Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CÁC bài văn cảm NGHĨ về tác PHẨM TRONG NGỮ văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.89 KB, 27 trang )

Đề bài:Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp
bê” của Khánh hoài
Bài làm
Quyền trẻ em là một vấn đề gây nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi các em đều là
những đứa trẻ mong manh, dễ tổn thương, cần sự bao bọc và chở che của gia đình.
Nhưng hiện nay một thực tế đau lòng là cha mẹ chia xa, gia đình tan vỡ, cuộc đời các
em sang trang mới. Truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh
Hoài đã khiến người đọc không kìm được xúc động về hai nhân vật có trong truyện.
Không phải vô cớ tác giả đặt tên truyện là “Cuộc chia tay của những con búp bê”,
hẳn là có nguyên do. Bởi rằng búp bê là những thứ vô tri vô giác nhưng lại gắn bó với
tuổi thơ của những đứa trẻ. Khi “búp bê” chia tay cũng là lúc những đứa trẻ đó rơi vào
nỗi đau đớn không thể thấu. Và cuộc chia tay của Thành và Thủy trong tuyện ngắn
“Cuộc chia tay của những con búp bê”. Cách chọn ngôi kể của tác giả cũng tạo nên ấn
tượng và xúc động mạnh của truyện ngắn, cứa vào lòng người đọc nhiều nhức nhối về
vấn đề quyền trẻ em.
Thành và Thủy là hai anh em rất mực yêu thương, đùm bọc, chở che cho nhau từ
tấm bé. Tình cảm đó được biểu hiện qua nhiều chi tiết như hồi lớp Năm, có lần Thành
đi đá bóng bị rách áo, chính Thủy đã đem kim chỉ ra sân để vá cho anh. Một biểu hiện
thật bình dị, giản đơn nhưng đượm tình nghĩa. Hai anh em đi học cũng luôn đi cùng
nhau “vừa đi vừa trò chuyện”.
Khi bố mẹ bỏ nhau, hai anh em phải mỗi người một nơi, nỗi đau hiện lên từng khuôn
mặt đến ngạt thở. Thủy “khóc nức nở, tức tưởi” trong khi Thành thì “cắn chặt môi để
khỏi bật lên tiếng khóc to, nhưng nước mắt cứ tuôn ra như suối, ướt đẫm cả gối”.
Những giọt nước mắt đó chứa đầy sự đau đớn và tủi nhục khi gia đình tan vỡ.
Tác
giả đã khiến người đọc không kìm được xúc động khi đọc những câu văn thẫm đẫm
nước mắt này.
Khi mẹ bảo hai anh em chia đồ chơi thì ai cũng nhường cho người kia, vì dương
như những con búp bê và cả hai anh em đều không muốn chia xa. Khi Thành chia đôi
hai con búp bê Vệ Sĩ và Em nhỏ cho hai anh em thì Thủy đã có những hành động mâu
thuân, trái ngược nhau. Một mặ Thủy nghĩ rằng “anh ác”, nhưng mặt khác lại lo lắng vì


sợ không có người “gác đêm cho anh”. Một cô bé giàu tình cảm, yêu thương anh tha
thiết và chân thành.
Điều bất ngờ là ở cách giải quyết của Thủy, để hai con búp bê lại cho anh. Haicon
búp bê sẽ mãi mãi không xa nhau, anh trai cũng không sợ thấy ma mỗi đêm. Người
đọc xúc động trước cử chỉ và suy nghĩ đầy tình yêu này của Thủy. Có thể nói đây là
chi tiết đắt mà tác giả đã xây dựng. Một tình cảm vị tha thật đáng ngưỡng mộ.
Khi tác giả kể về khoảng khắc Thủy chia tay lớp, thực sự người đọc không kìm
được cảm xúc của mình nữa. Khi cô giáo tặng Thủy quyển sổ và cây bút thì Thủy
không dám nhận vì em sẽ không được đi học nữa, vì “mẹ em sẽ sắm cho em một
thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán”. Chi tiết này khiến cô giáo “tái mặt và nước mắt
giàn giụa”. CŨng chi tiết này phản ảnh thực tế đau lòng của những đứa trẻ khi bố mẹ
chia tay nhau, cuộc sống của những đứa trẻ rơi vào bế tắc, không lối thoát. Trách
nhiệm của bố mẹ đã không hoàn thành khi để những đứa con của mình không được
đến trường nữa.
Khung cảnh chia tay lớp học của Thủy là khung cảnh ám ảnh người đọc, một đứa
trẻ đang tuổi ăn tuổi học lại phải lăn lộn kiếm sống. Thật đau lòng.


Tác giả đã tái hiện lại quang cảnh sau khi hai anh em rời khỏi trường “Thành kinh
ngạc khi thấy mọi người đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật”.
Mọi thứ vẫn như vậy nhưng gia đình của hai anh em đã không còn vẹn nguyên, mỗi
người một nơi. Cuộc sống càng ngày càng khắc nghiệt với những đứa trẻ đáng ra
được hưởng hạnh phúc.
Khánh Hoài với giọng văn nhẹ nhàng, da diết và đầy day dứt đã khiến cho người đọc
cảm nhận được nỗi đau, sự mất mát bao trùm lên tác phẩm. Số phận của những đứa
trẻ trong một câu chuyện hôn nhân tan vỡ sẽ như thế nào?
-------------------------------------------------------------------------------------------Đề bài: Cảm nghĩ sâu sắc của ban thân sau khi học xong bài cuộc chia tay của
những con búp bê
Cuộc chia tay của những con búp bê đã thể hiện được tình cảm mạnh mẽ giữa anh
em ruột, sự chia tay đầy đau đớn kèm theo những tình cảm xót xa khiến con người

dường như có rất nhiều suy nghĩ về tình cảm gia đình, và có suy nghĩ đúng đắn về nó.
Câu chuyện đã nói về cuộc chia tay của hai anh em, anh phải theo cha, em theo
mẹ về quê, anh em đã phải chia cách nhau, những thứ mà trước đây họ chung với
nhau giờ đây cũng phải được sẻ chia và có những tình cảm chung với những đồ vật
đó, nhưng rồi những tình cảm đó lại không bị phai nhạt, khi chia tay những cảm xúc
xúc động đã khắc họa mạnh mẽ trong hai con người này, nó dường như đang bị hoàn
cảnh tác động một cách mạnh mẽ nhất, mỗi chúng ta khi nhìn vào cuộc chia tay này
cũng thấm thoát và hiểu được giá trị của tình yêu thương, tình cảm của hai anh em
keo sơn gắn bó da diết đến vô ngần, mỗi chúng ta đều có thể nhìn thấy điều đó qua
những hình ảnh rất xúc động, khi phải chia tay mỗi người một nơi, tình cảm dường
như bị chia cắt, những nỗi đau mà cha mẹ gây nên khiến cho con cái của họ lại phải
hứng chịu.
Sự chia cắt đó tạo ra những nỗi đau đớn trong tâm hồn hai đứa trẻ này, tác giả đã
rất thành công khi nói về cuộc chia tay của những con búp bê, bởi những hình ảnh về
đồ vật chơi hàng ngày đều là những vật dụng đã gắn bó với những đứa trẻ này từng
ngày, nó như những người bạn gắn bó và da diết vô cùng với nhau, hình ảnh đó đã
mạng nặng những yếu tố tâm lý tình cảm của mỗi con người. Tâm hồn trẻ thơ rất dễ bị
tổn thương, và những điều mà cha mẹ chúng đã làm nên mà chúng là những người
trực tiếp bị ảnh hưởng đó thực sự là những nỗi đau đớn và bất hạnh vô cùng, tình cảm
đó dường như đang bị rạn nứt, tình cảm anh em bị chia cắt và nỗi đau đó sẽ thấm vào
tâm hồn non dại của chúng thật đau đớn và xót xa biết bao.
Câu chuyện này không chỉ nói về sự chia cắt của hai đứa trẻ mà hình ảnh con búp
bê nó còn biểu tượng cho điều đó, những tình cảm gắn bó giữa hai anh em và hình
ảnh những con búp bê cùng đôi cùng cặp chúng luôn luôn được xếp cùng với nhau
nay lại bị chia cắt mỗi người một phương, hình ảnh đó đã thể hiện một sự thật rất đau
đớn, anh em gắn bó nhưng nay lại bị chia cắt và tình cảm đó dường như đang bị kéo
xa hơn bởi cha mẹ của họ, và những con búp bê đang quay quần cùng nhau nay cũng
chia cắt mỗi người một nơi.
Hình ảnh biểu tượng đó đã thể hiện một cuộc chia cắt đầy xót xa và đau đớn, nó khiến
cho người đọc có nhiều suy nghĩ và cảm xúc, chúng ta chắc hẳn ai ai cũng cần phải có

những suy nghĩ đúng đắn và chín chắn về việc này, tình cảm của cha mẹ đã làm ảnh
hưởng đến tâm hồn con nhỏ, và nó đang làm đau đớn trái tim của những trẻ thơ, sự


xót xa đó mang lại những nỗi đau đớn và xót xa đến vô ngần, tình cảm của mỗi người
đều mang nặng những cảm xúc và những xót xa đó.
Người đọc chắc hẳn khi đọc xong tác phẩm này đều có lòng thương xót cho tình
cảm của những đứa trẻ này khi nó bị chia cắt và tình cảm của hai người đang bị tách
ra mỗi người, tình cảm đó đã bị hoàn cảnh và đặc biệt là những người làm cha làm mẹ
chúng gây ra, việc cha mẹ làm lại khiến cho nhưng đứa trẻ vô tội này phải hứng chịu
đó thật là những việc đau đớn và xót xa đến vô cùng, tình cảm của những người anh
người em với nhau đã được gắn bó từng ngày, tình cảm đó chân thành và vô cùng
đáng quý nhưng nay nó lại bị những yếu tố ngoài xã hội chi phối và cướp đi tình cảm
chân thành và đáng quý đó.
Trong bài nó cũng thể hiện những nỗi buồn đau và không muốn chia cắt của hai
đứa trẻ, một gia đình đang ấm cúng và có đầy đủ cha mẹ và những người con nhưng
nay nó lại bị ảnh hưởng và chi phối bởi những yếu tố do cha mẹ họ gây nên đây thực
sự là nỗi đau không thể nào khuôn nguôi trong tâm hồn của những đứa trẻ thơ. Tình
cảm đó đã để lại những suy nghĩ sâu sắc và thấu tình đạt lý trong tâm hồn của mỗi
con người.
Mỗi chúng ta đều cần phải có cái nhìn đúng đắn về tình cảm gia đình, và nên chịu
trách nhiệm trước những quyết định và hành động do mình gây ra không nên để
những đứa trẻ thơ phải chịu những đau đớn do họ để lại đó thật là một nỗi buồn không
thể nào khuôn nguôi được.
Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ về bài văn Cuộc chia tay của những con
búp bê (Khánh Hoài).
I.

1.


DÀN Ý
Mở bài:

– Truyện ngắn Cuộc chia tay của những con búp bê của tác giả Khánh Hoài được
trao giải Nhì cuộc thi viết về thiếu nhi do Viện khoa học giáo dục và Tổ chức cứu trợ
trẻ
em
Thụy
Điển
tổ
chức
năm
1992.
– Nội dung truyện đề cập đến những vấn đề bức xúc của gia đình và xã hội, cụ thể
là nạn li hôn dẫn tới sự tan vỡ gia đình và nỗi bất hạnh của trẻ thơ.
2.

