Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án nhân dân thành phố ninh bình, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 97 trang )

NGUYỄN ANH TUẤN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH
TỈNH NINH BÌNH

2015 - 2017

NGUYỄN ANH TUẤN

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH
TỈNH NINH BÌNH

NGUYỄN ANH TUẤN


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN THỊ VÂN ANH


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của
các thầy cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS-TS. Nguyễn Thị Vân
Anh đã hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu luận văn của mình.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo đã đem lại cho tôi
những kiến thức bổ trợ vô cùng có ích trong thời gian học vừa qua.
Xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo Sau đại học,
Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN ANH TUẤN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN


NGUYỄN ANH TUẤN


MỤC LỤC
Contents
LỜI MỞ ĐẦU .........................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ......................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...............................2
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................4
6. Những đóng góp của luận văn .............................4
7. Kết cấu luận văn: .....................................4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI .............................6
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ................................6
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại ........................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp thương mại ..............6
1.1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại .........7
1.2. Khái quát hòa giải trong tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân...9
1.3. Sự hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong giải quyết tranh
chấp thương mại tại Tòa án nhân dân .........................15
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................27
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................................28
2.1. Các nguyên tắc hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa
án nhân dân ..........................................28
2.2. Các chủ thể trong hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân 30



2.3. Điều kiện hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân .....31
2.4. Phạm vi hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân ......35
2.5. Hình thức, phương pháp hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân
dân ...............................................36
2.6. Thủ tục hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân .......42
2.7. Các công việc mà Tòa án thực hiện khi hòa giải tranh chấp thương mại.
..................................................57
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................59
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ NINH BÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HÒA GIẢI TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN……………………………………..…………………………………60
3.1. Khái quát về Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình ............60
3.2. Những bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải
tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình .......62
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hòa giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại tại Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân thành phố
Ninh Binh nói riêng ....................................73
3.3.1. Xây dựng các cơ sở pháp lý cần thiết cho việc mở rộng hình thức
giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, Tòa án với vai trò hỗ trợ bằng việc Công
nhận sự thỏa thuận .....................................73
3.3.2. Hoàn thiện và có hướng dẫn cụ thể các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự hiện hành về Hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân
dân ...............................................75
3.3.3. Nâng cao trình độ, kiến thức của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội
thẩm nhân dân ........................................79
3.3.4. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật: ........79



KẾT LUẬN .........................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................84

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS –Bộ luật tố tụng dân sự
GQTC- Giải quyết tranh chấp.
LTM- Luật thương mại.
BLDS- Bộ luật dân sự
LTTTM- Luật trọng tài thương mại.
TANDTC- Tòa án nhân dân tối cao.
Công ty TNHH- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
CNSTT- Công nhận sự thỏa thuận
QĐCNSTT- Quyết định Công nhận sự thỏa thuận
HĐXX- Hội đồng xét xử




LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quá trình đầu tư, sản xuất, kinh doanh hay nói các khác là thực hiện các
hoạt động thương mại, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh
cao, các nhà kinh doanh đều muốn xây dựng lòng tin, duy trì mối quan hệ kinh tế
với các đối tác một cách lâu dài để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh, thương mại
ổn định và phát triển. Tuy nhiên do các quan hệ thương mại ngày càng phát triển đa
dạng và phức tạp, dẫn tới đôi khi vì nhiều lý do chủ quan, khách quan mà các nhà
kinh doanh phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi, giữa các bên tạo nên tranh chấp
thương mại. Để giải quyết những tranh chấp này, việc các bên lựa chọn ra một
phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhằm đạt được những lợi ích thực tiễn

là điều tất yếu. Xuất phát từ thực tiễn giải quyết các tranh chấp thương mại, đã hình
thành nên ba phương thức giải quyết tranh chấp thương mại chính đó là: thương
lượng, hòa giải, và giải quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài hoặc Tòa án. Trong đó
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải tại Tòa án đã thể hiện
nhiều ưu điểm và được áp dụng rộng rãi.
Tại Việt Nam, chế định hòa giải đã được pháp luật thừa nhận và quy định từ
năm 1989 trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, sau đó là các pháp
lệnh năm 1994 với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, năm 1996 với
Pháp lệnh Giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính đánh dấu sự ra đời của chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại tại Tòa án nhân dân. Tuy vậy, tại Việt Nam, giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải tại Tòa án nhân dân ít được coi trọng và chưa được nhận
thức đúng đắn về ý nghĩa của nó nhiều nguyên nhân về pháp lý và về con người.
Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân
dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, để thúc đẩy sự phát triển, áp dụng thống
nhất các quy định của pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng con đường Tòa án, cần phải có những nhận thức rõ ràng về pháp

