Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.08 KB, 67 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1

Đại học Kinh tế quốc dân

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA CHUYÊN ĐỀ
Sau 23 năm đổi mới, nước ta đã dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
theo đó sự vận hành của nền kinh tế vừa tôn trọng các quy luật khách quan của cơ
chế kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của định hướng xã hội chủ nghĩa. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao. Chúng ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150
của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Tài nguyên và môi trường có vai trò thiết yếu đối với con người, là nền tảng
tồn tại và phát triển của xã hội, là đầu vào và chứa đựng chất thải đầu ra của các
hoạt động kinh tế, đóng góp quan trọng cho ngân sách và tăng trưởng của mọi nền
kinh tế. Trong thế giới hiện đại ngày nay, khi toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tài
nguyên trở thành nguồn lực khan hiếm, là đối tượng tranh chấp quyết liệt giữa các
thế lực kinh tế, môi trường đã và đang bị ô nhiễm, suy thoái nhanh, trở thành vấn đề
toàn cầu, mối lo chung của toàn nhân loại, công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường được nhiều quốc gia trên thế giới đặt ở tầm quan trọng đặc biệt trong
chiến lược phát triển bền vững đất nước.
Nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nỗ
lực tăng trưởng nhanh và bền vững, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm thu hẹp nhanh khoảng cách tụt hậu đối với thế giới. Quá trình này
đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong cơ chế quản lý và phương thức điều
hành của toàn bộ nền kinh tế, từng bộ phận, từng khâu, trong đó có ngành tài
nguyên và môi trường.


Thời gian qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường đã có những chuyển đổi tích cực theo hướng kinh tế
hoá, thị trường hoá. Một số cơ chế, công cụ kinh tế được đưa vào áp dụng trong
quản lý đất đai và bảo vệ môi trường đã phát huy tác dụng, tạo nên bước đột phá về
đóng góp ngân sách nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý
nhà nước về tài nguyên và môi trường, góp phần quan trọng tạo nên thành công của
tiến trình đổi mới đất nước.

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2

Đại học Kinh tế quốc dân

Tuy nhiên, trước yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, tiến trình mở cửa và hội nhập, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường vẫn
còn bộc lộ nhiều bất cập. Vai trò của ngành tài nguyên và môi trường hiện nay chưa
được đánh giá đúng mức. Giá trị nguồn tài nguyên khoáng sản nói riêng và các tài
nguyên môi trường nói chung chưa được đánh giá đúng, để dẫn đến lãng phí; lợi
nhuận rơi vào một số ít cá nhân doanh nghiệp; ngân sách quốc gia thất thu; những
người tạo ra sản phẩm giá trị không được thụ hưởng xứng đáng.
II. MỤC TIÊU CỦA CHUYÊN ĐỀ
Xuất phát từ thực tiễn và nhận thức như vậy, để thúc đẩy đổi mới cơ chế
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động vận dụng các quy luật khách quan, khả năng tự
điều tiết của nền kinh tế thị trường, tăng cường áp dụng các cơ chế, công cụ kinh tế
trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực tư duy, nghiên
cứu và phân tích kinh tế trong ngành tài nguyên môi và môi trường, ngày 02 tháng
12 năm 2009 Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ra Nghị quyết 27 về
chủ trương đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường.
Em đã chọn đề tài: “Kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch 5 năm của Bộ Tài nguyên và môi trường” với các mục tiêu như sau:
1. Góp phần hình thành một hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế
hóa ngành tài nguyên và môi trường.
2. Đánh giá và phân tích thực trạng kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi
trường trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 ở Việt
Nam.
3. Đưa ra giải pháp đẩy mạnh kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch 5 năm tiếp theo, 2011-2015.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp kế thừa
Là phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu thực hiện
trước đây, kế thừa những kết quả điều tra, đánh giá, nghiên cứu đã có cả trong và
ngoài nước. Phương pháp này chủ yếu sử dụng ở phần II: Phân tích và đánh giá
thực trạng kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức kế hoạch 5 năm của Bộ Tài
nguyên và Môi trường. Các bảng số liệu như: Số văn bản quy phạm pháp luật được
xây dựng và ban hành; Thiệt hại môi trường ở một số nước, tổng thu thuế tài

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


3

Đại học Kinh tế quốc dân

nguyên so với tổng thu ngân sách… là kế thừa kết quả nghiên cứu của cán bộ Bộ
Tài nguyên và Môi trường và kết quả nghiên cứu từ các tổ chức nước ngoài.
2. Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp
Phương pháp này cũng chủ yếu được sử dụng ở phần II, dựa trên những số
liệu thực tế, từ đó đưa ra được những đánh giá tổng quát về thành tựu, hạn chế và
những nguyên nhân của việc thực hiện kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường
trong giai đoạn 2006-2010. Dựa vào bảng biểu để đánh giá sự biến động số liệu qua
các năm.
3. Phương pháp dự báo
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở phần III: Giải pháp đẩy mạnh kinh
tế hóa ngành tài nguyên và môi trường. Dựa trên kết quả đánh giá thu thập được ở
phần II và căn cứ vào bối cảnh chung của việc xây dựng kế hoạch 5 năm ngành tài
nguyên và môi trường theo hướng kinh tế hóa, từ đó làm căn cứ để dự báo các chỉ
tiêu thực hiện trong 5 năm tiếp theo.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chuyên đề nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về kinh tế hóa ngành tài
nguyên và môi trường; đánh giá khả năng áp dụng và xây dựng, đề xuất khung
chính sách tổng thể đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường trong
việc xây dựng và tổ chức kế hoạch 5 năm.
Việc điều tra nghiên cứu được thực hiện với tất cả 7 lĩnh vực quản lý nhà
nước mà Bộ Tài nguyên và môi trường được phân công, bao gồm đất đai; tài
nguyên nước; địa chất, khoáng sản; môi trường; khí tượng, thuỷ văn; đo đạc, bản đồ
và biển, hải đảo.
Nội dụng chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực

hiện kế hoạch 5 năm ngành tài nguyên và môi trường.
Phần II: Thực trạng kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Phần III: Giải pháp đẩy mạnh kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch 5 năm của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Nghị quyết số 27-NQ/BCSĐTNMT mới được ban hành vào ngày 02 tháng
12 năm 2009 về đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường. Là một chủ
trương mới, việc đầu tiên và quan trọng nhất của ngành là xây dựng cơ sở lý luận
“kinh tế hóa ngành tài nguyên môi trường”. Năm 2010 cũng là năm ngành tài

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

4

Đại học Kinh tế quốc dân

nguyên và môi trường mới bắt đầu tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn để đạt được
mục tiêu đó. Do vậy chưa có nhiều số liệu được điều tra và công bố, chuyên đề:
“Kinh tế hóa ngành trong xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm của Bộ
Tài nguyên và Môi trường” mang tính lý luận cao.
Do chuyên đề nghiên cứu còn mới mẻ, trình độ còn hạn chế nên vấn đề
nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý để sửa chữa và
hoàn thiện thêm. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Phạm Thị Minh Thảo,
Trường đại học Kinh tế quốc dân, các cán bộ ở Vụ Kế hoạch, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.


Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

5

Đại học Kinh tế quốc dân

B. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÓA TRONG XÂY DỰNG
VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM NGÀNH
TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
I. KẾ HOẠCH 5 NĂM TRONG HỆ THỐNG KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI.1
1. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo thời gian trong nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống kế hoạch hoá là một hệ thống các loại hình thức kế hoạch phát
triển, đó là hệ thống các công cụ điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà
nước. Trong hệ thống kế hoạch hoá, mỗi loại hình kế hoạch khác nhau có vai trò
khác nhau và chúng có thể được phân loại theo nhiều góc độ khác nhau.
Nếu xem xét hệ thống kế hoạch hoá theo góc độ nội dung thì hệ thống kế
hoạch hoá bao gồm các bộ phận cấu thành như: chiến lược phát triển kinh tế xã hội;
quy hoạch phát triển; kế hoạch phát triển và các chương trình dự án phát triển.
Trong đó chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các phân tích, đánh
giá và lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển các lĩnh vực
chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản, trong đó bao gồm các chính
sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu

đặt ra trong một khoảng thời gian dài.
Quy hoạch phát triển là sự thể hiện của chiến lược phát triển trong thực tiễn
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố
trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức
không gian để chủ động hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững
trong tương lai.
Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc
dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội
theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu chỉ tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng
và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội được xem như là một công
cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc
1

Trích nguồn: Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

6

Đại học Kinh tế quốc dân

về kinh tế và xã hội. Là một phương pháp kế hoạch hoá được áp dụng nhiều nước
trên thế giới, ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương
pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình dự án mà trọng tâm là các chương

trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi từ những năm 1992.
Tóm lại khi xem xét hệ thống kế hoạch hoá dưới góc độ nội dung ta thấy
được rằng kế hoạch hoá là một quá trình liên tiếp nhau, bổ trợ nhau và thể hiện mối
quan hệ định hướng và thực hiện giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống kế hoạch
hoá.
Khi chúng ta xem xét hệ thống kế hoạch hoá ở góc độ thời gian thì hệ thống
kế hoạch hoá lại được phân chia thành 3 loại kế hoạch chủ yếu là: Kế hoạch dài
hạn, kế hoạch trung hạn và kế hoạch ngắn hạn.
1.1. Kế hoạch dài hạn.
Khi nói kế hoạch dài hạn ta có thể hiểu đó là những chiến lược phát triển
kinh tế xã hội có khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm. Và ngoài chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 10 năm, 20 năm chúng ta còn có thể có các chiến lược phát triển kinh tế
xã hội có thời gian dài từ 20 đến 25 năm và chúng được gọi là “tầm nhìn”. Để tạo
thuận lợi cho việc xây dựng và bố trí các chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm,
“tầm nhìn” thường có nội dung tổng quát hơn, linh động hơn hay mềm hơn và có tính
chất định tính hơn so với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Điều quan trọng của việc
phân định giữa chiến lược phát triển kinh tế xã hội và tầm nhìn là phải thống nhất về
mục tiêu định hướng của chúng sao cho những bước đi trước “thuận” và tạo tiền đề
cho bước đi sau đồng thời có khả năng hiệu chỉnh khi cần thiết.
Một kế hoạch dài hạn thường có nội dung để giải đáp những câu hỏi: Chúng
ta đang đứng ở đâu? Muốn đi đến đâu? Đi bằng cách nào? Và làm thế nào để biết
được chúng ta đã đi đến đó? Để trả lời mỗi một câu hỏi trên chúng ta phải tiến hành
những công việc cụ thể như:
- Nhận dạng thực trạng của nền kinh tế: Quá trình nhận dạng thực trạng phải
được đánh giá toàn diện và trong một khoảng thời gian dài tương đương với thời kỳ
của chiến lược phát triển sẽ xây dựng. Nó là cơ sở để rút ra kết luận đúng đắn cho
câu hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu?
- Xây dựng các quan điểm phát triển, đó là những tư tưởng chủ đạo thể hiện
tính định hướng của các kế hoạch dài hạn. Việc xác định các quan điểm chủ đạo có
ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển, nó

tạo động lực cơ bản xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước.

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

7

Đại học Kinh tế quốc dân

- Xây dựng hệ thống mục tiêu, các mục tiêu chủ yếu là mục tiêu tổng quát,
chủ yếu tập trung vào các vấn đề nâng cao đời sống xã hội của các tầng lớp dân cư,
thay đổi bộ mặt đất nước, tạo thế vững chắc cho đất nước, phản ánh những biến đổi
quan trọng của nền kinh tế.
- Xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp. Đây là thể hiện sự hướng dẫn
về cách thức thực hiện các mục tiêu đề ra. Nó bao gồm các chính sách và biện pháp
về cơ cấu và cơ chế vận hành hệ thống kinh tế – xã hội, các chính sách về bồi
dưỡng, khai thác, huy động, phân bổ và sử dụng hợp lý cá nguồn lực phát triển.
1.2. Kế hoạch trung hạn
Kế hoạch trung hạn là những kế hoạch có khoảng thời gian từ 3 đến 10 năm.
Ở một số nước trên thế giới như nước Pháp, khi phân chia theo thời gian thì hình
thức duy nhất của kế hoạch là kế hoạch 5 năm, nước Đức thường xây dựng kế
hoạch trung hạn 5 năm, ở Malaysia có kế hoạch trung hạn 5 năm, kế hoạch trung
hạn 3 năm, ở Việt Nam kế hoạch trung hạn thường là kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là sự cụ thể hoá các chiến lược phát
triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất
nước. Kế hoạch trung hạn xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng

cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách
phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà
nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
1.3. Kế hoạch ngắn hạn
Trong hệ thống kế hoạch phát triển thì kế hoạch 5 năm là công cụ chính sách
định hướng còn kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện. Đặc biệt nếu thực hiện kế
hoạch 5 năm theo hình thức “cuốn chiếu” thì kế hoạch hàng năm thực chất sẽ là một
phần định hướng của kế hoạch 5 năm. Vì vậy, vai trò hay chức năng đầu tiên của kế
hoạch năm là cụ thể hoá kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bước
thực hiện kế hoạch 5 năm. Quy mô và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ
yếu đươc quyết định bởi ngân sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, các tiến trình trong
nghiên cứu khả thi và những dự án triển khai trong thời kỳ trước. Bên cạnh đó kế
hoạch năm còn là công cụ để điều chỉnh kế hoạch 5 năm có tính đến đặc điểm của
từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm còn đóng vai trò độc lập quan trọng, nó có
thể bao hàm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu chưa được dự kiến trong kế hoạch 5 năm,
bảo đảm tính linh hoạt, nhạy bén của kế hoạch hoá nói chung

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

8

Đại học Kinh tế quốc dân

2. Kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội
2.1. Khái niệm kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển

kinh tế- xã hội
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và
quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch 5 năm
xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong
thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn
cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Trong hệ thống kế hoạch hoá kế hoạch 5 năm vừa là sự cụ thể hoá các chiến
lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển vừa là công cụ định hướng
cho các kế hoạch hàng năm. Dựa vào hệ thống chỉ tiêu mục tiêu và các cân đối lớn
của kế hoạch 5 năm các kế hoạch hàng năm được xây dựng, từ đó đảm bảo sự thống
nhất về mục tiêu của kế hoạch hàng năm với kế hoạch 5 năm và mục tiêu định
hướng của quy hoạch phát triển và chiến lược phát triển. Từ đó ta có thể thấy được
kế hoạch 5 năm là cầu nối giữa chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển với các
kế hoạch hàng năm hay là cầu nối biến các mục tiêu mang tính định tính cao thành
các công việc cụ thể bằng việc theo đuổi mục tiêu hàng năm mang tính định lượng
nhiều hơn.
2.2. Sự cần thiết lựa chọn kế hoạch 5 năm làm kế hoạch trọng tâm trong
hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế –xã hội.
Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định “xây dựng
kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát triển”.
Trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội ta thấy kế hoạch 5 năm
(kế hoạch trung hạn) là loại hình kế hoạch có khoảng thời gian nằm giữa kế hoạch
dài hạn (chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển) và kế hoạch ngắn hạn (kế
hoạch hàng năm). Do vậy khi xét về mặt thời gian thì điều đâu tiên ta thấy kế hoạch
5 năm đã đảm bảo mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Do khoảng thời gian 5 năm
vừa đúng bằng một nhiệm kỳ làm việc của cơ quan chính phủ, là thời hạn mà theo
đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau 1 năm hoặc một vài năm, do vậy tạo thuận lợi cho
việc tập trung quan điểm lãnh đạo, thuận lợi cho việc đổi mới và hoàn thiện việc
thực hiện các kế hoạch phát triển mới. Khi một nhiệm kỳ làm việc của chính phủ

kết thúc cũng là lúc một kế hoạch 5 năm kết thúc, do vậy trong quá trình thực hiện
kế hoạch phát triển nếu còn tồn tại những hạn chế hay không đạt được những mục