Thân bài:

*
Nỗi khổ tâm của hai anh em Thành và Thủy khi cha mẹ li hôn:
+ Thành: Đau lòng khi nghĩ đến chuyện phải chia tay với đứa em gái yêu quý.
– Suốt đêm, nghe tiếng khóc tức tưởi của em, Thành phải cắn chặt môi để khỏi bật
lên tiếng khóc, nhưng nước mắt cứ tuôn ra như suối, ướt đầm cả gối và hai cánh tay
áo.
– Cố giấu kín nỗi buồn, rón rén đi ra ngoài, ngồi xuống gốc cây hồng xiêm. Thấy em
gái theo ra thì thương em vô cùng, kéo em ngồi xuống và khẽ vuốt lên mái tóc.
– Chua chát nghĩ rằng cảnh vật vẫn vui tươi như mọi ngày mà sao tai họa lại giáng
xuống
đầu

hai
anh
em
nặng
nề
như
vậy.
– Những kỉ niệm đẹp đẽ, cảm động của tình anh em ruột thịt hiện lên rõ ràng trong
tâm
trí
càng
làm
cho
Thành
đau
đớn.
– Lúc phải chia đôi đồ chơi theo lệnh của mẹ, Thành nhường tất cả cho em gái.


+ Thủy: Tủi thân và hoảng sợ trước cảnh ngộ éo le của gia đình.

Biết
tin
bố
mẹ
li
hôn,
Thủy
khóc
suốt

đêm.
– Nghe mẹ ra lệnh chia đồ chơi, Thủy bất giác run lên bần bật, kinh hoàng đưa cặp
mắt tuyệt vọng nhìn anh. Cặp mắt… buồn thăm thẳm, hai bờ mi đã sưng mọng lên vì
khóc
nhiều.

Thấy anh ra vườn, Thủy len lén ra theo, ngồi nép bên cạnh anh…
– Lúc chia đồ chơi, thay anh đặt hai con búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ ra hai phía, Thủy
giận dữ mắng: Sao anh ác thế? Bởi bé không muốn chúng phải xa nhau.
– Cô bé thương anh, nhường cả cho anh hai con búp bê và bắt anh hứa không bao
giờ
để
chúng
ngồi
cách
xa
nhau.
*
Ao
ước
của
hai
anh
em
Thành

Thủy:
– Mãi mãi được sống bên nhau cùng cha mẹ, dưới mái ấm gia đình hạnh phúc.
– Mong cho hai con búp bê cũng không bao giờ phải xa nhau.
3.


Kết bài:

– Truyện mang tính xã hội rất cao. Tác giả khẳng định li hôn là một vấn đề nhức
nhôi, gây ra những hậu quả đau lòng mà con cái phải gánh chịu.
– Cuộc chia tay đầy đau đớn giữa hai đứa trẻ trong truyện có ý nghĩa nhắc nhở,
cảnh báo mọi người: Gia đình là tổ ấm hạnh phúc vô cùng quý giá nên phải cố gắng
giữ gìn, bảo vệ nó.


Tính chân thực, nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế khiến người đọc xúc động.

-------------------------------------------------------------------------------------------------Phát biểu cảm nghĩ về bài văn Cuộc chia tay của những con búp bê Khánh Hoài
Tác phẩm mang tên là Cuộc chia tay của những con búp bê, nhưng mạch chính của
truyện kể về hai bạn nhỏ - hai anh em ruột trong một gia đình khá giả - phải chia tay
nhau vì hạnh phúc gia đình đổ vỡ, bố mẹ li hôn. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất.
Người xưng "tôi" trong truyện (Thành) là người chứng kiến các việc xảy ra, cũng là
người cùng chịu nỗi đau như em gái (Thuỷ) của mình. Cách chọn ngôi kể này giúp tác
giả thể hiện được sâu sắc tình cảm, tâm trạng của nhân vật, nhất là nỗi lòng người kể
chuyện. Thêm nữa, kể chuyện theo cách này, tác phẩm mang tính chân thực cao và
do vậy, sức thuyết phục cũng cao hơn. Đọc truyện ngắn này, người đọc - nhất là lớp
trẻ chúng ta - hiểu ra và suy ngẫm được nhiều điều về nỗi đắng cay trong cuộc đời và
những tình người đằm thắm, nhân hậu, nhất là tình anh em ruột thịt.
Bố cục của truyện gồm ba phần, mạch lạc và chặt chẽ : 1. Mẹ bắt hai anh em Thành Thuỷ chia đồ chơi. Đây là cuộc chia tay thứ nhất, trong đó có câu chuyện về hai con
búp bê, con Vệ Sĩ và con Em Nhỏ. 2. Thành đưa em đến lớp chào, rồi chia tay cô giáo
và các bạn. Đây là cuộc chia tay thứ hai, cuộc chia li đẫm nước mắt. 3. Thành và Thuỷ
thực sự phải chia tay nhau. Thành ở lại, Thuỷ theo mẹ về quê. Búp bê Vệ Sĩ ở lại. Búp
bê Em Nhỏ về quê. Nhưng việc bất ngờ đã xảy ra. Thuỷ quay lại đưa cho Thành con
búp bê Em Nhỏ để nó mãi mãi ở bên con Vệ Sĩ, "con Em Nhỏ quàng tay vào con Vệ
Sĩ"... Như vậy là những con búp bê bé nhỏ, hồn nhiên kia không bao giờ phải chia li,



cũng như tuổi thơ của Thành và Thuỷ không bao giờ muốn chia li. Nghệ thuật bố cục
của nhà văn Khánh Hoài thật tài hoa, đáng học tập. Cách bố cục ấy hài hoà với những
chi tiết, những hình ảnh và ngôn ngữ kể chuyện đã thể hiện biết bao nội dung, ý nghĩa
của tác phẩm. Trước hết, chúng ta thấy tình anh em ruột thịt của Thành và Thuỷ thật
đằm thắm, trong trẻo. Hai anh em họ rất mực gần gũi, thương yêu, chia sẻ cho nhau
mọi buồn vui, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong mọi công việc. Thấy áo anh
rách, Thuỷ mang kim chỉ ra tận sân vận động vá áo cho anh. Thương anh đêm hay
ngủ mê gặp ma, Thuỷ đã "vẽ trang" cho con Vệ Sĩ đặt đầu giường, gác cho Thành ngủ
ngon. Rồi Thuỷ nhường tất cả búp bê cho anh,... Còn Thành thì, đáp lại tấm lòng hiển
thảo, vị tha của em, cũng đã làm nhiều việc tốt, vì em. Thành giúp em học tập. Chiều
nào Thành cũng đón em đi học về, dắt tay nhau vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Khi mẹ
bắt phải chia đồ chơi, Thành đã nhường hết cho em. Sau dó Thành lại cùng em đến
trường để em được chào và chia tay cô giáo, chia tay bạn bè,... Trong quan hệ anh,
em giữa Thành và Thuỷ xảy ra một việc thật cám động. Đó là việc chia đồ chơi, chia
hai búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ. Thấy anh lấy hai con búp bê đặt sang hai phía, Thuỷ
bỗng "tru tréo lên giận dữ", nói : "Sao anh ác thế !". Thành nói : "Anh cho em tất cả",
rồi đặt con Vệ Sĩ vào cạnh con Em Nhỏ giữa đống đồ chơi của Thuỷ. Cặp mắt Thuỷ
dịu lại, như có vẻ bằng lòng. Nhưng chợt nghĩ ra điều gì, em lại kêu lên : "Nhưng... lấy
ai gác đêm cho anh ?"... Như vậy, lời nói và hành động của Thuỷ trước việc này
dường như đầy những mâu thuẫn. Lúc đầu, em không muốn hai con búp bê chia tay
nhau. Em "tru tréo lên", nghĩa là em kêu to lên, gắt gỏng, tỏ ý tức giận, trách Thành "ác
thế". Nhưng sau, khi thấy anh trai để hai búp bê ớ bên nhau theo ý muốn của mình
thì... Thủy lại cũng "kêu lên", nghĩa là cũng không đồng ý cách giải quyết của anh, vì
như thế thì "lấy ai gác đêm cho anh". Rõ ràng, ở đây có điều éo le, trái ngược, đối lập
nhau giữa sự thật - búp bê phải chia tay, hai anh em phải chia tay, niềm vui tuổi trẻ bị
chia cắt - và tình anh em gắn bó, tấm lòng vị tha của đứa em nhỏ với người anh thân
yêu. Sự thật cuộc đời thật cay đắng mâu thuẫn với tình người ngọt ngào, êm dịu. Đưa
ra tình huống này, tác giả thiên truyện muốn gợi lên trong lòng bạn đọc những suy

nghĩ lắng sâu và đợi chờ câu trả lời của bạn đọc. Vậy, muốn giải quyết mâu thuẫn này
thì làm thế nào ? Có lẽ cách tốt nhất là gia đình Thành - Thuỷ phải đoàn tụ, hai anh em
không phải chia tay nhau, búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ cũng không phải chia tay nhau.
Cuối truyện, nhà văn kể một chi tiết thật thoả đáng : Thuỷ quay trở lại đặt con Em Nhỏ
bên cạnh con Vệ Sĩ để chúng không bao giờ xa nhau. Hành động này của Thuỷ gợi
cho người đọc lòng mến trọng đối với Thuỷ, mến trọng một em bé gái giàu lòng vị tha,
rất thương anh, thương những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp
bê phải chia tay, thà mình chịu thiệt thòi để anh luôn có con Vệ Sĩ gác cho giấc ngủ
được ngon lành. Xây dựng chi tiết kết thúc truyện như thế, nhà văn muốn nhắn gửi tới
mọi người rằng : cuộc chia tay của các em nhỏ là rất vô lí, là không nên có, không nên
để nó xảy ra. Ý tưởng ấy nhắc nhỡ những người cha, người mẹ. Ý tưởng ấy cũng chia
sẻ nỗi khao khát cháy bỏng của tuổi thơ chúng ta: tuổi thơ phải được hạnh phúc, tuổi
thơ không muốn chia tay,... Tiếp sau những chi tiết, tình huống biểu hiện tấm lòng và


hành động cao đẹp của tình anh em Thành - Thuỷ, nhà văn kể vé tình thầy trò, tình
bạn, cũng bằng những chi tiết, tình huống truyện thật cảm động. Khi biết Thuỷ đến
chào để chia tay, cô giáo Tâm đã "ôm chặt lấy em", như khôn" muốn chia tay. Còn bạn
bè của Thuỷ thì "cả lớp sững sờ... khóc thút thít", rồi mấy đứa bạn thân bỏ chỗ ngồi,
nắm chặt lấy tay Thuỷ như chẳng muốn rời,... Nhưng điều khiến mọi người sửng sốt
nhất là lúc nghe Thuỷ nói: "Nhà bà ngoại em ở xa trường lắm. Mẹ em bảo sẽ sắm cho
em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán". Điều đó nghĩa là sau cuộc chia tay thầy và
bạn này, cô bé đáng thương sẽ không được đi học nữa, sẽ bị ném ra cuộc đời kiếm
sống, sẽ vĩnh viễn mất niềm vui của tuổi học trò... "Trời ơi !", cô giáo đã kêu lên, tái
mặt và nước mắt giàn giụa. Lũ bạn nhỏ của Thuỷ cũng khóc, mỗi lúc một to hơn. Đọc
đến chi tiết này, sống mũi ai mà không cay cay, nước mắt ai mà không rơm rớm...
Chúng ta vừa cảm động trước tình cảm thầy trò, bè bạn của cô giáo và các em học
sinh lớp cửa Thuỷ, vừa thêm xót thương cảnh ngộ éo le của anh em, gia đình Thành Thuỷ. Kể lại cuộc chia tay đẫm nước mắt ấy, Thành đã tâm sự : "Ra khỏi trường, tôi
kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh
vật". Tại sao lại như thế ? Phải chăng, Thành thấy "kinh ngạc" vì : trong khi mọi việc