1


luật, thực tiễn liên quan đến hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án. Vì vậy Tác
giả chọn đề tài: “Pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại tại
Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải là một chế định quan trọng trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh
doanh thương mại tại Tòa án, nhưng ít có đề tài khoa học pháp lý ở Việt Nam
nghiên cứu sâu về vấn đề này, chỉ có những tài liệu tập huấn mang tính kỹ năng hòa
giải cho các Thấm phán và giáo trình giảng dạy.
Một số giáo trình có đề cập chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp

thương mại tại Tòa án là: Giáo trình Luật Kinh tế (2001) của Trường Đại học Luật
Hà Nội [16]; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam (2001) [19] của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội; đề tài "Các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt
Nam" thuộc Dự án VIE/94/2003 [4] của Bộ Tư pháp và một số công trình đã nghiên
cứu về vấn đề có liên quan đến đề tài như các tác giả Trần Đình Hảo “Hòa giải
trong thương lượng giải quyết tranh chấp kinh tế”, Viện nhà nước và pháp luật
[42]; Bùi Đăng Huy (1996), “Hòa giải trong tố tụng dân sự - Thực tiễn và hướng
hoàn thiện”, Luận án thạc sĩ Luật học [5], Bùi Ngọc Cường “ Xây dựng và hoàn
thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo nhằm đảm bảo tự do kinh doanh ở Việt nam”
[6], Luận án Tiến sỹ luật học, Hà Nội; Đào Văn Hội “Hoàn thiện pháp luật giải
quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay”, Nxb Trính trị- Hành chính [18];
Dương Thanh Mai “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế”, Luận văn thạc
sỹ Luật học [17]; Tưởng Duy Lượng “Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử”
Nxb, Chính trị quốc gia Hà Nội [47], Dương Quỳnh Hoa “Hòa giải trong tố tụng
dân sự của Việt Nam và nhật bản nhìn từ góc độ so sánh” Viện Nhà nước và Pháp
luật [15]; Trương Kim Oanh (1990), Hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam, luận
văn thạc sỹ [44].
Theo tinh thần của Nghị quyết số -NQ/TW ngày 2/6/2005 [2] của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ “Khuyến khích việc giải quyết
một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng

2


quyết định công nhận việc giải quyết đó”, mở rộng quyền tranh tụng của các bên
tranh chấp. Các quy định về Hòa giải (cả thủ tục và nội dung) đã được luật hóa chặt
chẽ và có hệ thống.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu chế định hòa giải trong thủ
tục giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân một cách toàn diện,
đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc hòa

giải, tránh để xảy ra những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết các tranh chấp
thương mại tại Tòa án và làm phong phú thêm lý luận về giải quyết tranh chấp
thương mại tại Tòa án nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc nghiên cứu, phân tích
một cách có hệ thống các quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương
mại tại Tòa án nhân dân cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này tại Tòa án
nhân dân thành phố Ninh Bình, làm rõ bản chất của pháp luật về hòa giải trong quá
trình giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân, luận giải những cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải
quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân ở nước ta.
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải làm rõ được nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc hòa giải trong quyết các tranh
chấp thương mại tại Tòa án nhân dân.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp về hòa giải trong thủ
tục giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình.
- Nhận xét, đánh giá và nêu phương hướng để nâng cao hiệu quả cũng như
một số kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam về
hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại Tòa án nhân dân và việc áp
dụng các quy định này tại Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu

Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, như: Phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa,
so sánh, đối chiếu. Chẳng hạn, phương pháp lịch sử đã được tác giả sử dụng để làm
rõ quá trình hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong pháp luật nước ta;
phương pháp mô hình hóa cũng được tác giả sử dụng để trình bày cơ chế giải quyết
các tranh chấp thương mại bằng thủ tục hòa giải tại Tòa án nhân dân.
6. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp mới về mặt khoa học:
- Luận giải những vấn đề lý luận về việc giải quyết các tranh chấp thương mại
bằng phương thức hòa giải tại Tòa án nhân dân.
- Làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục hòa giải tranh chấp thương mại tại
Tòa án nhân dân.
- Góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác hòa giải, xây dựng và hoàn
thiện các quy định của pháp luật nước ta về hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp
thương mại tại Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình
nói riêng.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương; chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải tranh chấp thương
mại tại Tòa án nhân dân, chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân, chương 3:
Thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại tại

4


Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình và các giải pháp nâng cao hiệu quả của hòa
giải tranh chấp thương mại Tại Tòa án nhân dân.


5


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ
HÒA GIẢI TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp thương mại
Khái niệm tranh chấp thương mại: Theo do trung tâm ngôn ngữ học trực
thuộc Viên khoa học xã hội biên soạn năm 1992 [46, Tr 1005], thì tranh chấp
là hệ quả của sự xung đột về ý kiến giữa các bên tham gia, tạo nên thế phân tranh,
giằng co giữa các bên, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên khi không rõ
thuộc về bên nào. Ở góc độ pháp lý, tranh chấp còn có thể hiểu là sự xung đột, bất
đồng quan điểm về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quá trình tham gia các
quan hệ pháp luật.
Thuật ngữ “Thương mại” được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, cũng
như trong các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam. Luật Thương mại năm 2005
định nghĩa về hoạt động thương mại là: Hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác [31]
Như vậy, có thể hiểu tranh chấp thương mại là những xung đột, mâu thuẫn
giữa các bên chủ thể về quyền, lợi ích và nghĩa vụ của họ trong quá trình tham gia
hoạt động thương mại.
Đặc điểm tranh chấp thương mại:
Về chủ thể của tranh chấp thương mại là những chủ thể hoạt động kinh doanh
thương mại mà chủ yếu là các thương nhân – những cá nhân hoặc tổ chức được
thành lập hợp pháp, hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh [31].
Khách thể của tranh chấp thương mại là những quyền, và nghĩa vụ theo hợp
đồng thương mại hoặc theo thỏa thuận của các bên, mà nội dung của tranh chấp

thương mại chính là những mâu thuẫn trong việc thực hiện những quyền và nghĩa

6


vụ này, dẫn tới xung đột về lợi ích kinh tế, tài sản giữa các bên chủ thể. Tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, như:
- Mua bán hàng hoá;
- Cung ứng dịch vụ;
- Phân phối;
- Đại diện, đại lý;
- Ký gửi;
- Thuê, cho thuê, thuê mua;
- Xây dựng;
- Tư vấn, kỹ thuật;
- Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ
nội địa;
- Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
- Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
- Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
- Bảo hiểm;
- Thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
-

Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành

viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp

nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
1.1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
Nhìn chung, với mọi cuộc tranh chấp thường có 3 phương thức giải quyết đó
là: Thương lượng, hòa giải, hoặc giải quyết theo con đường tố tụng. Trong đó:

