bên trung gian thứ ba trong hòa giải: Hòa
10


giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp; chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung
gian giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp; sự
thỏa thuận về giải quyết tranh chấp do chính các bên tranh chấp quyết định.
Như vậy, xem xét ở mức độ chung nhất thì “Hòa giải là biện pháp giải quyết
tranh chấp, mà theo đó các bên trong quá trình thương lượng có sự tham gia của bên
thứ ba độc lập làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải
pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt các tranh chấp, bất hòa”.
[39,tr.42]
Hiện nay trên thế giới có ba dạng hòa giải được áp dụng là:
- Dạng hòa giải thông thường: Dạng hoà giải này được áp dụng để giải quyết
các tranh chấp về hợp đồng hoặc các quan hệ pháp lý khác mà trong đó các bên thể
hiện nguyện vọng giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp ngoài tố tụng tư pháp,
trong đó các bên cùng thoả thuận về trình tự và thủ tục hòa giải; chọn nhà hòa giải.
Cách thức hòa giải này được thực hiện chủ yếu ở nước ta hiện nay.

- Dạng hoà giải được quy định trong Bản Quy chế hoà giải của UNCITRAL
1980. Bản Quy chế này xác định người hoà giải, vai trò của người hoà giải và quá
trình tiến hành hoà giải. Hoà giải này được áp dụng để giải quyết các tranh chấp về
hợp đồng hoặc các quan hệ pháp lý khác mà trong đó các bên thể hiện nguyện vọng
giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp ngoài tố tụng tư pháp. Trong đó các bên
cần thoả thuận về việc chọn Quy chế hoà giải của UNCITRAL với một số ngoại lệ xác
định.
- Các dạng hoà giải không cơ bản: Mini-Trial và med-arb
Mini-Trial được áp dụng trong thực tiễn hoạt động của các luật gia Mỹ. Dạng
hoà giải này được thực hiện theo phương thức: trong trường hợp xuất hiện tranh chấp
giữa các bên về giải thích nội dung hợp đồng, tiến hành cuôc gặp gỡ giữa các luật sư
của các bên, các chuyên gia mà họ lựa chọn với sự có mặt của các cố vấn của các giám
đốc để đạt được thoả thuận làm thoả mãn cả hai bên. Các luật sư này không thể đưa ra
bất kỳ ý kiến gì nhân danh các thân chủ của mình, mà đơn giản chỉ yêu cầu sự giải
quyết quan điểm từ góc độ pháp lý của phía bên kia, đưa ra đề xuất về một số nhượng
bộ, song không được đụng chạm tới lợi ích của bên mà họ đại diện.
11


Dạng hoà giải không cơ bản thứ hai là dạng mà người ta gọi là med-arb. Đây là
dạng hoà giải kết hợp hai phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng: hoà giải
truyền thống và trọng tài. Dạng hoà giải được tiến hành trong bối cảnh các bên tranh
chấp không chấp nhận đề nghị tranh chấp như nhà hoà giải đề xuất. Điểm đặc biệt của
dạng hoà giải này thể hiện ở chỗ trọng tài sẽ tự động thông qua quyết định thay thế
cho phương thức hoà giải không thành và vai trò của trọng tài được thể hiện bởi chính
nhà hoà giải.
1.1.4. Đặc điểm của phương thức hòa giải
Qua các dạng hoà giải như trên, có thể rút ra một số đặc điểm của phương thức
hòa giải như sau:
Thứ nhất, hoà giải có tính chất tự nguyện của các bên. Tính tự nguyện này thể