đểu diễn ra bình thường, cảnh vật vẫn êm đẹp, cuộc đời vẫn bình yên, thì... hai anh
em và gia đình Thành phải chịu sự mất mát, đổ vỡ quá lớn ? Nói cách khác, Thành
ngạc nhiên vì : trong tâm hồn mình đang nổi dông bão vì sắp phải chia lìa đứa em thân
thương, thế mà bên ngoài, mọi người và trời đất vẫn không có gì thay đổi. Đây là một
tình huống trớ trêu, đối chọi giữa nội tâm và ngoại cảnh. Cũng là một diễn biến tâm lí
được tác giả miêu tả rất hài hoà, tương tự như một đoạn ở phần đầu truyện : Trong khi
hai anh em Thành ngồi dưới gốc cây hồng xiêm, lòng buồn rười rượi, thì "Đằng đông,
trời hửng dần. Những bông hoa thược dược trong vườn đã thoáng hiện trong màn
sương sớm và bắt đầu khoe bộ cánh rực rỡ của mình. Lũ chim sâu nhảy nhót trên
cành và chiêm chiếp kêu...". Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, tạo vật đẹp đẽ, vô tư,
bình thản trước cảnh ngộ bất hạnh của con người làm tăng thêm nỗi buồn sâu thẳm,
trạng thái thất vọng, bơ vơ, lạc lõng của nhân vật trong truyện. Nghệ thuật ấy, chúng ta
ít thấy trong văn thơ trung đại... Qua câu chuyện này, tác giả Khánh Hoài muốn nhắn
gửi đến mọi người điều gì ? Rõ ràng tên truyện là Cuộc chia tay của những con búp
hê, nhưng đây lại là chuyện về con người, của con người. Cuộc chia tay đau đớn và
đầy cảm động của hai em bé trong truyện khiến người đọc thấm thìa rằng: tình cảm
gia đình, hạnh phúc gia đình vô cùng quý giá và quan trọng. Mọi người hãy cố gắng
háo vệ và giữ gìn, không nên vì bất kì lí do gì để làm tổn hại đến những tình cảm tự
nhiên, trong sáng ấy, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Và một mạch ngầm nữa của văn
bản phải chăng là: Tuổi thơ không biết và không bao giờ mong muốn chia li?
--------------------------------------------------------------------------Đề bài:Cảm nghĩ về bài ca dao “Người ta đi cấy lấy công….Trời êm biển lặng
mới yên tấm lòng”
Bài làm


Trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam, có rất nhiều lời ca tiếng hát cất lên nói hộ
tấm lòng của con người. Có thể nói đó là nơi giãi bày tình cảm, tâm tư, nguyện vọng
thầm kín nhưng chân thành nhất. Mỗi lời ca là một nỗi niềm khác nhau về nguyện ước
trong cuộc sống. Bài ca dao:
Người ta đi cấy lấy công

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
Đây là bài ca dao nói lên nguyện ước của người nông dân về thời tiết mưa thuận gió
hòa để cuộc sống đỡ nhọc nhằn, vất vả hơn.
Mở đầu bài ca dao là cụm từ “người ta” như chỉ những người khác xung quanh mình.
Việc đi cấy là việc làm thường xuyên của người nông dân mỗi khi đến mùa vụ. Đi cấy
có thể là cấy cho mình và cấy cho người. Những người thợ đi cấy chỉ việc cấy và “lấy
công” khi đã xong việc, không phải bận tâm, lo lắng bất cứ điều gì. Đây là công việc
mà người phụ nữ phải làm, phải lo lắng chăm sóc cho cây mạ tốt tươi để cấy xuống
đồng có thể phát triển nhanh nhất.
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Người ta” và “tôi” hoàn toàn khác nhau về hoàn cảnh, chỉ giống nhau về công việc. Khi
người ta không phải lo lắng gì khi cấy xong thì “tôi” lại phải “còn trông nhiều bề”. Việc
cấy lúa đâu phải là việc một sớm một chiều, cấy xong rồi để đó. Mà ngược lại cấy
xong còn phải đắn đo suy nghĩ xem thời tiết, thiên nhiên như thế nào, có thuận theo
lòng người hay không. Từ “bề” được người xưa dùng rất đúng, rất hợp với hoàn cảnh.
Đó chính là trăm nỗi lo, trăm nỗi buồn phiền của người nông dân sau khi cấy lúa xong.
Hai câu này gợi lên hình ảnh một người phụ nữ biết nghĩ chu đáo, biết phán xét, suy
nghĩ cho nhưng điều có thể xảy ra sau khi cấy xong. Đó chính là tầm nhìn của người
nông dân, tầm nhìn sâu sẽ gắn với nỗi lo dài và triền miên.
Những câu ca dao sau đã khái quát đến nỗi lo, sự “trông” của người nông dân:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Có thể thấy rằng ấn tượng khi đọc hai câu này lên chính là điệp từ “trông” được lặp đi
lặp lại 7 lần chỉ trong hai câu thơ. Điệp từ này có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh,
đồng thời liệt kê những nỗi lo mà người nông dân đang phải bồn chồn, suy nghĩ. Sau

mỗi từ “trông” sẽ gắn với một nỗi lo. Là lo trời, lo đất, lo mây, lo mưa, lo nắng, lo ngày,
lo đêm. Những nỗi lo này cứ chồng chất, triền miên, kéo đến với nhau cùng một lúc.
Chỉ mong sao cho thời tiết, cho đất trời có thể chiều theo lòng người, để cho vụ mùa
có thể tươi tốt hơn. Có thể nói niềm mong ước bình dị này của người nông dân thật
chân thật và đáng trân trọng.
Và nỗi lo của người nông dân như chững lại ở hai câu cuối:
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
“Chân cứng đã mềm” là một thành ngữ chỉ sức mạnh, ý chỉ của con người. Dù cho khó
khăn, vất vả, cực nhọc thì cũng sẽ cố gắng vượt qua. Dù phải đánh đổi, phải cực nhọc
cũng sẽ quyết tâm trải qua. Đây là một ý chí thực sự đáng quý, đáng trân trọng biết
bao.


Chỉ trong hai câu ca dao nhưng dùng đến hai thành ngữ, có thể thấy rằng nỗi mong
ước, khát vọng mưa thuận gió hòa, thiên nhiên ủng hộ, thời tiết hòa thuận thì người
nông dân mới có thể “yên tấm lòng” được.
Có thể thấy rằng quá trình làm ra hạt gạo không bao giờ là điều dễ dàng, đó là cả một
quá trình gian nan, không chỉ phụ thuộc vào người làm mà còn phải phụ thuộc vào
thiên nhiên thời tiết. Qua đây chúng ta càng thêm trân trọng tấm lòng và sự cần mẫn,
chăm chỉ của người nông dân. Trân quý hơn những hạt gạo mà họ đã làm ra.
Đề bài:Phân tích bài Xa ngắm thác núi Lư của Lí Bạch
Bài làm
Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng đời Đường với phong cách thơ phóng khoáng, thể hiện
một tâm hồn yêu tự do, yêu thiên nhiên. Những hình ảnh trong thơ ông luôn khiến
người đọc cảm nhận được sự trong lành và kì vĩ. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” là một
bài thơ đẹp như vậy, nói lên tình yêu thiên nhiên của Lí Bạch đồng thời ca ngợi sự kì
vĩ của thiên nhiên.
Bài thơ đã thể hiện được sự cảm nhận tinh tế và đầy táo bạo về hình ảnh thác núi Lư.
Về phiên âm:

Nhật chiếu Hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trục há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Về phần dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dài Ngân hà tuột khỏi mây.
Phần nhan đề của bài thơ đã nói lên không gian, tầm ngắm của tác giả bằng từ ‘xa” và
“ngắm”. Tác giả đứng từ xa và ngắm nhìn vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao của dòng thác núi Lư kì
vĩ, mênh mông. Chính nhan đề bài thơ đã nói lên sự tinh tế và đầy tài hoa của Lí Bạch.
Đứng ở phía xa không thể nhìn một cách tỉ mỉ từng cảnh, từng vật nhưng lại có cái
nhìn bao quát và tổng thể nhất. Ông đã lấy lợi thể có điểm nhìn này để vẽ lên một bức
tranh toàn cảnh tuyệt vời nhất.
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Một câu thơ cất lên đầy chất thơ, đầy chất thi vị, ánh nắng như đan cài, hòa vào dòng
thác kì vĩ , lớn lao như vậy. Dưới ngòi bút của Lí Bạch, thiên nhiên hiện lên sống động
và thật lớn lao. Ông đã miêu tả vẻ đẹp của dòng thác trước ánh nắng mặt trời, sự
phản quang của nắng đã khiến cho dòng nước chuyển thành màu tía lung linh huyền
ảo. Đây thực sự là điểm mới trong cách đánh giá thiên nhiên của Lí bạch.
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
Nhưng hình thơ thơ táo bạo và đầy sức hút, giống như một bức tranh đẹp đứng chênh
vênh một một vách núi hiểm trở. Hình ảnh thác nước hiện lên kì vĩ và vô cùng lớn lao.
Ở câu thơ thứ hai, phần dịch thơ đã đánh mất chữ “quải”: so với phần dịch thơ nên sự
gợi hình, gợi tượng của câu thơ không còn cuốn hút nữa. Như thế mới có thể thấy
được trí tưởng tưởng của nhà thơ thật tuyệt vời mà tinh tế.