7


Thương lượng là việc trao đổi, bàn bạc giữa các bên nhằm đi đến một hỏa
thuận, quyết định để giải quyết một vấn đề nào đó – thường là những vấn đề có liên
quan đền quyền và lợi ích giữa các bên.
Theo do Trung tâm Ngôn ngữ học trực thuộc Viện Khoa học xã hội biên soạn
(năm 1992) thì “Hòa giải là việc thuyết phục các bên chấm dứt xung đột hay xích
mích một cách ổn thỏa” [46, Tr 35 ]. Bên cạnh đó, theo từ điển Luật học
của Cộng hòa Pháp thì, Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp
đỡ của người trung gian thứ ba (hòa giải viên) để giúp đưa ra các đề nghị giải quyết
một cách thân thiện. Từ đó có thể hiểu rằng, hòa giải là hành vi đưa ra các đề nghị,
hoặc bắt buộc, thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một
cách ổn thỏa bằng cách dàn xếp, thương lượng với nhau thông qua sự điều hành của
bên thứ ba không phải là bên tranh chấp. Sự xuất hiện của bên thứ ba trung gian làm
cho hòa giải có sự khác biệt với thương lượng. Bên thứ ba có thể là cá nhân, tổ
chức, luật sư, người tư vấn, cố vấn hoặc các tổ chức khác do các bên chủ thể thỏa
thuận lựa chọn. Người này phải có vị trí độc lập với các bên và hoàn toàn không có
lợi ích liên quan đến cuộc tranh chấp. Đồng thời, bên thứ ba trung gian không đại
diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có quyền phán quyết.
Để giải quyết theo con đường tố tụng thường có 2 phương thức: Thông qua
Tòa án hoặc thông qua Trọng tài. Với từng vụ việc trong từng quan hệ pháp luật cụ
thể mà các chủ thể có thể chọn phương thức phù hợp với tình huống mà mình gặp
phải.

Tương tự với những phương pháp giải quyết tranh chấp thông thường ở trên,
Luật thương mại 2005 đã quy định tại Điều 317 về các hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại, đó là:
- Thương lượng giữa các bên
- Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải.

8


- Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án. Trong đó, thủ tục giải quyết tranh chấp
trong thương mại tại Trọng tài, Tòa án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của
Trọng tài, Tòa án do pháp luật quy định.
Mọi sự lựa chọn của các bên chủ thể trong giải quyết tranh chấp thương mại
đều tuân theo ba nguyên tắc sau:
Một là: Tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do thỏa thuận của các bên chủ thể trên
cơ sở không vi phạm các quy định của pháp luật
Hai là: Mọi hành vi giải quyết tranh chấp đều nhằm mục đích hàn gắn mối
quan hệ giữa các bên
Ba là: Phải bảo đảm an toàn bí mật kinh doanh, bí mật nghề nghiệp giữa các
bên tranh chấp.
1.2. Khái quát hòa giải trong tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân
Khái niệm hòa giải, đặc điểm của hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương
mại
Hòa giải mang tính chất là phương tiện giải quyết tranh chấp theo hướng thân
thiện, do các bên tự nguyện lựa chọn đã tồn tại từ lâu đời, mang tính chất là một
phương pháp truyền thống, nhất là những nước Á Đông vốn chịu sự ảnh hưởng của
Nho giáo với tư tưởng “Dĩ hòa vi quý” – tức là lấy hòa hợp đặt lên hàng đầu trong
mọi mối quan hệ. Trong xã hội phương Tây hiện đại, nó thường được mô phỏng
như một hình thức giải quyết tranh chấp thay thế, tức là thay thế cho hình thức tố

tụng.
Hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại: “Là phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hành vi đưa ra các đề nghị, hoặc bắt buộc, thuyết phục
các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa bằng cách dàn
xếp, thương lượng với nhau thông qua sự điều hành của bên thứ ba trung lập”.
Pháp luật Thương mại Việt nam có quy định, bên thứ ba có thể là tổ chức, cá nhân
không phải là chủ thể của tranh chấp thương mại, trong một số trường hợp đặc biệt,
bên thứ ba có thể là Tòa án, hoặc trọng tài Thương mại. Bằng cách giải thích này, ta

9


có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương
mại như sau:
Thứ nhất, đây là một phương thức giải quyết tranh chấp đặc biệt, với sự hiện
diện, điều hành của bên thứ ba trung gian do các bên chủ thể lựa chọn;
Thứ hai, tính chất của hòa giải là quá trình giải quyết tranh chấp một cách tự
nguyện trên cơ sở tự định đoạt của các bên nhằm mục đích xóa bỏ những xích mích,
xung đột, đồng thời dàn xếp ổn thỏa những vấn đề còn tranh chấp giữa các bên chủ
thể;
Thứ ba, vai trò của bên thứ ba là nhằm giúp đỡ, hỗ trợ giải quyết tranh chấp
bằng cách đưa ra các đề nghị, phương án giải quyết để các bên lựa chọn, quyết định
thực hiện hay không thực hiện. Với trường hợp bên thứ ba là Tòa án, hoặc Trọng tài
thì các bên thậm chí còn có thể phải bắt buộc tuân theo quyết định của Tòa án,
Trọng tài như quyết định của một bản án.
Bản chất pháp lý của hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân
Hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án là một giai đoạn
đặc thù của tố tụng dân sự với bản chất pháp lý khác biệt với bản chất của hai
phương thức hòa giải và tố tụng tư pháp khi chúng được sử dụng độc lập.
Hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án là phương thức tố