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

9

Đại học Kinh tế quốc dân

tiêu đã đề ra, việc quy kết trách nhiệm sẽ dễ dàng hơn. Từ đó buộc mỗi cá nhân có
trách nhiệm thực hiện mục tiêu chung một cách tốt nhất, không để xảy ra tình trạng
thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao rồi bắt người đi
sau (nhiệm kỳ sau) phải giải quyết hậu quả do chính mình gây ra.
Kế hoạch 5 năm là khoảng thời gian đủ ngắn để đảm bảo tính chính xác của
các mục tiêu đề ra. Do sự biến động không ngừng của nền kinh tế, sự phát triển
mạnh mẽ không ngừng của nền sản xuất xã hội cũng như việc hiện đại hoá các công
cụ dự báo dẫn đển rủi ro cao đối với các chỉ tiêu của các kế hoạch dài hạn.
Đối với kế hoạch 1 năm thì khoảng thời gian 1 năm không đủ để đánh giá
những phát sinh của chương trình dự án. Những chương trình dự án khi hoàn thành
đôi khi chưa bộc lộ hiệu quả hay những phát sinh ngay mà phải trải qua một thời
gian đi vào sử dụng do vậy trong vòng một năm không thể nhận biết được điều đó.
Trong khi đó kế hoạch 5 năm đủ dài để đánh giá các chính sách giải pháp, chương
trình dự án…và tiến hành xử lý những phát sinh.
Trong quá trình lập kế hoạch thì công việc thu thập, xử lý thông tin đòi hỏi
một thời gian khá dài do vậy kế hoạch hàng năm sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong

vấn đề đó bởi vì quá trình thu thập, xử lý thông tin sẽ làm ảnh hưởng tới tiến độ
thực hiện các hoạt động của kế hoạch đề ra.
Tóm lại vai trò của kế hoạch 5 năm là rất quan trọng và việc đưa kế hoạch 5
năm trở thành trọng tâm chủ yếu trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển là hoàn
toàn đúng đắn.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ KẾ HOẠCH 5 NĂM2
1. Nội dung các bộ phận cấu thành kế hoạch 5 năm
1.1. Phân tích tiềm năng thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá
thực hiện thời kỳ trước
Việc phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội phải chỉ ra
được tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh, nêu được những mặt mạnh, mặt yếu
những yếu tố làm được và chưa làm được trong thời gian qua. Những mặt đã làm
được hay không làm được cần đánh giá kĩ nguyên nhân, các yếu tố chính sách tác
động. Để đánh giá chính xác tiềm năng thực trạng phát triển làm cơ sở cho định
hướng phát triển, đặt nó trong việc dự báo điều kiện hoàn cảnh môi trường làm việc
trong nước và quốc tế của thời kỳ kế hoạch 5 năm. Trong quá trình phân tích phải
2

Trích nguồn: Giáo trình kế hoạch hóa phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

10

Đại học Kinh tế quốc dân


xác định được chúng ta đang ở đâu trong mặt bằng chung của sự phát triển, sánh với
các nước khác, địa phương khác trong khu vực và quốc tế.
1.2. Xác định các phương hướng phát triển trong thời kỳ kế hoạch
Nội dung này bao gồm:
Xây dựng hệ thống quan điểm phát triển, xác định quan điểm nhiệm vụ tổng
quan và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
giai đoạn 5 năm. Các mục tiêu kế hoạch 5 năm thường hướng tới, bao gồm: Mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; mục tiêu ổn định tài chính
quốc gia tăng khả năng và tiềm lực tài chính, xử lý hài hòa tích lũy với tiêu dùng,
tăng khả năng đầu tư kiềm chế và khống chế lạm phát, bảo đảm giá trị đồng tiền, cải
thiện cán cân thanh toán, tăng khả năng kinh tế đối ngoại, xuất – nhập khẩu và thu
hút nguồn vốn bên ngoài; bảo đảm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, phát triển
dân trí và nâng cao phúc lợi xã hội.
Để thực hiện các mục tiêu trên, nhất là xác định các chỉ tiêu kế hoạch cần
phải dự báo nhiều phương án khác nhau, việc lựa chọn phương án cần trên cơ sở
mục tiêu đặt ra, gắn cụ thể với khả năng nguồn lực và theo quan điểm chủ động
khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế đa phần sở
hữu và mở cửa hội nhập.
1.3. Xây dựng các cân đối vĩ mô và giải pháp lớn
Thứ nhất, là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đối
xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua toàn xã hội; xác định
khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nước, đồng thời xác định những quan hệ lớn
về phân bổ đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh
vực văn hóa, xã hội; xác định quan hệ cung cầu một số hàng hóa chủ yếu.
2. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm
Một nội dung quan trọng không thể thiếu của kế hoạch nói chung và kế
hoạch 5 năm nói riêng đó là xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu trong kế
hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được trong thời kỳ
kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác

định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể
của nó và được Nhà nước sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế. Có
nhiều cách phân loại hệ thống chỉ tiêu kế hoạch:
- Đứng trên góc độ phạm vi tính toán, hệ thống chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu
kế hoạch quốc gia như: Chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển kinh tế đất nước,

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

11

Đại học Kinh tế quốc dân

các dự báo kinh tế-xã hội, các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia, nguồn ngân
sách Chính phủ và tài chính Nhà nước. Các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, thành phố
bao gồm các chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển của các vùng và ngân sách
địa phương. Hệ thống các chỉ tiêu phát triển của từng ngành, nội bộ ngành như công
nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông, bưu chính viễn thông…
- Đứng trên góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu được chia thành các chỉ tiêu
phát triển kinh tế và các chỉ tiêu phát triển xã hội. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế đặt
ra nhiệm vụ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những cân đối
nguồn lực chủ yếu. Ví dụ, trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 của nước ta, các chỉ
tiêu kinh tế được đưa ra: Tổng sản phẩm trong nước GDP năm 2010 theo giá so
sánh gấp 2,1 lần năm 2000; tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,5-8%/năm, phấn đấu đạt
trên 8%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt tương đương 1.0501.100USD; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 16%/năm; tỷ lệ huy động GDP hàng
năm vào ngân sách đạt 21-22%/năm; vốn đầu tư vào xã hội hàng năm đạt khoảng