Người đọc có thể hình dung được trong bức tranh này có núi cao hiểm trở, có sườn
dốc chênh vênh, và có cảnh thác nước “bay thẳng xuống”.
Một hình ảnh thơ quá đẹp, quá tuyệt vời khi Lí bạch cảm chừng như “nước bay thẳng
xuống ba nghìn thước”. Với động từ mạnh “bay thẳng” đã khẳng định được vẻ đẹp kì
vĩ, lớn lao, hùng vĩ và có phần hiểm trở của thiên nhiên nơi đây.
Tác giả đã lấy một con số cụ thể để ước lệ tượng trưng cho chiều dài của dòng thác.
Con số ấy còn gợi lên một vẻ đẹp kì vĩ, hiểm trở, tạo cảm giác ớn lạnh cho người đọc.
Và chính người đọc như cảm nhận được dòng thác như đang đổ xuống ngay trước
mặt mình.
Câu thơ cuối có thể nói là câu thơ đầy ấn tượng đối với người đọc. Sự tinh tế và sự
liên tưởng độc đáo của nhà thơ đã tạo nên một hình ảnh cực kì “độc” và “lạ”. Không
phải nhà thơ nào cũng có vốn từ phong phú như vậy để tạo nên hình ảnh thơ mới mẻ
như thế.
Tưởng dài Ngân Hà tuột khỏi mây
Câu thơ lấp lánh một vẻ đẹp huyền ảo, hư hư thực thực cứ đan cài, quyện chặt lấy
nhau tạo nên một bức tranh đậm chất thơ. Tác giả ví thác nước như dải Ngân Hà. Một
so dánh kì lạ và đầy mới mẻ. Từ ‘tuột” được Lí Bạch sử dụng rất đắc điệu và làm tốt
vai trò của mình trong việc chuyển thể nội dung của bài thơ. Câu thơ cuối được coi là
điểm nhấn, mà “mắt nhãn” của cả bài thơ vì đã nói lên được cái hồn, cái thần thái của
cả bài thơ. Hình ảnh này khiến người đọc thán phục trước tài năng thơ, tài năng ngôn
ngữ và tài năng liên tưởng của Lí Bạch.
Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” thực sự là một bài thơ có hình ảnh đep, kì vĩ và lớn lao.
Thiên nhiên trong thơ Lí bạch luôn phóng khoáng và kì vĩ như chính con người của
ông.
Đề bài:Cảm nghĩ của em sau khi học xong “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch
Bài làm
Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa với những vần thơ lãng mạn, trữ tình bay
bổng khiến người đọc như chìm đắm trong một không gian vừa thanh tịnh vừa gần gũi
nhất. Và trăng là biểu tượng chủ đạo trong thơ ông với vẻ đẹp viên mãn, nhưng vương

nhiều nỗi niềm, bởi nó gắn bó với những năm tháng ấu thơ của ông. Bài thơ “Tĩnh dạ
tứ” được sáng tác trong hoàn cảnh tha hương, bắt gặp một đêm trăng đẹp khiến nỗi
nhớ quê trong ông lại bùng cháy lên mãnh liệt. Bài thơ chính là tiếng lòng nhẹ nhàng,
sâu lắng và đầy âu lo.
Bài thơ được lấy cảm hứng từ một đêm trăng nơi đất khách quê người và một nỗi nhớ
quê da diết không thể diễn tả thành lời. Cảm xúc bỗng nhiên ùa về miên man theo ánh
trăng, đan xen vào đó là sự trằn trọc và thao thức khi ánh trăng rọi qua khung của sổ:
Đầu giường ánh trăng roi
Ngỡ mặt đất phủ sương
(Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương)
Nhắc đến Lí Bạch, người ta thường nghĩ đến cảnh thưởng rượu dưới trăng, tức cảnh
sinh tình; nhưng hoàn cảnh này lại khác hẳn. Hai câu thơ đầu có đan xen giữa hiện
thực và tưởng tượng. Hiện tượng trăng rọi vào đầu giường xuyên qua khung cửa sổ là
cảnh tác giả có thể thấy. Có lẽ đêm trăng đó quá đẹp, quá ấn tượng trong một đêm
thanh tịnh như vậy khiến cho tác giả bồn chồn, trằn trọc không thể chợp mắt được.
Ánh trăng len lỏi vào đầu giường khiến tác giả có một phép so sánh đầy tinh tế “Ngỡ


măt đất phủ sương”. Ánh trăng chiếu rọi xuống mặt đất vào buổi tối khiến tác giả có
cảm giác như măt đất đang bị bao phủ bởi một lớp sương trắng và mỏng tang. Có lẽ
cam xúc trong trái tim của Lí Bạch đang tràn ra như chính ánh trăng chiếu rọi xuống
mặt đất như bây giờ.
Chỉ với hai câu thơ nhưng phần nào đã vẽ lên được một đêm trăng nhẹ nhàng, trong
không gian tĩnh lặng và sự lãng mạn, huyền ảo như bao trùm lấy. Cảm xúc của tác giả
cũng vì thế là tự bung ra, da diết, bâng khuâng về những điều thân quen đã qua.
Ánh trăng giống như một người bạn lâu ngày không gặp, cảm xúc vừa vui mừng, vừa
buồn vu vơ, vừa có một nỗi nhớ nào đó đã bắt đầu nhen nhóm lên. Và dòng cảm xúc
bỗng nhiên tràn ra ở hai câu thơ cuối:
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương
(Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương)
Câu thơ thứ nhất là một phép đối lập đầy dụng ý nghệ thuật và mang ý nghĩa sâu sắc.
Hai từ “ngẩng” và “cúi” đối lập nhau nhưng lại có ý nghĩa bổ trợ cho nhau.
Cử chỉ “ngẩng đầu” nhìn trăng sáng thì “cúi đầu” lại nhớ về cố hương. DƯờng như
ánh trăng chính là chất xúc tác để cho nỗi nhớ cứ thế tuôn trào ra mãnh liệt. “Cố
hương” trong câu thơ này khiến cho người đọc nghẹn ngào ở trong lòng, vì nó gợi
nhắc đến những điều xưa cũ, những con người xưa cũ ở mảnh đất cũ. CỐ hương
thực ra là quê cũ, là quê hương bao nhiêu năm rồi thi sĩ chưa kịp trở lại. Bây giờ bỗng
nhiên những hình ảnh về “cố hương” cứ hiển hiện khiến trái tim của Lí Bạch thấy chua
xót và nghẹn ngào không nguôi.
Một nỗi nhớ quê nhẹ nhàng, miên man nhưng da diết và day dứt biết nhường nào. CHỉ
với 4 câu thơ theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt cô đọng hàm súc nhưng tác giả vừa vẽ lên
một bức tranh đêm trăng tuyệt đẹp vừa khơi gợi nên nỗi nhớ đã giấu kín ở trong trái
tim mình ở nơi đất khách quê người. Nỗi nhớ ấy len lỏi sang tâm hồn người đọc khiến
cho họ cũng cảm thấy có một nỗi nhớ nào vừa ngang qua đây.
Với tứ thơ giản dị, ngôn ngữ bình dân và cảm xúc chân thành, bài thơ “TĨnh dạ tư” của
Lí Bạch đã thực sự khiến người đọc cảm nhận được những xúc cảm tinh tế nhất. Có
lẽ vì thế người ta mới nói thơ Lí Bạch càng đọc càng ngấm, càng thấm.
Đề bài:Hình ảnh người phụ nữ trong bài thơ “Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương
Bài làm
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ hiếm hoi trên thi đàn văn học Việt Nam có nhiều tác
phẩm được lưu truyền cho đến ngày nay. Với phong cách sáng tác hiện đại, cá tính,
phong khoáng, Hồ Xuân Hương đã khiến người đọc khâm phục tài năng. Bà viết
nhiều, viết sâu sắc về phụ nữ Việt nam thời kì phong kiến. Bài thơ “Bánh trôi nước” là
một bài thơ ẩn dụ về hình ảnh người phụ nữ.
Bài thơ “Bánh trôi nước’ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tứ thơ cô dọng nhưng
có nội dung sâu xa. Có lẽ cũng chính vì thế mà người ta gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm”
với những câu thơ hàm súc nhưng ý kiến quá sắc sảo.

Hồ Xuân Hương đã lựa chọn “bánh trôi nước” làm hình ảnh trung tâm, biểu tượng cho
người phụ nữ Việt nam trong xã hội phong kiến:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Chỉ với 1 câu thơ nhưng Hồ Xuân Hương đã miêu tả quá chi tiết hình dáng, màu sắc
của chiếc bánh trôi. Bánh trôi là loại bánh dân dã, gắn liền với đời sống của nhân dân.


Tác giả đã dùng từ “thân em” để chỉ chiếc bánh trôi có chăng là ẩn dụ về chính bản
thân mình. Có rất nhiều cách để viết hay, viết đẹp hơn nữa nhưng Hồ Xuân hương lại
chọn cách viết thật, viết đúng, viết sâu như thế này. “Vừa trắng lại vừa tròn” không
phải là chuẩn mực của cái đẹp nhưng lại rất phúc hậu. Chiếc bánh trôi trắng và tròn
cũng giống như hình dáng của người phụ nữ hiền lành, điềm đạm và khỏe mạnh.
Đến câu thơ thứ 2 là quá trình nấu bánh:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Câu thơ đã khái quát được đầy đủ cách nấu chín bánh trôi trong dân gian. Nhưng hai
từ “nổi” và ‘chìm’ dường như gợi nhắc sự bếp bênh, trôi nổi vô định của chiếc bánh
trôi, hay của chính cuộc đời người phụ nữ. Số từ “ba, bày’ để ám chỉ nhưng sóng gió,
những long đong, lận đận mà người phụ nữ phải trải qua.
Xã hội phong kiến đầy áp bức, bóc lột, hành hạ người phụ nữ đến thê thảm. Họ thấp
cổ bé họng nên không dám kêu ai, không dám than ai vì có ai thấu, có ai hiểu đâu.
Câu thơ thứ 3 dường như là sư phó mặc vào người làm bánh, hay chính là phó mặc
cho xã hội đầy bất công;
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Phụ nữ sống trong thời kì phong kiến luôn lép vế, phải cam chịu và đầu hàng số phận.
kệ người ta xô, mặc người ta đẩy mà không dám ké răng nửa lời. Họ không dám đấu
tranh, không dám đòi công bằng. Từ “mặc” trong câu thơ như khẳng định một sự phó
mặc đến não nề, và còn thấp thoáng sự bất cần. Vậy nhưng đọc câu thơ này, chúng ta
vẫn nhận ra được một chút chống cự qua từ “mặc” nhưng nó không quá nổi bật. Chỉ là
Hồ Xuân Hương là người phụ nữ không chịu khuất phục nên thơ bà cũng không chịu
khuất phục như vậy.

Mặc dù bị chà đẹp, bóc lột nhưng tâm hồn người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn son sắt
Mà em vẫn giữ tâm lòng son
Dẫu cho cuộc đời nghiệt ngã, bạc bẽo và bất công như thế nào thì sự son sắt và thủy
chung của người phụ nữ vẫn luôn là phẩm chât cao đẹp, đáng trân trọng. Hồ Xuân
hương đã khám phá ra một nét đẹp hiếm thấy của phụ nữ Việt Nam. Tâm hồn thanh
khiết, tấm lòng son không hề bị vướng bận.
Hồ Xuân Hương với sự tài tình trong ngôn ngữ và đặc biệt lối nói ẩn dụ độc đáo đã
vén màn cho người đọc thấy xã hội phong kiến nhiều bất công, thối nát. Người phụ nữ
phải chịu sự đè nén nhưng vẫn giữ được trái tim thủy chung, son sắt.
CÔN SƠN CA VÀ CẢNH KHUYA
Đọc Bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi ta bỗng nhớ đến Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
và đọc Cảnh khuya của Hồ Chí Minh, ta liên tưởng đến Bài ca Côn Sơn của Nguyễn
Trãi. Vì sao vậy? Phải chăng hai kiệt tác thi ca là nơi gặp gỡ của hai tâm hồn nghệ sĩ
lớn?
Mở đầu hai tác phẩm nổi tiếng này là hai bức tranh thiên nhiên diễm lệ. Cả hai bức
tranh ấy đều được phác hoạ bằng nét vẽ đầu tiên đầy ấn tượng: tiếng suối chảy rì
rầm, êm đềm và thơ mộng, lãng mạn và quyến rũ:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
(Bài ca Côn Sơn )
Tiếng suối trong như tiếng hát xa


(Cảnh khuya)
Trong cảnh thanh tĩnh của núi rừng, âm thanh của tiêng suối gợi bao cảm xúc. Nó tha
thiết như chính thiên nhiên đang vẫy gọi. Nhà thơ của chúng ta bỗng thấy dạt dào cảm
hứng. Họ lắng nghe và cảm nhận tiếng suối chảy không chỉ bằng thính giác mà bằng
cả tâm hồn mình- một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao và lãng mạn. Tiếng suối chảy róc
rách hay chính Đất Trời đang dạo nhạc để cho lòng người ngất ngây?
Hai hình ảnh so sánh thật đẹp, thật độc đáo. Nó giống như hai anh em sinh đôi vậy.