tụng mang tính chất quyền lực công (quyền tư pháp), giống với bản chất của việc
giải quyết tranh chấp tại Tòa án, và có đặc điểm sau:
− Thứ nhất, Tòa án, cụ thể là HĐXX của Tòa án nhân danh Nhà nước để xem
xét giải quyết công khai vụ tranh chấp trên cơ sở các đạo luật – sự thể chế hóa ý chí
của quyền lực công.
− Thứ hai, một bên hoặc các bên tranh chấp thương mại có quyền tự quyết
định việc khởi kiện hay rút đơn kiện, nhưng khi đơn khởi kiện đã được thụ lý và
quy trình tố tụng đã được khởi động, thì các bên đương sự và bản thân Tòa án đều
phải tuân thủ các quy định chặt chẽ về hình thức, trình tự, thủ tục giải quyết tranh
chấp cũng như phải thi hành các biện pháp có tính cưỡng chế cần thiết cho việc bảo
đảm kết quả giải quyết tranh chấp;

10


− Thứ ba, các quyết định, bản án do Thẩm phán hoặc HĐXX tuyên có hiệu lực
bắt buộc đối với các bên tranh chấp và đều được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước, nếu các bên không tự nguyện thi hành.
Như vậy, nếu được sử dụng độc lập, riêng biệt thì hòa giải và giải quyết tranh
chấp tại Tòa án có bản chất pháp lý khác hẳn nhau. Tuy nhiên, việc sử dụng kết hợp
hai phương pháp tạo nên một cách thức giải quyết tranh chấp mới (hòa giải trong tố
tụng tư pháp) với bản chất pháp lý mới: sự kết hợp và chuyển hóa biện chứng giữa
quyền lực tư và quyền lực công, cụ thể là:
− Một mặt, quyền tự do ý chí, quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp vẫn
được tôn trọng trong quá trình hòa giải tại Tòa án: các bên có quyền chủ động yêu
cầu Tòa án hòa giải trước khi mở phiên tòa xét xử hoặc trong khi đang xét xử, trước
khi Tòa tuyên án; Các bên có quyền chủ động đưa ra các chứng cứ, lập luận để
thương lượng, đàm phán trên cơ sở tư vấn, hướng dẫn của Thẩm phán hoặc HĐXX;
các bên có quyền thỏa thuận về phương án giải quyết tranh chấp và vụ kiện sẽ được
kết thúc bằng việc Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó. Đồng thời, mỗi bên cũng có

quyền không chấp nhận các đề xuất của bên kia và của Thẩm phán – Hòa giải viên.
Trong trương hợp đó, hòa giải được coi là không thành và vụ án sẽ được tiếp tục
giải quyết theo trình tự tố tụng do Thẩm phán điều hành theo quy định của
BLTTDS
− Mặt khác, quyền tự định đoạt của các bên không bị hạn chế ở phạm vi nhất
định do sự chuyển giao từ quyền lực tư sang quyền lực công: từ hòa giải tự nguyện
sang hòa giải mang tính bắt buộc với tính chất là một thủ tục tố tụng, một giai đoạn
tố tụng theo luật định; từ hòa giải viên độc lập do các bên tự lựa chọn và trao cho
những quyền hành động nhất định sang hòa giải viên đương nhiên (Thẩm phán hay
HĐXX do Tòa án chỉ định) với quyền hạn đại diện cho quyền lực công để thực hiện
quá trình hòa giải theo cách thức phù hợp với pháp luật tố tụng.
Bằng việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành giữa các bên tranh
chấp, Tòa án đã xác lập hiệu lực pháp lý cho những thỏa thuận riêng của các bên.
Sự bảo đảm thi hành bằng quyền lực công đối với những thỏa thuận mang tính chất