40%GDP…
Các chỉ tiêu văn hóa- xã hội đưa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề như:
Xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế giáo dục, khoa học-công nghệ
và các mục tiêu xã hội khác. Trong kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội 20062010 một số chỉ tiêu như: Tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%; lao động nông
nghiệp chiếm dưới 50% lao động xã hội; tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động; tỉ lệ
thất nghiệp đô thị dưới 5%; tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp
ở đô thị dưới 5%, tỷ lệ hộ nghèo còn 10-11%, hoàn thành phổ cập giáo dục trung
học cơ sở; lao động đã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội, tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống dưới 20%...
Để thực hiện sự gắn bó giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, hiện
nay người ta thường đặt ra các chỉ tiêu lồng ghép. Các chỉ tiêu lồng ghép đảm bảo
thể hiện được cả hai yêu cầu trong một chỉ tiêu. Ví dụ chỉ tiêu thu nhập bình quân
trên đầu người, nhu cầu việc làm mới v..v..
- Đứng trên góc độ quản lý, hệ thống kế hoạch có chỉ tiêu pháp lệnh, chỉ
tiêu hướng dẫn và chỉ tiêu dự báo. Chỉ tiêu pháp lệnh được Quốc hội và Chính phủ
phê duyệt và trở thành bắt buộc phải hoàn thành trong thời kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu
hướng dẫn thường mang tính định hướng hoạt động của các ngành, địa phương, các
đơn vị kinh tế và dùng để phân tích, so sánh đánh giá mức độ phát triển của các đối
tượng kế hoạch hoá. Các chỉ tiêu dự báo ở tầm vĩ mô làm cơ sở luận chứng cho các

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

12

Đại học Kinh tế quốc dân


chỉ tiêu pháp lệnh phê chuẩn và được xem như các số liệu, thông tin kinh tế cho các
đơn vị kinh tế, các ngành, địa phương và các cơ quan có liên quan tham khảo.
- Theo phạm vi đơn vị đo lường, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch gồm có các chỉ
tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật chất của sản xuất,
được đo lường bằng các đơn vị đo hiện vật như: Cái, trọng lượng, kích thước, dung
tích v..v.. Chỉ tiêu hiện vật có tác dụng xác định cụ thể quy mô của sản xuất và dịch
vụ, nó đưa ra khả năng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa mục tiêu sản xuất sản
phẩm với khối lượng nhu cầu cung cấp các hàng hoá trung gian. Chỉ tiêu giá trị đo
lường các nhiệm vụ, mục tiêu và quy mô phát triển của nền kinh tế dưới hình thái
tiền tệ, nó được sử dụng để hình thành các cân đối vĩ mô, các con số phản ánh tổng
hợp nội dung phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hướng phát triển của
các ngành, vùng v..v..
- Ngoài các cách phân loại chủ yếu trên, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch còn được
chia thành chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu tuyệt đối; chỉ tiêu phản ánh chất lượng và
số lượng. Tất cả các chỉ tiêu đều góp phần tăng cường tính định lượng trong kế
hoạch hoá phát triển. Tuy vậy, để thích ứng với các điều kiện thường xuyên biến đổi
của kinh tế thị trường và theo yêu cầu phát triển ngày càng cao của đời sống, xã hội,
các kế hoạch phát triển hiện nay đặt trọng tâm vào các chỉ tiêu xã hội, các chỉ tiêu
giá trị, cá chỉ tiêu mang tính chất hướng dẫn và dự báo.
3. Một số phương pháp xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm phát triển
kinh tế - xã hội
3.1. Phương pháp truyền thống
Xây dựng và quản lý các kế hoạch 5 năm theo phương pháp truyền thống đã
được áp dụng từ rất lâu trong hệ thông kinh tế xã hội chủ nghĩa, và ngày nay nền
kinh tế nước ta vẫn còn áp dụng dưới những hình thức khác nhau. Đặc trưng của
phương pháp này, như chúng ta đã biết, đó là: khoảng thời gian của thời kỳ 5 năm là
cố định (ví dụ: kế hoạch 5 năm 2006-2010; 2011-2015); thích ứng với khoảng thời
gian cố định, chỉ tiêu kế hoạch được xây dựng một lần cho cả thời kỳ 5 năm, các
mục tiêu phát triển thường là con số bình quân hàng năm hoặc tính cho năm cuối

của kỳ kế hoạch. Mô hình trên hoàn toàn phù hợp trong thời kỳ kế hoạch hoá tập
trung với nền kinh tế kế hoạch khá ổn định, quá trình phát triển sau được xem như
là “quá trình trước cộng thêm một bước”; kinh tế trong nước là một tổng thể thống
nhất bao gồm thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ yếu, các mối quan hệ kinh
tế quốc tế cũng được xác định trước theo kế hoạch chung của hội đồng tương trợ

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

13

Đại học Kinh tế quốc dân

kinh tế. Tuy vậy, nếu nhìn nhận ở góc độ chức năng của kế hoạch trong nền kinh tế
thị trường là điều tiết các quan hệ thị trường, kế hoạch khắc phục các khuyết tật của
thị trường, bổ sung và hướng thị trường hoạt động theo mục tiêu của xã hội thì
phương pháp truyền thống tỏ ra có nhiều hạn chế. Chỉ tiêu kế hoạch xây dựng một
lần cho cả thời kỳ 5 năm sẽ không cập nhật được các biến động của thị trường; sự
thay đổi môi trường kinh tế trong nước và quốc tế làm cho các con số kế hoạch trở
lên lạc hậu, thiếu tính linh hoạt và khả năng hiệu chỉnh. Việc quản lý và điều hành
vĩ mô nền kinh tế quốc dân vì thế mà trở nên cứng nhắc, kém hiệu quả, thậm chí sai
lệch. Những căn bệnh như: chủ quan, duy ý chí hoặc quan liêu sẽ xảy ra. Hơn nữa
không phải chương trình dự án hoặc chính sách nào cũng được xây dựng và triển
khai bó gọn trong một thời kỳ 5 năm nhất định. Khi các chính sách, chương trình có
sự gối đầu từ kế hoạch 5 năm này sang kế hoạch 5 năm khác thì cách xây dựng kế
hoạch theo thời kỳ cố định sẽ khó phản ánh được tính liên tục trong mục tiêu hoạt

đông và cân đối ngân sách cho các chính sách, chương trình đó.
3.2. Phương pháp “cuốn chiếu”
Đối với Việt Nam đây là một phương pháp còn rất mới mặc dù phương pháp
này đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu ở các nước phát triển. Đặc biệt ở Pháp,
Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức, Ôxtrâylia, mô hình kế hoạch hoá "cuốn chiếu"
được áp dụng rộng rãi cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường và thực hiện
các kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội của các quốc gia này. Sự khác biệt của
phương pháp này so với kế hoạch hoá kiểu truyền thống thể hiện ở các điểm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, thời kỳ kế hoạch 5 năm không cố định mà được thay đổi theo kiểu
cuốn chiếu sau mỗi năm kế hoạch. Khi một năm thực hiện kế hoạch qua đi thì một
năm kế hoạch mới lại được đưa vào khuôn khổ trung hạn. Ví dụ như kế hoạch
2006-2010 rồi đến kế hoạch 2006-2011, v..v..
Thứ hai, các con số kế hoạch được tính theo những mục tiêu tổng thể, bao
gồm kế hoạch chính thức cho một năm hiện hành, kế hoạch dự tính cho năm tiếp
theo và dự báo cho kế hoạch ba năm còn lại. Mức độ chi tiết cụ thể và chính xác của
các con số kế hoạch các năm sau phụ thuộc vào số lượng, độ tin cậy và khả năng
cập nhật thông tin.
Thứ ba, cuối mỗi năm của thời kỳ kế hoạch, trên cơ sở kết quả thực hiện kế
hoạch và những dự báo, thông tin mới, quá trình xây dựng kế hoạch 5 năm thời kỳ
cuốn chiếu mới lại được thực hiện với các nội dung: xây dựng kế hoạch chính thức