Chỉ khác là với Nguyễn Trãi thì tiếng suối là tiếng đàn cầm, còn với Hồ Chí Minh thì
tiếng suối lại là tiếng hát. Dù là tiếng đàn hay tiếng hát thì nó cũng là âm nhạc. Nhạc
trời hay nhạc rừng? Hay chính bản nhạc yêu đời, yêu cuộc sống đang ngân lên trong
tâm hồn thi nhân? Chẳng biết vì sao mà hai nhà thơ ở hai thời đại cách xa nhau như
thế lại có chung một cảm nhận. Chao ôi, sự cảm nhận của thi nhân mới tinh tế làm
sao! Phải yêu thiên nhiên biết chừng nào, phải hoà hợp, gắn bó sâu sắc với thiên
nhiên biết nhường nào mới có thể có những liên tưởng thú vị như thế, mới viết được
những câu thơ hay như thế.
Ta hãy du ngoạn tiếp vào hai bức tranh thiên nhiên để khám phá hết vẻ đẹp kì thú của
nó.
Ở bức tranh Côn Sơn của Nguyễn Trãi, ta chiêm ngưỡng một miền khoáng đạt, thanh
tĩnh, nên thơ. Cùng với tiếng suối chảy rì rầm là hình ảnh của những rừng thông mơ
màng, những rừng trúc xanh mát che ánh nắng mặt trời, tạo khung cảnh cho thi nhân
ngâm thơ nhàn một cách thú vị:
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có trúc bóng râm,
Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(Bài ca Côn Sơn)
Ở bức tranh núi rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh, ta chứng kiến một cảnh nên thơ
không kém: ánh trăng sáng lung linh, in bóng cây cổ thụ tạo thành một tấm thảm hoa:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Thật là hữu tình, nhất là cái tình của thi nhân. Đối với họ, thiên nhiên như là mảnh đất
vẫy gọi, là khát khao trở về với chính mình. Chẳng thế mà Nguyễn Trãi viết:
Dưới núi bao giờ lều sẽ dựng
Đá kê đầu ngủ, suối pha trà
Và Hồ Chí Minh đã từng tâm sự: Phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non
xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa.

Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn như trở về nhà mình, tìm đến miền tự do khoáng đạt để
cho lòng tĩnh lặng lại, thư thái lại sau bao nhiêu cay đắng của cuộc đời chông gai sóng


gió mà ông nếm trải. Vì thế trong Bài ca Côn Sơn, ta bắt gặp một Nguyễn Trãi đang
sống những giây phút thảnh thơi, đang thả hồn mình vào cảnh trí thiên nhiên, bầu bạn
với thiên nhiên; một Nguyễn Trãi rất mực thi sĩ.
Hồ Chí Minh lại khác, ông đến Việt Bắc tuy vẫn là trở về nhà mình, nhưng không phải
là về để thảnh thơi uống rượu đánh cờ, thưởng nguyệt vịnh thơ, mà về để bận rộn
hơn, lo toan, gánh vác giang sơn xã tắc, dựa vào núi rừng để xây dựng chiến khu lảnh
đạo kháng chiến:
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Dù trở về thiên nhiên với tư cách nào đi chăng nữa nhưng ở họ vẫn chói ngời lên vẻ
đẹp của nhân cách và tâm hồn; nhất là tâm hồn thi sĩ dể ngàn đời sau vẫn còn được
chiêm ngưỡng những toà tháp nghệ thuật mà họ xây nên.
--------------------------------------------------------------------------------------------Đề bài: Phân tích - Bình luận bài thơ Sông núi nước Nam Bài làm Ông cha ta kể rằng:
Năm 1076, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai
Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sồng Như Nguyệt (một khúc của
sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh). Bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe
từ trong đền Trương tướng quân (thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát là hai
vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt) có tiếng thơ
ngâm vẳng ra:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư.
Đó là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt theo thể Đường luật, nguyên văn chữ Hán. Chúng ta
có thể đọc bản dịch thơ như sau :
Núi sông Nam Việt vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chưa xác định ai là tác giả bài thơ. Vì bài thơ được
vọng ra từ một đền thờ linh thiêng có tác dụng khích lộ quân dân ta quyết tâm chiến
đấu chống giặc, nên người dời gọi dây là bài "Thơ Thần". Bài thơ không có tên. Để
tiện ghi nhớ, nhiều người đặt tên là bài Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam). Như
vậy, từ hoàn cảnh ra đời, đến việc tiếp nhận, truyền bá, việc tìm tác giả, việc đặt tên,
tác phẩm thơ này đậm chất huyền thoại, linh thiêng. Đó không còn là tiếng nói của con
người, mà âm vang tiếng thánh thần, không còn là suy ngẫm cảm xúc của một người -


tác giả - mà là trí tuệ, tâm hồn của cả dân tộc Việt Nam xưa cũng như nay.
Nói bài thơ làm theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt vì mỏi câu thơ gồm bảy tiếng
(bảy chữ, đọc ra bảy âm), cả bài gồm bốn câu. Trong bài thơ, câu 1, 2, 4 vần với nhau
ở tiếng cuối : đế cư, thiên thư, bại hư. Ba tiếng bắt vần với nhau đều là vần bằng,
thanh không. Ở bản dịch thơ, ba tiếng cuối câu 1, 2, 4 cũng vần với nhau : ở, sở, vỡ,
khác với bản nguyên tác là người dịch dùng vần trắc, hai thanh "hỏi, ngã", nhưng vẫn
đúng luật thơ, đọc lên ta vẫn thấy xuôi tai, mang âm điệu của thơ trung đại, hài hoà
cân đối. Bài thơ Nam quốc sơn hà là tác phẩm thiên về biểu ý, ý tướng lộ rõ trong các
nghĩa của ngôn từ (kiểu nghị luận). Còn nội dung biểu cảm thì "ẩn kín" sau các lớp ý
nghĩa, đòi hỏi người đọc phải nhạy cảm, vừa hiểu ý thơ vừa suy ngẫm, liên tướng,
tưởng tượng để đồng cảm với tác giả, rung động cùng hồn thơ.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Nước Nam là của người Nam ở. Điều hiển nhiên đó đã được sách trời ghi rõ, xác
định rõ. Ở câu đầu, ta chú ý hai chữ "Nam đế". Nam đế là hoàng dế nước Nam, hiểu
là "vua nước Nam". Tại sao tác giả không dùng chữ "Nam vương", cũng có nghĩa là
"vua nước Nam" ? Bởi vì, trong quan niệm của những kẻ thống trị phong kiến phương
Bắc, thì chỉ có vua của họ mới được phép xưng là "đế". Họ tự cho mình là "thiên tử"
(con trời), hơn tất cả các vị vua ở các xứ sở khác. Dùng chữ "Nam đế", tác giả Nam

quốc sơn hà biểu hiện một niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Đằng sau câu thơ, ta như
nghe được một tiếng nói mạnh mẽ, kiêu hãnh : Phương Nam ta cũng có đế, bình
đẳng, ngang hàng với phương Bắc, không kẻ nào được phép coi thường. Sau câu thứ
nhất vừa sáng ngời ý tưởng vừa dạt dào cảm hứng tự hào, đến câu sau tiếp tục ý
tướng và cảm hứng ấy. "Tiệt nhiên định phận tại thiên thư" mang âm trầm hùng, rắn
chắc như một lời khẳng định dứt khoát. Hai chữ cuối "thiên thư" nghĩa là "sách trời, ý
của trời", tiếp tục nhấn mạnh một lẽ đương nhiên, ngày nay ta gọi là chân lí, là lẽ phải.
Như vậy, về nội dung "biểu ý", hai câu thơ đầu khẳng định chủ quyền đất nước, quyền
độc lập, bình đẳng của dân tộc ta. Đồng thời từ ý nghĩa, từ âm điệu và ngôn ngữ thơ
toát ra niềm tự hào, kiêu hãnh, thái độ hiên ngang, tư thế ngẩng cao đầu của tác giả
bài thơ, của cả dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Hai câu sau :
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư. Nội
dung biểu ý cũng thật rõ ràng: kẻ thù kia, không được xâm phạm. Nếu xâm phạm tới,
chúng bay sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. Lời lẽ và âm điệu rắn đanh lại, vừa nêu một
phán đoán, vừa cảnh cáo bọn ngoại xâm. Nghe được lời thơ này, hẳn quân dân ta những con người đã ý thức được chủ quyền đất nước, tin ở luật hiển nhiên của tạo
hoá, tin ở "sách trời" - sẽ vô cùng phấn khởi, càng thêm niềm tin và quyết tâm xốc tới,
tiêu diệt kẻ thù. Còn bọn ngoại xâm phi nghĩa, khi nghe những lời này - lời thơ, lời
thánh thần truyền dạy, - hẳn sẽ không thế yên lòng. Chúng sẽ hoang mang, nghĩ tới
tương lai, số phận "thủ bại hư", sự thất bại tất yếu phải nhận lấy. Lời thơ khác nào lời
kêu gọi, truyền hịch, truyền niềm tin, niềm phấn khởi cho quân ta, dồng thời cũng là lời
cảnh cáo, lời báo hiệu, gieo sự hoang mang, hoảng hốt tới quân thù. Cũng giống hai
câu thơ trên, hai câu thớ cuối bài này đã hài hoà ý tưởng với tình cảm, tính "biểu ý" hài
hoà tính "biểu cảm". Tính biêu ý nổi rõ trên bề mặt ngôn từ, còn tính biểu cảm ẩn sâu
trong chữ nghĩa, trong nhạc diệu và trong sự cảm nhộn, liên tưởng suy đoán tự nhiên
của người đọc. Bài thơ Nam quốc sơn hà chính là tiếng nói, ý thức và tình cảm của cả
dân tộc Việt Nam trong thời điểm lịch sử quyết liệt, một mất một còn trước hoạ ngoại