hiện từ khi lựa chọn phương thức tới việc tiến hành phương thức và, cuối cùng, thừa
nhận kết quả của nó;
Thứ hai, hoà giải mang tính chất ôn hòa. Tính chất này thể hiện ở chỗ trong quá
trình hoà giải các bên không coi nhau như là các bên tranh chấp quyền lợi với mình
mà coi nhau là những người có cùng chí hướng để tìm ra sự thật nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của cả hai bên;
Thứ ba, quyết định của người hoà giải không có ý nghĩa bắt buộc với các bên
mà nó chỉ có ý nghĩa khi các bên chấp thuận một cách tự nguyện. Do vậy để đưa ra
quyết định, người hoà giải cần phải trao đổi quan điểm với các bên một cách thấu đáo
và chỉ đưa ra quyết định khi chắc chắn rằng nó sẽ được các bên chấp thuận (ít ra là
điều đó được thể hiện ra qua các cuộc trao đổi quan điểm giữa nhà hoà giải với các
bên và từng bên).
Khác với con đường trọng tài, hoà giải có sự khác biệt ở chỗ thoả thuận hoà
giải và quyết định của nhà hoà giải không có ý nghĩa bắt buộc với các bên. Như đã nêu
trên, ý chí tự nguyện của các bên có vai trò quyết định trong suốt quá trình hoà giải
(đối với trọng tài ý chí tự nguyện của các bên đóng vai trò quan trọng chỉ trong giai
đoạn đầu).
1.1.5. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án
Những tranh chấp, mâu thuẫn trong hợp đồng thương mại có tác động không
nhỏ đến doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp sẽ ảnh hưởng tới sự chiến lược hoặc sự
12


tồn tại của doanh nghiệp, đòi hỏi phải được xử lý khoa học, hợp lý, hợp tình. Có
những biện pháp giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại như hòa giải, thương
lượng, Trọng tài, Tòa án,… nhưng biện pháp giải quyết tại Tòa án vẫn thường được
nhắc đến nhiều nhất và mang lại hiệu quả triệt để nhất và việc thiết lập điều khoản về
giải quyết tranh chấp trong hợp đồng giúp các bên tham gia hợp đồng đảm bảo quyền
lợi tốt nhất.
Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan xét xử của nhà nước thực

hiện thông qua hoạt động của Thẩm phán theo một thủ tục pháp lý chặt chẽ, nhằm ra
một bản án hay quyết định về vụ tranh chấp và có giá trị bắt buộc các bên phải thi
hành. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại, Tòa án phải
tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật đã quy định, cụ thể đó là những
nguyên tắc cơ bản; trình tự, thủ tục khởi kiện; trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc tại
Tòa án, thi hành bản án, quyết định của Tòa án; quyền và nghĩa vụ của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của những cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan,… Ở hầu hết các quốc gia, cùng với việc ban hành những đạo luật
về nội dung, Nhà nước cũng ban hành những quy định về thủ tục tố tụng để Tòa án
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Như vậy, tố tụng Tòa án chính là
trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để giải quyết các tranh chấp kinh doanh bằng
Tòa án.
Thực tiễn pháp luật tố tụng của các nước cho thấy, tố tụng Tòa án đều có chung
một số đặc điểm cơ bản sau:
- Thủ tục tố tụng Tòa án áp dụng cho các tranh chấp trong kinh doanh, thương
mại được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một số quy định đặc thù
cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, thương mại, chẳng hạn như: về Hội đồng xét
xử, về thời gian của các trình tự tố tụng, … Do vậy, ở các quốc gia này không hình
thành luật tố tụng riêng cho các tranh chấp trong kinh doanh mà chỉ có luật về tố tụng
dân sự.
Ví dụ: Ở Cộng hoà Liên bang Đức, Luật tố tụng đối với các vụ án dân sự và
thương mại được quy định thống nhất trong Bộ luật Tố tụng dân sự; ở Pháp, Anh và
Mỹ các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
đều được áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự.
13


- Tố tụng Tòa án là thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án - một
cơ quan Nhà nước, hoạt động xét xử của nó mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và đóng vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật.

- Phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành và thủ tục giải quyết của Tòa
án rất chặt chẽ, rất phức tạp và không thể thay đổi được. Phán quyết của Tòa án có thể
bị kháng cáo, kháng nghị hoặc được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Trong tố tụng Tòa án, các phiên tòa xét xử thường được tổ chức công khai,
bản án được công bố rộng rãi.
Có thể thấy, giải quyết tranh chấp tại Tòa án là các hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại phổ biến ở các nước trên thế giới. So với các hình thức giải quyết
tranh chấp thương mại khác, giải quyết tranh chấp thương mại tại Toà án có một số ưu
điểm và một số hạn chế sau:
* Về ưu điểm
+ Việc dựa vào cơ quan tài phán là Toà án kinh tế để giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại có những ưu điểm nhất định. Toà án là cơ quan nhân danh nhà
nước để giải quyết tranh chấp, do đó phán quyết của Toà án được đảm bảo thi hành
bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan chuyên
trách để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đặc điểm này là một trong
những yếu tố làm các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tại Toà
án.
+ Khi giải quyết tranh chấp tại Toà án, việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét
xử, bảo đảm cho quyết định của Toà án được chính xác, công bằng, khách quan và
đúng với pháp luật.
+ Ngoài ra, thẩm quyền giải quyết của Toà án được mở rộng đến tất cả các
ngành kinh tế. Do đó, khi xảy ra tranh chấp các bên đều đến Toà án như là nơi bao
quát giải quyết mọi vấn đề.
+ Chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án
thấp hơn rất nhiều so với việc giải quyết tại các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng
tài quốc tế.

14



* Về hạn chế: Tòa án là cơ quan tài phán có sức mạnh cưỡng chế giúp các bên
có thể giải quyết tranh chấp một cách triệt để, tuy nhiên phương thức giải quyết tranh
chấp này cũng bộc lộ ra nhiều hạn chế:
+ Khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Toà án, các bên phải
nắm rõ được bản chất, vì việc giải quyết tranh chấp của Toà án phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng và đặc điểm này có thể
gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của hoạt động kinh doanh, thương mại
đòi hỏi thủ tục phải linh hoạt và mềm dẻo.
+ Một điều bất lợi nữa của Toà án, đó là nguyên tắc xét xử công khai. Điều này
xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp chế và duy trì công lý đã
được pháp luật quy định, xã hội thừa nhận. Mặt khác, hoạt động xét xử công khai của
Toà án còn có tác dụng răn đe, cảnh cáo những hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, để giữ bí mật nhà nước hoặc bí mật nghề nghiệp theo yêu
cầu chính đáng của đương sư, Toà án có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai.
Điều đó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, uy tín, bí mật kinh doanh của các
bên tranh chấp.
+ Nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của Toà án là chính
xác, công bằng. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng sẽ khiến cho vụ việc có thể bị kéo
dài, xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự, nhất là những tranh chấp kinh tế
có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Việc kéo dài vụ việc sẽ
gây căng thẳng tâm lý, làm mất thời giờ, tiền bạc, các cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế, có trường
hợp không thể hiện được hết nguyện vọng của các bên tranh chấp.
+ Thông thường, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Toà án
được lựa chọn khi việc áp dụng cơ chế thương lượng hoặc hoà giải không có hiệu quả
và các bên tranh chấp không có thoả thuận giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
Từ phân tích ở trên có thể thấy hòa giải và tố tụng tư pháp tại Tòa án đều là các
phương thức độc lập mà các chủ thể kinh tế có thể lựa chọn để giải quyết tranh chấp
phát sinh trong quan hệ kinh doanh, thương mại giữa họ. Nhưng khi nói đến hòa giải