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

14


Đại học Kinh tế quốc dân

cho năm tiếp theo (năm đầu của thời kỳ mới); điều chỉnh và chính xác hoá thêm cho
những dự báo kế hoạch của năm thứ 2,3,4 và dự báo sơ bộ kế hoạch năm cuối cùng
(năm thứ 5 của thời kỳ mới). Đi kèm theo các chỉ tiêu kế hoạch là những dự kiến về
cơ hội, thách thức của thời kỳ kế hoạch và những kiến nghị, giải pháp cụ thể phù
hợp với các diễn biến xảy ra.
Phương pháp "cuốn chiếu" với các nội dung tổng quát nêu trên sẽ khắc phục
được tính nhất thời và không phù hợp mục tiêu kế hoạch với sự đổi thay thường
xuyên của môi trường. Theo phương pháp này việc xây dựng và triển khai kế hoạch
5 năm sẽ không còn mang tính chất “thời vụ” mà nó tiếp tục được thời sự hóa để
phù hợp với hoàn cảnh và những yêu cầu mới đặt ra. Các chỉ tiêu kế hoạch sẽ đủ độ
tin cậy cho các nhà quản lý và lãnh đạo sử dụng với tư cách là công cụ định hướng
vĩ mô nền kinh tế quốc dân, làm cho kế hoạch thực hiện tốt chức năng tổ chức can
thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị trường, đương đầu với khó khăn, biến động
bất thường từ thế giới bên ngoài. Ngoài ra, do các khuôn khổ 5 năm kế hoạch 5 năm
kế tiếp nhau luôn có 4 năm kế hoạch trùng nhau nên tính liên tục giữa các kế hoạch
5 năm, các chính sách, chương trình được thực hiện gối đầu giữa các kế hoạch đó sẽ
được đảm bảo.
Tóm lại xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm theo mô hình "cuốn chiếu" là
thực sự thích ứng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuy vậy,
đây là một hướng tiếp cận rất mới. Để vận dụng thành công phương pháp này ở Việt
Nam, phải có sự chuẩn bị về mọi mặt.
III. THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ TRONG QUY TRÌNH KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI3
1. Khái niệm theo dõi và đánh giá
1.1. Theo dõi
Theo dõi có nghĩa là “nhìn” phát hiện những thứ gì đang tồn tại, và tìm ra
được những gì đang thực sự diễn ra. Đây chủ yếu là một quy trình nội bộ của hoạt

động quản lý, được tiến hành nhằm theo dõi các quá trình một cách thường xuyên
trong suốt thời gian thực hiện một dự án, chương trình hay kế hoạch.
Theo dõi là một quá trình thu thập dữ liệu, tình hình một cách có hệ thống về
những chỉ số cụ thể liên quan đến một hoạt động phát triển đang được thực hiện, để
những người quản lý và các đối tượng liên quan có được thông tin về tiến độ thực
hiện các mục tiêu đề ra và sử dụng các nguồn lực được phân bố.
3

Trích nguồn: Giáo trình kế hoạch hóa phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

15

Đại học Kinh tế quốc dân

Có hai hình thức theo dõi phổ biến là:
Theo dõi theo hình thức tuân thủ: để đảm bảo rằng các hành động đã dự
kiến phải được thực hiện.
Theo dõi theo tác động: để đo lường tác động của một hoạt động đối với việc
đạt được các mục tiêu đã đề ra.
1.2. Đánh giá
Đánh giá có nghĩa là việc xác định, phản ánh kết quả của những gì đã được
thực thi, và xét đoán giá trị của chúng. Đánh giá có thể được thực hiện bởi những
người có trách nhiệm quản lý hay bởi những người bên ngoài có liên quan.

Đánh giá là một quá trình tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống một dự
án, chương trình hay một kế hoạch đang được thực hiện hoặc đã kết thúc, bao gồm
đánh giá từ việc lập kế hoạch, thiết kế chương trình, dự án đến quá trình thực hiện
và kết quả của quá trình thực hiện.
Xét theo quy trình xây dựng và thực hiện kế hoạch, đánh giá được phân
thành 3 loại chính:
- Đánh giá giữa kỳ: là việc đánh giá định kỳ tiến độ thực hiện kế hoạch kiểm
tra tính phù hợp và khả năng tạo ra những đầu ra hoặc tác động ảnh hưởng, mong
đợi của kế hoạch. Đánh giá giữa kỳ còn giúp kiểm tra xem các giả thiết đã nêu trong
kế hoạch có giữ nguyên giá trị hay không, nếu không thì giải thích tại sao cần
khuyến nghị các điều chỉnh để đảm bảo đạt được các mục tiêu tổng quát và các chỉ
tiêu kế hoạch đề ra.
- Đánh giá cuối kỳ: là đánh giá được tiến hành khi kết thúc kỳ kế hoạch
nhằm đánh giá các kết quả đạt được, tổng kết toàn bộ quá trình thực hiện rút ra kinh
nghiệm, xem xét khả năng điều chỉnh kế hoạch kỳ tiếp theo nhằm đảm bảo mục tiêu
trung hạn và dài hạn.
- Đánh giá tác động: là đánh giá được tiến hành tại một thời điểm thuận lợi
sau khi kết thúc kỳ kế hoạch, xem xét việc thực hiện kế hoạch có tạo ra được tác
động như mong muốn hay không, tức là đánh giá hiệu lực của kế hoạch.
2. Vai trò của theo dõi và đánh trong quy trình kế hoạch hóa phát triển
kinh tế-xã hội
Theo dõi và đánh giá có vai trò rất quan trọng trong quá trình tổ chức thực
hiện các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Theo dõi cho phép các cấp chính quyền (chính phủ hoặc chính quyền địa
phương) nắm bắt kịp thời tình hình triển khai thực hiện các mục tiêu kế hoạch đề ra,

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

16

Đại học Kinh tế quốc dân

từ đó đưa ra các quyết định quản lý phù hợp nhằm đảm bảo quá trình thực hiện diễn
ra theo đúng kế hoạch. Không có thông tin theo dõi hoặc theo dõi không hiệu quả sẽ
dẫn đến nguy cơ các hành động thực tế đi chệch hướng so với dự kiến, từ đó dẫn
đến nguy cơ các mục tiêu kế hoạch không được thực hiện. Những phát hiện từ quá
trình theo dõi là thông tin đầu vào không thể thiếu cho việc điều hành quản lý một
cách có hiệu quả.
Đánh giá không chỉ cho nhà quản lý địa phương biết được tình hình thực tế
thực hiện các mục tiêu kế hoạch, mà cách đánh giá còn phân tích các nguyên nhân
của những (sai lệch nếu có) được phát hiện trong quá trình theo dõi. Việc hiểu rõ
các nguyên nhân đó mang lại cơ hội cho các cấp chính quyền địa phương học hỏi,
rút ra bài học và kinh nghiệm đồng thời qua đó tổ chức thực hiện các giai đoạn tiếp
theo của kế hoạch một cách hiệu quả hơn.
Như vậy theo dõi và đánh giá là hai quá trình có liên quan mật thiết và không
thể thiếu đối với các cấp chính quyền, không chỉ trong quá trình điều hành thực hiện
hoạt động của một kỳ kế hoạch mà còn cả cho quá trình lập kế hoạch cho các kỳ
tiếp theo của tương lai.
3. Các phương pháp theo dõi và đánh giá
3.1. Theo dõi và đánh giá thực hiện
Theo dõi thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là việc thu thập một
cách có hệ thống những thông tin về quá trình triển khai thực hiện các mục tiêu
nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là việc xem xét mức độ
thực hiện các nhiệm vụ hay mục tiêu cụ thể nào đó trong kế hoạch phát triển kinh tế

xã hội theo từng giai đoạn thực hiện hoặc khi kết thúc kỳ kế hoạch và từ đó rút ra
bài học cho việc lập các kế hoạch tiếp theo.
Chủ thể của theo dõi và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là các cấp
lãnh đạo, điều hành kế hoạch và các bên có liên quan. Đối tượng của theo dõi và
đánh giá là quá trình thực hiện kế hoạch với chủ yếu là các hoạt động đầu vào, đầu
ra.
Theo dõi và đánh giá là hai hoạt động độc lập nhưng có tác dụng hỗ trợ lẫn
nhau. Hoạt động theo dõi thu thập thông tin về tình hình thực hiện từng mục tiêu kế
hoạch. Xét về hiệu quả, nếu làm tốt công tác theo dõi thì có thể phòng chống tốt các
rủi ro có thể phát sinh và đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu đề ra hoặc kịp thời