11


riêng tư, tự nguyện của các bên tranh chấp là điểm đặc thù của hòa giải trong tố
tụng tư pháp so với hòa giải độc lập (hòa giải ngoài tố tụng).
Ý nghĩa của hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân
Xuất phát từ bản chất đặc thù như đã phân tích ở trên, hòa giải trong giải quyết
tranh chấp thương mại tại Tòa án có những ý nghĩa như sau:
Thể hiện và bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân trong quá trình
giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án
Điều 33 Hiến pháp năm 2013 [38] của nước ta đã công nhận quyền tự do kinh
doanh là một quyền cơ bản của công dân. Quyền tự do kinh doanh được thể hiện cụ
thể trong các nội dung sau đây:
- Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh
- Quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh

- Quyền tự do lựa chọn loại hình tổ chức kinh tế
- Quyền tự do hợp đồng
- Quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức giải quyết tranh chấp
- Quyền tự do cạnh tranh lành mạnh
Trong đó, quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức giải quyết tranh chấp
được hiểu là: Các chủ thể kinh doanh có quyền tự do quyết định cách thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, hòa giải, Tòa án hay trọng tài. Bên
cạnh đó, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, các bên
đương sự còn có thể tự do lựa chọn bên thứ ba làm trung gian hòa giải, trong đó đối
tượng lựa chọn làm bên thứ ba trung gian hòa giải có thể là Tòa án.
Giữ gìn quan hệ kinh doanh lâu dài, khôi phục sự thông cảm, tương trợ và
giúp đỡ lẫn nhau giữa các đương sự
Ngoài việc tôn trọng quyền tự quyết của các bên chủ thể, hòa giải còn đặt
trọng tâm vào khía cạnh duy trì mối quan hệ. Điều này mang ý nghĩa nhân văn của
giải quyết tranh chấp. Các bên có cơ hội thể hiện tình cảm, bày tỏ sự quan tâm đến
các quan hệ trong tương lai giữa các bên. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải có thể
duy trì hoặc cải thiện quan hệ giữa các bên nhờ việc xem xét đến lợi ích và quan

12


tâm thực tế của các bên. Hòa giải đem lại cơ hội cho các bên trình bày, giải thích
cũng như đưa ra lời xin lỗi với nhau. Sự tham gia trực tiếp của các bên tranh chấp
trong phiên hòa giải sẽ thể hiện được tinh thần trách nhiệm cao của các bên đối với
các lựa chọn của mình cũng như thể hiện tinh thần thiện chí xóa bỏ các xung đột,
cùng nhau tìm ra phương hướng giải quyết chung để cân bằng quyền lợi theo ý chí
của các bên đương sự. Hòa giải có thủ tục dễ dàng và áp dụng phương pháp cùng
tham gia, xây dựng mô hình đàm phán và các kỹ thuật giải quyết vấn đề mang tính
xây dựng, có cách quản lý xung đột đầy tính nhân văn... Chế định hòa giải trong
giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án đã thể hiện một mặt mềm dẻo trong thủ

tục tố tụng thương mại.
Tiết kiệm chi phí vật chất, thời gian, công sức của Nhà nước, của công dân,
của các tổ chức kinh tế khi giải quyết tranh chấp
Khi có tranh chấp thương mại xảy ra, buộc các cơ quan chức năng phải huy
động nhiều cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn và có thẩm quyền, huy động
nhiều người và phương tiện nhằm phục vụ các công việc như: Thu thập chứng cứ,
định giá tài sản, tổ chức các buổi gặp gỡ đối chất,... Những công việc này đòi hỏi
một nguồn vốn nhất định, làm hao phí nhiều thời gian, công sức, tiền bạc của các
bên tranh chấp, của xã hội cũng như của Nhà nước.
Nhưng khi các bên tranh chấp lựa chọn phương án hòa giải tại Tòa án, thì kết
quả của hòa giải thành sẽ được công nhận và có giá trị chung thẩm. Nghĩa là khi đó
tất cả các chủ thể có liên quan kể trên đã tiết kiệm được một lượng thời gian, công
sức và tiền bạc đáng kể.
Tăng cường sự tham gia trực tiếp của các bên; giữ gìn bí mật, bí quyết kinh
doanh
Trong quá trình hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm
phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình. Quá trình hòa giải tạo cơ
hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về tranh chấp. Đây là một bước rất
quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp của hòa giải. Hòa giải đem lại cơ hội
cho các bên trình bày, giải thích và đưa ra lời xin lỗi với nhau. Sự tham gia trực tiếp