15


trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Tòa án tức là đã đề cập đến
việc sử dụng kết hợp cả hai phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại, trong đó phương thức "nền" là tố tụng tư pháp, còn hòa giải được "tích hợp" vào
quá trình tố tụng tư pháp.
Trong tranh chấp thương mại, việc hòa giải là rất quan trọng. Bởi lẽ: các bên
thường có quan hệ thương mại với nhau trước, trong và sau tranh chấp; các bên đều
mong muốn nhanh chóng giải quyết tranh chấp. Do vậy, pháp luật các quốc gia thường
quy định thủ tục hòa giải là thủ tục bắt buộc của quá trình giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Hòa giải với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại khác với hòa giải với tính chất là một thủ tục tố tụng tại Tòa án trong việc
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Như vậy, có thể hiểu hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại bằng Tòa án là cách thức tích hợp hòa giải vào tố tụng tư pháp với vai trò của Tòa
án là người trung gian thứ ba giúp đề xuất các cách giải quyết thân thiện để hai bên tự
thỏa thuận, đồng thời công nhận giá trị pháp lý và bảo đảm thi hành bằng sức mạnh
của Nhà nước kết quả thỏa thuận của các bên.
1.2. Sự hình thành và phát triển của chế định hòa giải tranh chấp kinh doanh,
thương mại bằng Tòa án
Với tính chất là một phương pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại, hòa giải ngoài tố tụng có lịch sử hình thành và phát triển sớm hơn rất nhiều so với
phương pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo thủ tục trọng tài hoặc
theo thủ tục tư pháp.
1.2.3. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Trong thời kỳ này do chưa thể xây dựng ngay được các văn bản pháp luật mới
nên Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời quy định: Cho đến khi
xây dựng được bộ luật mới thì những luật lệ cũ vẫn tạm thời được sử dụng nếu không
trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa. Như vậy, trong

giai đoạn này, vấn đề hòa giải vẫn áp dụng theo các quy định của chế độ cũ.
Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải là Sắc lệnh số 13 ngày
21/1/1946 của Chủ tịch nước về tổ chức Tòa án, trong đó quy định “Ban tư pháp xã có
16


quyền hòa giải tất cả các việc dân sự và thương mại. Nếu hòa giải được Ban tư pháp
xã có thể lập biên bản hòa giải có các ủy viên và những đương sự ký" [10].
Điều 4 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hòa quy định rằng biên bản hòa giải thành chỉ có hiệu lực tư chứng thư.
Tại Điều 12 sắc lệnh số 51/SL quy định “những việc kiện dân sự và thương mại thuộc
thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp đều phải giao trước về ông Thẩm phán sơ cấp thử
hòa giải”[11].
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Thông tư số 1080 ngày 25/9/1961
đã quy định Tòa án nhân dân huyện ngoài nhiệm vụ hòa giải thì còn có nhiệm vụ xây
dựng và hướng dẫn các tư pháp xã thực hiện hòa giải, dàn xếp các đương sự và nhân
dân” [49].
Có thể thấy rằng, trong giai đoạn này thành tựu đạt được là hòa giải đã được coi
là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Nhưng do đất nước
trong tình trạng chiến tranh, chế định hòa giải chưa có điều kiện hoàn thiện nên vẫn
còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, bất cập lớn nhất là Tòa án chỉ lập biên bản hòa giải thành
mà không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự nên kết quả hòa giải
không có hiệu lực buộc các bên phải thi hành, dẫn đến nhiều trường hợp Tòa án vẫn
phải mở phiên tòa xét xử sau khi đã lập biên bản hòa giải thành do các bên không tự
nguyện thi hành thỏa thuận hoặc các bên tự ý thay đổi thỏa thuận.
Để khắc phục những bất cập trên, ngày 30/11/1974, TANDTC đã ra Thông tư
số 25-TATC hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng dân sự. Thông tư đã quy định rõ
ràng chi tiết về thẩm quyền hòa giải, phạm vi hòa giải, thủ tục và phương pháp hòa
giải, đáp ứng được yêu cầu cấp thiết cho Tòa án tiến hành hòa giải để giải quyết vụ án
đạt hiệu quả cao.

Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất. Các văn bản pháp luật trong giai
đoạn này đã được nâng cao không chỉ về mặt nội dung mà cả về hình thức, hiệu lực
pháp lý. Về lĩnh vực hòa giải các vụ án dân sự cũng đã được hướng dẫn cụ thể trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Thông tư số 81-TAND ngày 24/7/1981 của
TANDTC hướng dẫn các Tòa án địa phương giải quyết các tranh chấp về thừa kế
[58]; Thông tư số 02-TTLT ngày 2/10/1985 hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét xử
17


×