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

17

Đại học Kinh tế quốc dân

điều chỉnh mục tiêu kế hoạch nào đó nếu có nguy cơ không đạt hay có diễn biến bất
thường trong nền kinh tế.
2.2. Theo dõi đánh giá dựa trên kết quả
Theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả là một quá trình liên tục thu thập và
phân tích số liệu về chỉ số theo dõi để so sánh với các kết quả dự định, xem xét mức
độ thực hiện của các mục tiêu kế hoạch mà còn xem xét kết quả và tác động của
thực hiện kế hoạch dựa trên mối liên hệ logic giữa các chỉ số giám sát.
Cơ sở của theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả là lý thuyết về quản lý dựa

trên kết quả phát triển. Quản lý dựa trên kết quả phát triển là một chiến lược hay
phương pháp quản lý mà tổ chức sử dụng để đảm bảo rằng các hoạt động, sản phẩm
dịch vụ của mình góp phần vào việc đạt được kết quả mong muốn.
IV. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÓA NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ
MÔI TRƯỜNG
1. Khái niệm về kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường
"Kinh tế hoá", "tài chính hoá" từ một thuật ngữ kinh tế học, gần đây đã được
Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường đề cập như một chủ trương, định hướng
phát triển của ngành tài nguyên và môi trường nước ta. Việc thực hiện chủ trương
ấy sẽ tạo ra quá trình chuyển biến căn bản các quan hệ hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên và môi trường thành các quan hệ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thuật ngữ “kinh tế hóa” tuy không còn mới lạ nhưng việc kinh tế hóa ngành
tài nguyên môi trường ở nước ta nói chung và ngành tài nguyên môi trường nói
riêng vẫn còn mới mẻ. Xung quanh việc định nghĩa kinh tế hóa ngành tài nguyên và
môi trường có nhiều ý kiến. Theo Sở Tài nguyên và Môi trường Cao Bằng: “Kinh
tế hoá, tài chính hoá là quá trình chuyển hoá các thành tố tài nguyên và môi trường
từ trạng thái là tài nguyên thiên nhiên trở thành tài sản quốc dân”
Theo Vụ Kế hoạch, Bộ Tài nguyên và Môi trường phân tích trên khía cạnh
chủ trương đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường, dựa trên tham
khảo kinh nghiệm các nước và gắn liền điều kiện thực tế Việt Nam, kinh tế hóa
ngành tài nguyên và môi trường được hiểu như sau: “Kinh tế hóa ngành tài nguyên
và môi trường là quá trình hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường từ cơ chế quản lý còn nặng tính hành chính, bao cấp kém hiệu quả sang
cơ chế quản lý hiệu quả hơn dựa trên những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị
trường, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

18

Đại học Kinh tế quốc dân

nâng tầm đóng góp và vị thế của ngành tài nguyên và môi trường trong nền kinh tế
quốc dân, hướng tới phát triển bền vững ở nước ta”
2. Bản chất kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường
2.1. Là quá trình chuyển đổi đòi hỏi bộ máy quản lý nhà phải có những thay
đổi cơ bản trong cơ chế quản lý, con người và tổ chức, phương thức điều hành nền
kinh tế, đảm bảo giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế trên cơ sở vận dụng
đúng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, các nguyên lý kinh tế đã được
đúc kết, đồng thời phát huy tối đa vai trò điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa
trong các lĩnh vực mà nền kinh tế thị trường không tự vận hành tốt, phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh của nước ta.
2.2. Đó là quá trình chuyển hoá các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã được tài
sản hoá thành hàng hoá cung cấp cho thị trường và trở thành nguồn vốn quan trọng
của các thành phần kinh tề sở hữu chúng, nhờ đó mà vốn đầu tư toàn xã hội ngày
càng gia tăng.
2.3. Đó là quá trình tạo lập và nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách nhà nước
thông qua việc đưa các nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu nhà nước vào lưu
thông trên thị trường.
3. Đặc điểm kinh tế hóa
3.1. Công cụ của kinh tế hóa ngành là thuế, phí, lệ phí
Kinh nghiệm thế giới cho thấy đóng góp chính của khu vực “tài nguyên và
môi trường” cho ngân sách là thuế đất đai, các loại thuế/phí môi trường, thuế khai
thác, sử dụng tài nguyên và một số hình thức thu khác. Tùy theo từng quốc gia và

từng giai đoạn khác nhau mà cách thức và phần đóng góp này là khác nhau. Đối với
các nước có hình thức sở hữu tư nhân về đất đai, tài nguyên thì họ chỉ thu thuế, phí.
Còn các nước có chế độ sở hữu nhà nước về tài nguyên thiên nhiên thì ngoài thu
thuế, phí còn các khoản thu về giao quyền sử dụng, cho thuê đất đai, tài nguyên. Số
thu từ bán, cho thuê đất đai, tài nguyên rất lớn so với thuế, phí. Tuy nhiên, những
khoản thu này không bền vững như thuế, phí vì đất, tài nguyên đều có giới hạn và
không thể tái tạo được. Đây cũng chính là điểm khác nhau giữa quan hệ sở hữu ảnh
hưởng đến định đoạt nguồn thu của các nước có chế độ sở hữu đất đai, tài nguyên
khác nhau. Có thể tóm tắt về các lĩnh vực như sau:
(1) Từ đất đai: Thuế đất đai là một loại thuế có nguồn gốc lâu đời và tồn tại
tất cả mọi nơi trên thế giới. Mặc dù không phải chiếm một tỷ trọng cao trong tổng
GDP và tổng nguồn thu quốc gia những năm gần đây, thuế đất đai mới được sử

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

19

Đại học Kinh tế quốc dân

dụng như là một công cụ hữu hiệu để tăng nguồn thu và giúp cân đối ngân sách, đặc
biệt tại các quốc gia đang phát triển. Theo IMF (2006), trên toàn thế giới, thuế đất
chiếm trung bình khoảng 2% tổng GDP và 12% tổng thu từ tất cả các loại thuế.
Riêng tại các nước đang chuyển đối, thuế đất chiếm khoảng 0.95% GDP và 7.2%
tổng thu từ thuế.
(2) Từ môi trường: Trong các nhóm thuế/ phí môi trường, nhìn chung phần