xâm ở thế kỉ XI. Bài thơ khích lệ những đối tượng cụ thể. Đó là dân tộc Việt Nam, từ
người cầm quân cao nhất là nhà vua đến các tướng lĩnh, quân sĩ và tất cả những
người dân bình thường nhất. Đồng thời, bài thơ cũng gián tiếp nhằm vào bọn giặc
Tống xâm lược lúc bấy giờ. Với dân tộc Việt Nam, người sáng tác, người ngâm thơ
khích lệ, động viên, còn với bọn ngoại xâm, thì lên án, cảnh cáo nghiêm khắc. Do đó,
Nam quốc sơn hà được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dàn tộc ta. Ở đây
thể hiện chân lí lớn lao nhất, thiêng liêng nhất : đất nước Việt Nam là của người Việt
Nam, không kẻ nào được xâm phạm, xâm phạm sẽ bị thất bại. Thơ viết bằng chữ Hán,
có nhiều từ Hán Việt, nhưng không quá khó. Nếu biết suy ngẫm cẩn thận, chúng ta
vẫn hiểu được tư tưởng, để rồi cộng hưởng với những tình cảm của cha ông, càng
thêm yêu mến, tự hào về dân tộc ta, một dân tộc yêu nước thiết tha, không bao giờ
chịu cúi đầu trước kẻ thù xâm lược. Và chúng ta cũng hiểu được rằng đây là tiếng nói
mở đầu, bởi sau này dân tộc ta còn có những bản tuyên ngôn khác, hào hùng hơn,
vang
dội
hơn...
------------------------------------------------------------------------------------------------------------Đề bài: Phân tích - Bình luận bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải Bài làm
Trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên xâm lược đời Trần, Thượng
tướng Trần Quang Khải đã lập được nhiều chiến công to lớn. Sau chiến thắng Hàm
Tử, rồi chiến thắng Chương Dương năm 1285, trong ngày vui đất nước được giải
phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về kinh đô. Trên đường đi, ông đã hứng
khởi sáng tác bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư. Bài thư nguyên văn bằng chữ Hán, theo
thể Đường luật ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt hay. Tuy
tác phẩm thuộc loại biểu ý là chính, nhưng đằng sau những ý tưởng lớn lao vẫn dạt
dào biết bao cảm xúc sâu lắng. Đây là khúc khải hoàn dầu tiên của dân tộc ta trong
cồng
cuộc
kháng
chiến
chống

ngoại
xâm.
Trước thời đại nhà Trần, dân tộc ta từng đã nhiều lần đánh tan bọn giặc ngoại xâm.
Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa dược đọc, được nghe một tác phẩm
văn chương nào viết về chiến thắng, hoan ca khúc khải hoàn. Do đó, bài thơ Phò giá
về kinh của vị thượng tướng - thi sĩ không những có tính lịch sử mà còn có giá trị văn
chương. Chúng ta hãy đọc nguyên tác bài thơ phiên âm chữ Hán :
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
Và đọc bản dịch thơ của Trần Trọng Kim :
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.


Bố cục tác phẩm gổm hai phần khá mạch lạc. Hào khí chiến thắng được thể hiện ở hai
câu đầu:
Chương Dương cướp giảo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Tìm hiểu lịch sử, biết rằng trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên đời
Trần, quân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là
chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhung Trần Quang Khải chí nói tới hai chiến thắng
ở Chương Dương và Hàm Tử. Tại sao ? Phải chăng đây là hai chiến dịch tiêu biểu, có
tính quyết định dể giành thắng lợi cuối cùng ? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, xa
giá nhà vua và cá triều đình sau thời gian sơ tán, tạm lánh về nông thôn, được trở về
kinh đô, vui lắm, phân khởi lắm, đáng làm thơ, đáng ca hát lắm ? Trong thực tế, chiến
thắng Hàm Tử diễn ra trước (tháng 4 năm 1285), chiến thắng Chương Dương sau

(tháng 6 năm 1285). Tại sao tạc giả nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử ?
Đây cũng là câu hỏi thú vị. Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng, ở chiến thắng trước - Hàm
Tử - người chỉ huy là tướng Trần Nhật Duật, còn Trần Quang Khải chi tham gia hỗ trợ.
Còn tại Chương Dương, Thượng tướng Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp
chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó đón nhà vua về kinh. Niềm vui
chiến thắng, đi liền niềm vui được "phò giá" dồn dập nối tiếp nhau lay động trí tuệ và
tâm hồn. Có lẽ vì thế trong phút ngẫu hứng, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới
Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch Chương Dương
và Hàm Tử, quân dân ta đã chiến đấu vô cùng dùng cảm, khí thế trận mạc vô cùng sôi
động, thành tích chiến đấu vô cùng phong phú,... Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai
câu thơ ngấn gọn, mười âm tiết. Ở mỗi chiến thắng, cũng dúc lại bằng hai từ : "đoạt
sáo" (cướp giáo), "cầm Hồ" (bắt quân Hồ). Cần chú ý câu thơ nguyên tác "đoạt sáo".
"Đoạt" nghĩa gốc là "lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác". Như
vậy, dùng từ "đoạt sáo", nhà thơ vừa ghi chiến công vừa ngợi ca hành động chính
nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Bản dịch dùng từ "cướp giáo" làm giảm phần nào
vẻ đẹp của chiến thắng. Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí quân
giặc. Còn ở Hàm Tử, ta bắt được quân tướng của chúng. Mỗi chiến dịch một thành
tích khác nhau, bổ sung cho nhau, thật hài hoà, toàn diện. Trong chiến trận, chắc có
thương vong, quân giặc chắc bị ta tiêu diệt, giết chết, đuổi chạy khá nhiều. Nhưng lời
thơ khống nói tới cảnh máu chảy, đầu rơi, mà chỉ nhắc hai hành động "đoạt sáo", "cầm
Hồ". Cách nói ấy nhẹ mà sâu, biểu hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta không
phải là chém giết mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải quy thuận, trả lại non
sông, đất nước cho ta. Câu thơ dồn nén, biểu ý rắn khoẻ. Nhưng nhịp thơ, âm điệu
vẫn toát ra niềm vui, niềm tự hào phơi phới. Đọc thơ, ta có cảm giác vị thượng tướng
ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi giữa đoàn quân chiến thắng vừa sang sảng cất tiếng
ngâm thơ. Tiếng ngâm lan truyền và được ba quân nối tiếp, trở thành khúc ca hào
hùng vang động núi sông. Đúng là khúc khải hoàn ca. Xuống hai câu dưới, âm điệu
thơ như lắng lại. Nhà thơ suy nghĩ về tương lai đất nước :



Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về ngày mai của đất nước, cũng là lời nhắn
nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng, của một người đã trở thành ý
nghĩ, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao trách nhiệm,
cố gắng "tu trí lực", tức là rèn luyện, tu dưỡng tài nâng, sức lực. Đồng thời ông động
viên quân dân "gắng sức, đồng lòng" phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất
nước thanh bình bền vững dài lâu. Câu thơ kết "Vạn cổ thử giang san" vừa chỉ ra cái
đích đi tới của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một
tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ
biểu cảm. Lời răn dạy hài hoà với niềm tin, niềm hi vọng. Ba năm sau khi bài thơ Tụng
giá hoàn kinh sư ra đời, vào tháng 4 năm 1288, trong buổi tế thần tại Chiêu Lăng (lăng
vua Trần Thái Tông), đức vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng đọc hai câu thơ :
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng)
Phải chăng hai câu thơ trên của nhà vua đã đồng vọng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh
sư của Thượng tướng Trần Quang Khải ? Và phải chăng đấy cũng chính là hào khí
của cả dân tộc ta thời đại nhà Trần, mà sau này người đời gọi là Hào khí Đông A ?
Hào khí Đông A nghĩa là thế nào ? Đông A là chiết tự tên họ Trần, gồm hai chữ : chữ
Đông ghép với chữ A trong Hán tự. Hào khí Đông A là lòng yêu nước, niềm tự hào dân
tộc, là khí thế, quyết tâm lớn lao của quân dân đời Trần trong sự nghiệp chống ngoại
xâm và xây dựng đất nước thanh bình, bền vững. Hào khí Đông A không chỉ là tư
tướng, tâm hồn của con người mà còn là nội dung tư tưởng, là âm hưởng bao trùm
trong rất nhiều tác phẩm thơ văn Việt Nam thời nhà Trần, thế kỉ XII, XIII. Trở lại với bài
thơ Phò giá vê kinh của Trần Quang Khải, ta thấy bài thơ thật ngắn gọn, hàm súc, biểu
ý sâu sắc, biểu cảm dạt dào. Trong bài thơ có nhiều từ Hán Việt, nhưng khá quen
thuộc với chúng ta ngày nay, như : "Chương Dương độ, Hàm Tử quan, thái bình, trí
lực, vạn cổ, giang sơn". Do đó, đọc thơ, chịu khó tìm tòi, suy ngẫm, chúng ta hiểu

được và rung cảm được với ý thơ, hồn thơ của tác giả - người sống cách chúng ta gần
một ngàn năm. Nếu ta gọi bài thơ Sông núi nước Nam là bản Tuyên ngôn độc lập đầu
tiên, thì cũng có thể coi Phò giá về kinh là khúc khải hoàn ca đầu tiên trong lịch sử
chống ngoại xâm và trong lịch sử văn học Việt Nam. Bằng hình thức diễn đạt cô đúc,
dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng, bài thơ Phò giá về kinh đã thể hiện hào khí
chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần.
--------------------------------------------------------------------------


Đề bài: Cảm nhận bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến Bài làm Tình bạn là
một trong số đề tài có truyền thống lâu đời trong lịch sử văn học Việt Nam. Bạn đến
chơi nhà là một bài thơ thuộc loại hay nhất trong đề tài tình bạn và cũng thuộc loại hay
nhất trong thơ Nguyễn Khuyến nói riêng, thơ Nôm Đường luật nói chung.
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta ! Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan viết Qua Đèo
Ngang, Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ Bạn đến chơi nhà theo thể thất ngôn bát cú
Đường luật với sự phối hợp thanh điệu, vần điệu, bổ cục, đối xứng, số tiếng, số câu
rất hài hoà. Đây cũng là bài thơ viết bằng chữ Nôm, dùng từ ngữ thuần Việt giản dị,
dân dã mà rất đỗi trong sáng, thanh cao. Trong và thanh hơn cả là một tấm lòng chân
thành đôi với bạn. Nhà thơ như muốn nói với bạn và với tất cả chúng ta rằng : Tình
bạn,
tình
người
cao

hơn
của
cải.
Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui :
Đã bấy lâu nay, bác tới
nhà Cụm từ bấy lâu nay chứng tỏ người bạn của nhà thơ từ lâu rồi chưa đến thăm nhà
thơ. Và cũng chứng tỏ việc hôm nay bác tới nhà thật là quý báu, rất đáng mừng, đáng
vui, đáng... mở tiệc đãi bạn để thoả lòng mong nhớ, thoả tình nghĩa cố nhân. Lời thơ
tự nhiên, như lời nói thường mà vẫn toát lên tình cảm mừng vui chân thành của một
người bạn. Sáu câu tiếp theo, từ câu 2 đến câu 7, thơ chuyển giọng, từ giọng vui sang
giọng kể và miêu tả. Nhà thơ kể về gia cảnh của mình: vợ con đi vắng, chợ ở xa, ao
sâu không đánh được cá, vườn rộng, không bắt được gà, rau cải quá non, cây cà mới
nhú nụ, giàn bầu, giàn mướp cũng chỉ nụ với hoa... Tất cả đểu thiếu vắng, trống trơn
không có thứ gì gọi là... "để đãi bạn". Thậm chí miếng trầu để vào chuyện theo tập
quán quê hương "Miếng trầu là đầu câu chuyện" cũng không có nốt. Lời thơ cứ nhỏ
nhẹ, chân chất, thật thà mà hóm hỉnh, vừa như để thanh minh với bạn, vừa để giới
thiệu cảnh sống thanh bần của gia đình mình. Nếu chú ý giọng điệu thơ và cách dùng
từ ngữ của Nguyễn Khuyến, ta sẽ thấy, đằng sau cái nghèo thiếu, hiện hữu như vẫn
ẩn chứa, hứa hẹn một cuộc sống giàu có, phong lưu. Ngắm lại cửa nhà của cụ Tam
Nguyên ấy, ta thấy, cụ đâu có cô độc, nhà đâu có quá heo hút. Cụ vẫn có vợ con, trẻ
già, gia đình vẫn có thể đi chợ mua bán. Nhà vẫn có ao sâu nuôi cá, lại có vườn rộng
nuôi gà, nhà gieo được cải, trồng được cà, có giàn bầu, giàn mướp,... Tất cả đang sẵn
sàng, thịt cá không thiếu, rau quả đang non tơ mơn mởn. Có điều - bác ơi, đúng dịp
bác đến thì... gia cảnh nhà tôi chẳng có gì gọi là xứng đáng để đãi bác ! Đằng sau


những câu thơ kể thực, tả thực kia như thầm thì những tiếng thanh minh, hóm hỉnh vui
đùa của Nguyễn Khuyến. Nói khác đi, nhà thơ đã nói rất khéo léo, rất sang trọng về sự
nghèo thiếu của mình. Trong nghèo thiếu, con người không bi quan, than thớ, trái lại
vẫn bình thản để giãi bày, tìm sự cảm thông, chia sẻ. Do đó, đến câu kết của bài thơ,

âm điệu và ngôn từ bỗng thay đổi, thân mật và ngọt ngào:
Bác
đến chơi đây, ta với ta! Bao nhiêu nghèo thiếu, bao nhiêu lúng túng, ngượng ngùng
bỗng tan đi hết, để cho tình bạn, tình người thăng hoa. Mọi của cải vật chất đều khồng
còn ý nghĩa gì nữa. "Bác đến chơi đây, ta với ta" là đủ, là điểu mà tôi cần nhất, tôi khát
khao, trông chờ nhất. Cụm từ ta với ta trong bài thơ này của Nguyễn Khuyến gợi nhớ
đến cụm từ ta với tư trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, về ngôn
ngữ, hai cụm từ đó hoàn toàn giống nhau. Nhưng về ý nghĩa thì chúng rất khác nhau.
Đại từ ta trong thơ Thanh Quan dùng để nói chính nhà thơ, nói về một "cái tôi" riêng lẻ
thầm kín buồn lặng, cỏ đơn. Hai chữ ta nhưng chỉ là một nghĩa. Còn ta trong thơ
Nguyễn Khuyến là nói về hai người, nhà thơ và bạn. Nói về hai murời bằng một âm
của một đại từ nhân xưng như thế, cụ Yên Đổ đã ca ngợi một tình bạn gắn bó, thân
mật tường không thể tách rời, chia đôi. Thêm nữa, cụm từ ta với ta gắn với mấy tiếng
trước Bác đến chơi đây và đặt sau những dòng thơ kể sự thiếu thốn vật chất bỗng
như một tiếng cười xoà bật lên, thật là vui vẻ. Rõ ràng, tình bạn, tình người là quý
nhất, cao hơn của cải, vật chất. Kết cấu thơ và cách dung từ, chơi chữ của nhà thơ
đất Hà Nam thật tài hoa. Tóm lại, bài thơ được tạo ý bằng cách dựng lên một hoàn
cảnh không có gì khi bạn đến chơi, để rồi hạ một câu kết: "Bác đến chơi đây ta với ta",
nghe như một tiếng cười xoà, mà từ dó ấm lên một tình bạn đậm đà, hồn nhiên, dân
dã, bất chấp mọi điều kiện. Từ tình bạn, bài thơ còn ẩn chứa một triết lí sâu xa: Tinh
người cao hơn của cải. Lời thơ thuần Việt, giản dị, trong sáng và thật là nhuần nhi, dễ
hiểu

dễ
thuộc.
------------------------------------------------------------------------------Đề bài: Cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan Bài làm
Cùng với các nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm..., Bà Huyện Thanh Quan đã góp
phần làm vinh dự cho nền văn học trung đại Việt Nam chúng ta. Bà Huyện Thanh
Quan sáng tác không nhiều, nhưng là một tài danh hiếm có.
Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có bài Qua Đèo Ngang

nổi tiếng và rất quen thuộc với bạn đọc:
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,


Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân dứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thuộc thể Đường luật
thất ngôn bát cú (mỗi câu bảy tiếng, mỗi bài tám câu) với thanh điệu, vần điệu, bố cục,
dối xứng rất hài hoà, tự nhiên, đúng niêm luật, đọc lên nghe xuôi tai, rất dễ thuộc, dễ
nhớ. Lướt qua một lần từ câu chữ mở đầu đến kết thúc, chúng ta nhận ra bài thơ đẹp
như một bức tranh vẽ lại một vùng non nước miền Trung đất Việt hùng vĩ, mà hoang
sơ, gợi cảm. Câu mở đầu cho ta biết cảnh Đèo Ngang hiện lên vào lúc xế tà, nắng
nhạt. Cảnh vật gồm : cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, vài chú
tiều. Đường nét, màu sắc, chi tiết thưa thoáng, nhẹ nhàng, thanh đạm. Nét vẽ của nhà
thơ chấm phá từ gần đến xa. Hoà với đường nét, văng vẳng vọng lại mấy âm thanh,
tiếng kêu "nhớ nước" của chim cuốc, tiếng than "nhớ nhà" (muốn tìm về tổ) của chim
đa đa. Trong nghệ thuật kết cấu thơ, tác giả thật khéo dùng câu đối xứng "Lom khom
dưới núi tiều vài chú" đối xứng với "Lác đác bên sông chợ mấy nhà", đường nét đối
xứng với đường nét, hình ảnh cuộc sống con người đối xứng với nhau. "Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc" đối xứng với "Thương nhà mỏi miệng cái gia gia", âm thanh,
loài vật đối xứng với nhau, hài hoà, cân đối. Trong nghệ thuật dùng từ, tác giả chọn
những từ láy lom khom, lác đác, các từ tượng thanh quốc quốc, gia gio gợi hình, gợi
cảm, tác động vào sự suy ngẫm, liên tường của người đọc. Thêm nữa, trong cấu trúc
câu, xuất hiện phép đảo ngữ tài tình. Ở câu ba, động từ lom khom đảo lên trước danh
từ tiều vài chú, xuống câu bốn, tính từ lác đác đảo lên trước danh từ chợ mấy nhà.
Nhờ đó, ấn tượng về dáng hình vất vả của người tiều phu, sự thưa thớt, quạnh hiu

của lều chợ được nhấn mạnh như nét đậm trong bức tranh... Có thể nói, sáu câu thơ
đầu là bức tranh phong cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang, núi đèo bát ngát, thấp thoáng
có sự sống con người, nhưng còn hoang sơ. Cảnh được nhìn vào lúc chiểu tà, tác giả
đang trong cảnh ngộ phải xa nhà, mang tâm trạng cô đơn, nên không gợi nên cảm
giác vui, dẹp mà buồn và vắng lặng. Từ cảnh, toát ra tình cảm con người. Mỗi câu thơ
đều có ý nghĩa biểu cảm, trĩu nặng hồn người. Đọc thơ, chúng ta hiểu tâm trạng Bà
Huyện Thanh Quan: buồn, cô đơn, hoài cổ. Tiếng chim quốc nhớ nước, tiếng chim đa
đa (đọc trệch thành gia gia) thương nhà cũng chính là tiếng lòng thiết tha, da diết của
tác giả nhớ gia đình, nhớ quá khứ của đất nước. Hai từ quốc quốc và gia gia vừa tả
thực, nói về hai loại chim, vừa ẩn dụ, gợi liên tưởng tới quốc - gia, Tổ quốc và gia
đình, nước và nhà đã và đang cất lên tiếng kêu, tiếng gọi tha thiết khiến lòng người
không thể thờ ơ. Đến hai câu thơ cuối :
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
thì "lòng người", tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan được giãi bày trực tiếp. Đến đây,
ngòi bút tả cảnh ngụ tình chuyển sang ngòi bút tâm trạng, thơ hướng nội, tâm tình. Đối
mặt trước cảnh trời, non, nước bao la, hùng vĩ, nhà thơ cảm thấy mình như nhỏ bé


hẳn lại, nỗi nhớ nhà, thương nước càng thêm da diết, thẳm sâu. Vậy mà không có ai,
không tìm được ai để san sẻ, tâm tình, đành ta với ta, "Một mình mình biết, một mình
mình hay" (Nguyễn Du - Truyện Kiều). Ở đây lại xuất hiện một đối lập nữa. Cảnh trời,
non, nước, rộng lớn đối lập với một mảnh tình riêng nhỏ hẹp. Cảnh càng rộng lớn,
hùng vĩ bao nhiêu thì mảnh tình riêng càng nặng nề, khép kín bấy nhiêu. Cụm từ ta với
ta bộc lộ nỗi cô đơn gần như tuyệt đối của tác giả. Nhưng đây không phải là nỗi cô
đơn tiêu cực, bi luỵ mà là tấm lòng đau đáu, thiết tha của nữ sĩ Thanh Quan đối với đất
nước, đối với gia đình, đáng cảm thông và trân trọng. Đọc Qua Đèo Ngang, chúng ta
cảm nhận, bài thơ trang nhã, rất tiêu biểu cho thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh
Quan. Đèo Ngang hiện lên với cảnh thiên nhiên bát ngát, hùng vĩ, thấp thoáng có sự
sống của con người nhưng còn heo hút, hoang sơ, đủ gợi lên trong tâm hồn tác giả

một nỗi nhớ nước, thương nhà, một nỗi buồn cô quạnh, não nề.
-----------------------------------------------------------------------------------------Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) của Lí
Bạch Bài làm Phiên âm chữ Hán :
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Tương Như dịch thơ :
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tương dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Đây là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt thuộc đề tài tả cảnh ngụ tình. Tuy là bốn câu theo thể
Đường thi, nhưng bố cục bài thơ khá độc đáo. Không bố cục từng câu, nêu từng ý
kiểu 1/1/1/1, cũng không bố cục hai phần 2 ý kiểu 2/2 mà là 1/3.
Câu thứ nhất: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Phác ra cái phồng nền của bức tranh
toàn cảnh thác núi Lư. Nhà thơ Lí Bạch miêu tả thác nước vào lúc mặt trời chiếu rọi,
nắng sáng. Thác nước đổ mạnh, tung bọt, bay như sương khói phản quang dưới
nắng, hắt ra một màu tía rực rỡ, kì ảo. Ba câu tiếp sau đặc tả hình ảnh dòng thác đang
tuôn chảy.