đóng góp từ khu vực giao thông chiếm phần lớn trong tổng doanh thu thuế mà chủ yếu
là từ thuế xăng, dầu diezen và phương tiện gắn máy (ô tô, xe máy khi mua mới phải
đóng thuế môi trường). Có hai xu hướng trong những năm gần đây là việc áp dụng mới
các loại thuế liên quan đến chất thải rắn, đồng thời suất thuế cho chất thải rắn cũng tăng
(do việc quản lý chất thải rắn ngày càng trở nên khó khăn và tốn kém hơn).
Một số loại thuế/phí ô nhiễm môi trường phổ biến bao gồm: phí gây ô nhiễm
không khí, thuế carbon, thuế lưu huỳnh, phí gây suy thoái tầng ôzôn, phí nước thải,
thuế bãi rác (lanfill taxes), thuế xăng dầu, thuế sử dụng khí gas, thuế môi trường khi
tiêu dùng điện, thuế môi trường khi sản xuất điện, thuế môi trường do dùng bếp và
năng lượng sinh học, thuế đăng ký phương tiện ô tô, xe máy, máy bay.
(3) Từ tài nguyên khác: Tất cả mọi quốc gia đều khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên rừng, khoáng sản, thủy sản, nước mặt, nước ngầm để phát triển
kinh tế, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Ở các nước đang phát triển, đặc
biệt là đối với người nghèo, cuộc sống dựa vào thiên nhiên là chính thì những tài
nguyên này càng có vai trò quan trọng (rừng, thủy sản). Như vậy, vai trò quản lý tài
nguyên của khu vực chính phủ rất quan trọng nhằm giúp duy trì được sinh kế lâu
dài, giảm nghèo và sử dụng bền vững tài nguyên.
Thu thuế khai thác tài nguyên là một công cụ đang được sử dụng phổ biến để
đạt các mục tiêu trên. Việc xác định thuế tài nguyên cho từng loại cụ thể nói chung
là khá phức tạp nhưng nguyên tắc chung là dựa trên lợi nhuận mà đơn vị khai thác
thu về, các chi phí xã hội từ việc khai thác tài nguyên và hệ thống quyền tài sản áp
dụng cho từng đối tượng.
Doanh thu từ thuế tài nguyên cũng là một nguồn thu đáng kể tại nhiều quốc
gia đang phát triển hiện nay. Một mặt tạo ra doanh thu cho chính phủ, mặt khác hạn
chế các hành vi khai thác không hiệu quả, tạo ra động lực sử dụng tài nguyên bền
vững hơn. 4
4

Nguồn: www.monre.gov.vn


Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

20

Đại học Kinh tế quốc dân

3.2 Kinh tế hóa có các cơ chế liên quan đến trách nhiệm pháp lý như tiền
phạt, kí quỹ, đặt cọc, bồi thường, hoàn trả, bồi thường thiệt hại
(1) Phạt vi phạm: Tiền phạt là những khoản trả trực tiếp của nguời gây ô
nhiễm khi họ không tuân theo qui định môi trường. Khoản tiền này thường là doanh
thu của các quỹ công (hoặc quĩ môi trường) và được sử dụng vào các dự án và đầu
tư môi trường. Tuy nhiên vấn đề khung phạt như thế nào lại là một vấn đề nhạy
cảm. Phí phạt phải đủ cao để người gây ra tác động ô nhiễm môi trường giảm thiểu
hành vi gây tác hại đến môi trường. Cơ chế này thực tế đòi hỏi việc quan trắc, thanh
tra và cơ chế quản lý tốt.
(2) Ký quỹ: Đây là cơ chế tài chính trong đó một khoản đặt cọc mà người gây
ra ô nhiễm môi trường hay tổn thất tài nguyên phải hoàn trả để cam đoan việc tuân
thủ các yêu cầu về tài nguyên và môi trường. Khoản tiền đặt cọc này sẽ được trả lại
nếu tuân thủ hoàn tất các quy định như đã cam kết.
(3) Bồi thường thiệt hại: Hệ thống này đảm bảo rằng khoản bồi thường sẽ
được trả cho thiệt hại gây ra phát sinh từ hoạt động gây ô nhiễm. Khoản tiền này có
thể trả trực tiếp cho nạn nhân (chịu ô nhiễm) hoặc cho chính phủ hoặc cho một quĩ
đặc biệt (quĩ tràn dầu…).
(4) Hệ thống đặt cọc- hoàn trả: Ý tưởng chính của hệ thống đặt cọc- hoàn trả
là làm cho cá nhân xả thải có trách nhiệm chịu chi phí và có động cơ tái sử dụng và

thu hồi sản phẩm, phế phẩm sau khi đã sử dụng. Trong cơ chế này thì một khoản
tiền đặt cọc thêm vào được chi trả khi mua sản phẩm. Sau đó khoản tiền này sẽ
được trả lại khi sản phẩm đã qua sử dụng được đem trả lại cho nhà sản xuất.
3.3. Lượng giá và buộc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
Trong những năm gần đây lĩnh vực kinh tế môi trường đã nâng cao khả năng
tính toán chi phí kinh tế của việc suy thoái tài nguyên và môi trường. Áp dụng
những thành tựu này nhiều quốc gia đã tiến hành tính toán chi phí thiệt hại do môi
trường gây ra. Bảng 1 tóm tắt lại kết quả của thiệt hai về kinh tế của một quốc gia.

Bảng 1: Thiệt hại môi trường ở một số nước
Quốc gia và năm
Burkina Faso, 1988

Dương Thị Trang

Loại hình thiệt hại môi trường
Suy thoái đất

Chi phí% hàng
năm trong GNP
8.8

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

21

Đại học Kinh tế quốc dân


Costa Rica, 1989
Ethiopia, 1983
Germany, 1990a
Hungary, late 1980s

Phá rừng (Deforestation)
7.7
Phá rừng (Deforestation)
6.0-9.0
Thiệt hại ô nhiễm (Pollution damage)
1.7-4.2
Thiệt hại ô nhiễm (chủ yếu là ô nhiễm
5.0
không khí)
Indonesia, 1984
Suy giảm đất và phá rừng
4.0
Madagascar, 1988
Xói mòn đất
5.0-15.0
Malawi, 1988
Xói mòn đất
1.6-10.9
Chi phi do phá rừng
1.2-4.3
Nigeria, 1989
Suy thoái đất, phá rừng, ô nhiễm nước,
17.4
và các xói mòn khác

Poland, 1987
Thiệt hại ô nhiễm
4.4-7.7
USA, b 1981
Thiệt hại do ô nhiễm không khí
0.8-2.1
1985
Ô nhiễm nước
0.4
Nguồn: (D. Pearce and J. Warford, 1993) World without End: Economics,
Environment, and Sustainable Development. Oxford University Press. P. 28.
Thông qua bảng 1 cho thấy, các quốc gia đã xác định được tỷ lệ chi phí hàng
năm trong GNP do ô nhiễm hay nạn phá rừng và xói mòn đất gây ra, con số này rất
có ý nghĩa cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý tài nguyên và môi trường.
Đây cũng là cơ sở để làm căn cứ xác định đầu tư trở lại cho tài nguyên và môi
trường hướng tới phát triển bền vững.
4. Vai trò của kinh tế hóa ngành tài nguyên môi trường
Nghị quyết số 27-NQ/BCSĐTNMT về đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài
nguyên và môi trường đã khẳng định: “Tài nguyên và môi trường có vai trò thiết
yếu đối với con người, là nền tảng tồn tại và phát triển của xã hội, là đầu vào và
chứa đựng chất thải đầu ra của các hoạt động kinh tế, đóng góp quan trọng cho ngân
sách và tăng trưởng của mọi nền kinh tế…” Nhưng hiện nay vai trò của ngành tài
nguyên và môi trường chưa được đánh giá đúng mức. Giá trị nguồn tài nguyên
khoáng sản nói riêng và các tài nguyên môi trường nói chung chưa được đánh giá
đúng, để dẫn đến lãng phí; lợi nhuận rơi vào một số ít cá nhân doanh nghiệp; ngân
sách quốc gia thất thu; những người tạo ra sản phẩm giá trị không được thụ hưởng
xứng đáng…
Kinh tế hóa ngành có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển
đất nước. Công tác kinh tế hóa, tài chính hóa ngành tài nguyên môi trường, ví dụ từ
đấu giá quyền sử dụng đất chuyển sang đấu giá quyền thăm dò khai thác khoáng


Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

22

Đại học Kinh tế quốc dân

sản, đấu giá mỏ, bán thông tin, dữ liệu… Nếu làm tốt thì ngành này có thể mang lại
nguồn thu cho ngân sách nhà nước tương đương với nguồn thu dầu khí (khoảng
30% ngân sách).
Kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường thúc đẩy việc đổi mới công tác
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường theo hướng thị trường hoá các nguồn tài
nguyên, chủ động vận dụng các quy luật khách quan, khả năng tự điều tiết của kinh
tế thị trường, tăng cường áp dụng các cơ chế, công cụ kinh tế trong quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực tư duy, nghiên cứu và phân tích
kinh tế trong ngành tài nguyên và môi trường.