Câu thứ hai tả nét tĩnh của dòng thác. Câu thơ nguyên tác phải hiểu là "Xa nhìn
dòng thác treo trên dòng sông phía trước". Động từ "quải" nghĩa là "treo" có vẻ như
"tĩnh", biến cảnh "động" thành nét "tĩnh".
Tiếp đó là câu thứ ba:Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Từ nét "tĩnh" chuyển
sang cảnh "động". "Nước bay thẳng xuống", nguyên tác chữ Hán "phi" nghĩa là bay,
khiến bức tranh trớ nên linh hoạt, sống động.
Và đến câu cuối thì cảnh thác Hương Lô mới thực là tuyệt vời: Tưởng dải Ngân
Hà tuột khỏi mây Nghệ thuật so sánh ở đây cũng như phép cường điệu, phóng đại ở

hai câu trên có vẻ như vô lí. Song đặt trong văn cảnh, người đọc vẫn cảm thấy chân
thực, tự nhiên. Vì ngọn núi Hương Lô có mây mù bao phủ nên nhìn từ xa có cảm giác
dòng nước như một dải lụa treo lơ lửng vắt từ trong mây, từ trên đỉnh trời mà trải
xuống, chảy xuống. Do dó thi sĩ lãng mạn Lí Bạch mới ngỡ rằng sông Ngân Hà - một
dòng sông đầy sao sáng trong huyền thoại cổ xưa - đang tuột khỏi mây, chảy xuống
trần gian vậy. Nhiều người coi câu cuối bài thơ này là "danh cú" (câu thơ, câu văn nổi
tiếng) bởi nó đã huyền thoại hoá một hình ảnh tạo vật ở trần gian và ngược lại nó trần
gian hoá một hình ảnh của huyền thoại. Qua câu thơ, tác giả đã biểu hiện một cái nhìn
đầy sáng tạo và một cảm xúc thật mạnh mẽ. Có thể nói, với những hình ảnh tráng lệ,
huyền ảo, bài Xa ngắm thác núi Lư đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa
của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô, thuộc dãy núi Lư. Qua đó, Lí Bạch thể hiện
tình yêu thiên nhiên, đất nước đằm thắm và phần nào hộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào
phóng của một hồn thơ lãng mạn mà người đời thường gọi ông là "Tiên Thi". Nhắc
đến Lý Bạch là nhắc đến cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Ông sống
vào đời Đường (701-762), học rộng, tài cao, tính tình phóng khoáng thích ngao du sơn
thuỷ. Thơ ông tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn, khoáng đạt tự do bay bổng. Có lẽ như
vậy mà ngọn núi Lư sơn hiện ra như một thắng cảnh tuyệt mỹ trong thơ ông:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây

(Tương Như dịch)



Lý Bạch đi nhiều, biết rộng. Hầu như tất cả các danh lam thắng cảnh trên đất nước
Trung Hoa rộng lớn ông đều đặt chân tới. Bài thơ này tuyệt bút tả cảnh thác núi Lư
hùng vĩ, tráng lệ qua đó biểu hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc. Mở
đầu bài thơ là cảnh thác núi Lư sơn từ xa nhìn lại: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Hương Lô là ngọn núi cao nằm phía tây bắc của dãy Lư sơn, đứng xa quan sát nó
giống như một chiếc Lư Hương, làm cái phông nền cho dòng thác. Ngọn Hương Lô
như gợi cho người đọc một sự liên tưởng và hình dung: ánh nắng mặt trời lan toả
khoác lên dãy núi Lư lớp áo choàng huy hoàng rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy nổi lên
ngọn Hương Lô, chiếc Lư Hương khổng lồ nghi ngút khói trầm hương màu tím. Đây
chính là sự khúc xạ ánh sáng, trên đỉnh núi lúc này như được thắp lên những luồng
sáng hàng nghìn ánh màu rực rỡ, lộng lẫy huy hoàng. Hình ảnh núi Hương Lô quan
sát từ xa như vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ như
đầy màu sắc, màu trắng của thác, xanh của núi, vàng của nắng và tím của sương
khói. Đằng sau câu thơ ta như thấy vị tiên thơ đang trầm ngâm ngắm cảnh, chiêm
ngưỡng sự diệu kỳ này. Cảnh Hương Lô thật kỳ tuyệt, nhưng thu hút và huyền ảo hơn
vẫn là ngọn thác:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Nhan đề là vọng một vị trí quan sát từ xa, nhìn dòng thác, thác nước tuôn trào đổ
xuống ầm ầm tựa ngang trời. Dòng thác qua con mắt thi tiên đã biến thành dải lụa
trắng xoá mềm mại treo ngang trời.Từ quải được coi như nhãn tự của câu thơ, nó biến
cái động thành cái tĩnh, thể hiện rất thực cảm giác khi nhìn thấy dòng thác từ xa. Đỉnh
núi khói tía bao phủ, ngang trời, lưng núi dòng sông tuôn chảy như dải lụa mềm mại
uyển chuyển, bức tranh tráng lệ kỳ vĩ biết bao: Phi lưu trực há tam thiền xích Đến câu
thơ thứ ba này cảnh vật từ tĩnh chuyển sang động. Thế nước chảy như bay (phi lưu)
được diễn tả qua hai động từ đi kèm hai trạng từ. Ta hình dung thấy núi cao, nước đổ
thẳng xuống như dựng đứng, ba ngàn thước là lối nói khoa trương nhưng người đọc
vẫn cảm thấy chân thực. Bằng cảm hứng lãng mạn của mình, sự liên tưởng kỳ lạ nhà
thơ đã thấy: Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên Câu thơ trác tuyệt thể hiện tài năng quan

sát và cảm hứng lãng mạn tuyệt vời của thi nhân. Tả thác nước thần tình giữa cái ảo
và cái thực, cái hình và cái thần diễn tả được cảm giác kỳ diệu do hình ảnh thác nước
gợi trong tâm khảm nhà thơ. Do vậy nghi thị (ngỡ là) rất thành công. Hồ nghi mà vẫn
cho là thật. Từ trên cao ba ngàn thước, thác nước ầm ầm tuôn trào uyển chuyến mạnh
mẽ nhưng mềm mại như dải lụa. Hay hơn thế tác giả ngỡ là dòng sông sao tuột khỏi
chín tầng mây đang lơ lửng treo ngang trời. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ, ở
đây ngôn ngữ thơ đã chắp cánh cho hồn thơ bay bổng diệu kỳ. Ngắm dòng thác Lư
sơn ngỡ như lạc vào chốn bồng lai ngư phủ. Với tình yêu thiên nhiên say đắm, thi tiên
đã dựng lên bức tranh thác nước Lư sơn hoành tráng tuyệt vời. Hơn một thiên niên kỉ


trôi qua đã mấy ai được đến núi Lư sơn để ngắm lại dòng thác khi nắng rọi? Quả vậy
thác núi Lư làm cho thơ Lý Bạch vĩnh hằng bất tử với thời gian. Một nhà thơ khác đời
Đường là Tử Ngưng phải thẹn thùng khi cất bút. Bài thơi là một tuyệt tác, nó thể hiện
trí tưởng tượng hiếm có, nét thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào. Qua đó
ta hiểu rõ một tâm hồn thơ say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Biết bao danh
lam thắng cảnh đã đi vào thơ ông để mãi mãi muôn đời nhớ đến thi tiên - Lý Bạch.
Bài làm 3: Cảm nghĩ về bài thơ Xa ngắm thác núi lư của Lý Bạch. Lý Bạch là một nhà
thơ nổi tiếng. Thơ ông có nhiều bài rất hay về chiến tranh, tình yêu, tình bạn và đặc
biệt là về vẻ đẹp của những phong cảnh thiên nhiên. Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư” là
bài thơ hay về cảnh thiên nhiên như thế:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây
Lý Bạch tính tình phóng khoáng. Ông thường đi thăm thú nhiều nơi và đến đâu
ông cũng để lại những áng thơ tuyệt bút. Khi ông đến Hương Lô, một ngọn núi cao ở
phía tây bắc của dãy Lư Sơn, ông cũng hạ bút viết những câu thơ tươi sáng:
Nắng rọi Hương Lô khói tía hay,
Xa trông dòng thác trước sông này

Cảnh Hương Lô được quan sát từ xa vào buổi sáng. Vì thế mà toàn cảnh trông giống
như một bức tranh sơn thủy kỳ vĩ lớn lao. Hương Lô đã có mây mù bao phủ, lại có bọt
khì từ thác nước bay lên. Nó gặp đúng lúc mặt trời hồng chiếu rọi vì thế mà những làn
khói mới sinh màu đỏ tía. Cảnh đã đẹp và kỳ vĩ lại thêm sự thơ mộng, kỳ ảo lung linh.
Câu thơ thứ nhất đã là một cái nhìn sáng tạo. Thế nhưng đến câu thơ thứ hai, chúng
ta mới thấy nhà thơ Lý Bạch thật tài hoa. Chính vì tác giả đứng từ xa mà dòng thác
thực sự hiện lên chẳng khác nào một dòng sông đang dựng ngược và treo ngay trước
mặt. Cầu thơ đúng như một sự sáng tạo đầy táo bạo và ngẫu hứng của thi nhân. Hai
câu thơ đầu bao quát toàn cảnh Hương Lô với những hình ảnh thơ tráng lệ và huyền
ảo. Thế nhưng vẻ đẹp của dòng thác và vẻ đẹp tâm hồ của nhà thơ còn bay bổng hơn
ở những câu sau:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây
Thật là một sự so sánh rất thần tình. Dòng thác chảy nhưng như là đang bay thẳng
xuống. Nó như là một dải lụa trắng tinh ngàn vạn sải treo xuống trần gian từ phía chân
trời. Nhưng chưa hết, câu thơ cuối còn là một sự liên tưởng táo bạo hơn. Dòng thác
giờ đây không còn là cảnh của trần gian mà nó là dòng sông Ngân bị đánh rơi bởi bàn


tay thượng đế. Chữ nghị thị (ngỡ là) dường như được viết bằng cả tâm hồn lãng mạn
của nhà thơ. Nó đẩy câu thơ vào giữa hai bờ thực – ảo khiến cho bức tranh phong
cảnh mang nhiều nét thơ mộng thần tiên. Cảnh Hương Lô lúc ấy thật đắm say và cuốn
hút lòng người. Xa ngắm thác núi Lư là một bài thơ phóng khoáng. Cảnh thiên nhiên
được miêu tả toát lên toàn bộ cái khí phách và tâm hồ đầy tài hóa lãng mạn của nhà
thơ. Đọc bài thơ, chúng ta say yêu cảnh đẹp đồng thời cũng xúc động trước tình yêu
đằm
thắm

sâu
sắc

của
nhà
thơ.
------------------------------------------------------------------------------Đề bài: Phân tích - Bình luận bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Bài làm
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bác Hồ muôn vàn kính yêu - được nhân dân ta và thế giới
suy tôn là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá. Trong hoạt dộng và lãnh đạo cách
mạng, mỗi khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Người thường hứng khởi sáng tác
thơ ca. Mỗi bài thơ của Bác là một mảnh tâm hồn trong sáng, cao đẹp hài hoà chất
nghệ sĩ và chiến sĩ. Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp - từ năm 1947
đến 1954 - Bác đã sáng tác một số bài thơ như thế. Trong số thơ kháng chiến, Cảnh
khuya là một bài thơ khá đặc sắc được Bác viết năm 1947, vào một đêm trăng rừng
Việt Bắc đẹp, gợi biết bao nồi niềm:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Bài thơ được làm theo thể thơ tứ tuyệt Đường thi, bốn câu, mỗi câu bảy tiếng mang
thanh điệu, vần điệu, bố cục tương tự những bài tứ tuyệt Đường thi và thơ ca trung đại
Việt Nam mà chúng ta từng biết. Điều thú vị là tác giả - Hồ Chí Minh - đã sáng tạo khi
ngắt nhịp ở câu 1 và câu 4. Trong các câu thơ làm theo luật thơ Đường, các nhà thơ
thường ngắt nhịp 4/3. Ở câu 1, bài Cảnh khuya ngắt 3/4 ("Tiếng suối trong / như tiếng
hát xa") và ớ câu 4 là 2/5 ("Chưa ngủ / vì lo nỗi nước nhà"). Điều đó vừa làm cho nhạc
thơ được mới lạ vừa thể hiện chính xác cung bậc cảm xúc của tác giả lúc bấy giờ.
Hai câu đầu tả cảnh trăng rừng Việt Bắc :
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.



×