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

23


Đại học Kinh tế quốc dân

PHẦN II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KINH TẾ HÓA NGÀNH
TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
5 NĂM 2006 – 2010 CỦA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Chủ trương đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường mới được
ban hành vào tháng 12 năm 2009. Tuy nhiên trong giai đoạn xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, kể cả
những giai đoạn trước đó, nhiều hoạt động tuy chưa được gọi tên và điều tra đánh
giá cụ thể nhưng vẫn mang bản chất là kinh tế hóa. Trước hết chúng ta cần xem xét
bối cảnh chung kinh tế hóa ngành trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch 5 năm 2006-2010 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
I. BỐI CẢNH KINH TẾ HÓA NGÀNH TRONG XÂY DỰNG VÀ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2006 – 2010 CỦA BỘ TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG
Trong giai đoạn 5 năm 2006-2010 vừa qua, nền kinh tế nước ta đứng trước
nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng cũng có nhiều thách thức rất lớn.
Được kế thừa những thành tựu phát triển sau 20 năm đổi mới với tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội ổn định; hệ thống pháp luật ngày càng được củng cố, hoàn
thiện; vị thế chính trị của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định
và nâng cao, đất nước bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010 trong giai
đoạn đầu có nhiều thuận lợi to lớn.
Tuy nhiên, từ đầu năm 2008, nền kinh tế vĩ mô nước ta rơi vào tình thế bất
ổn định. Lạm phát gia tăng liên tục và đạt mức cao chưa từng có trong hơn chục
năm trở lại đây. Thâm hụt cán cân thương mại đạt mức kỷ lục cao, dự đoán chiếm
tới hơn 20% GDP. Niềm tin của dân chúng giảm sút; không ít đánh giá bi quan dự
báo một cuộc khủng hoảng tài chính sắp đến. Điều đó càng làm tăng thêm giao
động, giảm lòng tin vào đồng Việt Nam, gây nhiều bất ổn trên thị trường ngoại hối.
Thực trạng kinh tế vĩ mô bất ổn định vào đầu năm 2008 được cho là kết quả của giá

nguyên liệu tăng cao trên thị trường thế giới và những yếu kém nội tại (cả về cơ
cấu, thể chế và chính sách) của nền kinh tế. Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ
đã kịp thời ban hành và triển khai thực hiện hàng loạt các chủ trương, chính sách
với các giải pháp chỉ đạo quyết liệt. Đến nay tình hình chung của đất nước đã từng
bước dần đi vào thế ổn định, đang có nhiều dấu hiệu khả quan cho việc hồi phục
nền kinh tế.

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

24

Đại học Kinh tế quốc dân

1. Những thành tựu chủ yếu
Mặc dù trong giai đoạn 2006 – 2010 gặp nhiều khó khăn nhưng nền kinh tế
vẫn đạt được một số thành tựu nhất định :
Kiềm chế lạm phát, ngăn chặn ảnh hưởng của suy thoái, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm duy trì an sinh xã hội.
Nền kinh tế bị tác động lớn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
thế giới, tốc độ tăng trưởng không đạt được mục tiêu ban đầu đề ra song vẫn có mức
tăng trưởng khá. Trừ ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của suy thoái
kinh tế thế giới, các ngành và lĩnh vực khác nhìn chung đều đạt được những tốc độ
phát triển nhất định. Sơ bộ tính toán ban đầu, quy mô nền kinh tế GDP năm 2010
tính theo giá so sánh tăng khoảng 2 lần so với năm 2000.
Huy động được nhiều nguồn lực phục vụ cho đầu tư phát triển, trong đó

nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn đầu tư của kinh tế tư nhân đều tăng
cao. Cơ cấu đầu tư có sự chuyển dịch tích cực, tập trung hơn cho những mục tiêu
quan trọng về phát triển bền vững kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.
Mặc dù nền kinh tế bị nhiều ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và kinh tế
thế giới song công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội vẫn đạt những
kết quả tích cực, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Quan hệ quốc tế được mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai thực
hiện tốt, vị thế chính trị của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được khẳng
định và nâng cao.
Chính trị giữ vững, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được bảo đảm,
hiệu lực; hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường một bước, cải cách hành
chính và phòng chống tham những đạt nhiều kết quả.
2. Những mặt còn hạn chế
Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, mức
tăng trưởng kinh tế không đạt được mục tiêu đã đề ra; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
còn chậm, chưa đạt mức mong muốn, triển khai không đồng đều.
Việc thể chế hóa chủ trương phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa còn nhiều bất cập, chưa bắt kịp những yêu cầu của xã hội.
Hiệu quả công tác đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế, làm
giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

25


Đại học Kinh tế quốc dân

Tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra khá phổ biến. Môi trường vẫn tiếp tục
bị xuống cấp nhanh do ý thức người dân và doanh nghiệp, cũng như công tác bảo vệ
môi trường còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế đặt ra.
Những thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế nói chung gây ra những ảnh
hưởng không nhỏ đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm 20062010 của Bộ Tài nguyên và môi trường nói chung và một số hoạt động kinh tế hóa
ngành nói riêng.
II. THỰC TRẠNG KINH TẾ HÓA NGÀNH TRONG XÂY DỰNG VÀ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM 2006 – 2010 CỦA BỘ TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG
1. Thực trạng kinh tế hóa trong xây dựng kế hoạch 5 năm 2006 – 2010
của Bộ Tài nguyên và Môi trường
Kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường với bản chất là quá trình chuyển
đổi, đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước phải có những thay đổi cơ bản trong cơ chế
quản lý, con người và tổ chức, phương thức điều hành nền kinh tế, đảm bảo giải
quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế trên cơ sở vận dụng các quy luật khách
quan của nền kinh tế thị trường… Trong xây dựng kế hoạch 5 năm 2006 -2010
ngành đã đạt được một số kết quả như sau:
1.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về quản lý tài
nguyên và môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường là Bộ đa ngành có chức năng giúp Chính phủ
thực hiện chức năng thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên đất, nước, khoáng
sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc bản đồ, biển và hải đảo. Do vậy Bộ đã
xác định việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu trong việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước; đã bám sát
và kịp thời cụ thể hoá, thể chế hoá các chủ trương và đường lối, chính sách của
Đảng, của Nhà nước; đã nghiên cứu, tạo ra những cơ chế nhằm phối hợp, gắn kết
chặt chẽ giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với các Bộ, ngành và các địa phương

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tổng số văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành trong thời
gian 2006 - 2010 là 264 văn bản; trong đó văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là 179; số lượng văn bản trình Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ là 74; số văn bản trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc
hội là 11. Cụ thể từng năm như sau:

Dương Thị Trang

Khoa Kế hoạch và phát triển


×