13


của các bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần thiết vì nó đề cao được tinh thần
trách nhiệm của các bên đối với các lựa chọn của mình. Thông thường, so với việc
để những người bên thứ ba trung lập như Thẩm phán đưa ra quyết định thì bản thân
các bên thường đưa ra những quyết định có lợi hơn cho mình. Bằng cách này, sự
tham gia có thể xóa bỏ cảm giác của các bên khi cho rằng họ phải chịu áp lực để
đưa ra một quyết định nào đó. Nếu các bên nhận thấy rằng họ “làm chủ” quá trình,

thì họ có thể dễ dàng ủng hộ kết quả hơn. Không một phương pháp giải quyết tranh
chấp nào có thể đảm bảo sự tham gia trực tiếp của các bên được như hình thức hòa
giải, các bên đánh giá rất cao “quyền tự quyết” của hình thức này dù tranh chấp
chưa được giải quyết [46].
Giữ gìn bí mật kinh tế, bí quyết kinh doanh là ưu điểm được cho là do việc
tuân thủ các nguyên tắc bảo mật trong quá trình hòa giải. Nếu như vụ tranh chấp
được xét xử công khai tại Tòa án, thì có nhiều nguy cơ bị lộ các bí mật kinh doanh.
Phổ biến, giải thích luật của Tòa án
Thông qua quá trình hòa giải, Thẩm phán có thể tác động đến nhận thức của
các bên đương sự bằng cách chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu của họ, chỉ ra các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi bên. Từ việc có hiểu biết pháp luật hơn, nắm
vững các quyền và nghĩa vụ của bản thân cũng như phía đối tác sẽ giúp cho các
đương sự có thái độ, hành vi đúng mực hơn, cũng như có thể chuẩn bị chu đáo hơn
cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong phiên tòa xét xử tranh
chấp thương mại nếu hòa giải không thành.
Cho dù phiên hòa giải thành hay không thành thì phiên hòa giải vẫn mang ý
nghĩa phổ biến pháp luật mạnh mẽ. Từ những bài học rút ra trong quá trình hòa giải,
các đương sự sẽ biết thận trọng, khôn ngoan hơn, hành xử và hoạt động hợp pháp và
văn minh hơn đối với những hoạt động thương mại trong tương lai, tránh gặp phải
rủi ro như trong quá khứ. Từ đó góp phần ngày một lành mạnh hóa các quan hệ
kinh tế, giảm bớt tranh chấp, mâu thuẫn trong cộng đồng kinh doanh.

14


Đảm bảo việc thi hành nghiêm chỉnh, nhanh gọn các quyết định của Tòa án
Thực tế cho thấy, đa phần các bản án phải có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt khoát
của cơ quan thi hành án thì mới được thực hiện một cách hiệu quả. Có hiện tượng
này là bởi bản án của Tòa án đại diện cho ý chí của Nhà nước, thực hiện việc xét xử
công bằng, khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự. Trong khi

đó, quyết định công nhận hòa giải thành của Tòa án được thành lập dựa trên sự tự
do thảo luận, thương lượng về hướng hòa giải của các bên dưới sự điều hành, hướng
dẫn, gợi ý của Tòa án. Như vậy thực chất, các bên đương sự chính là những người
định đoạt về vụ việc, từ đó, đối với quyết định công nhận hòa giải thành các bên sẽ
có thái độ “tâm phục khẩu phục”, mà không có tư tưởng bị bắt ép chấp nhận như
bản án.
1.3. Sự hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong giải quyết tranh
chấp thương mại tại Tòa án nhân dân
Pháp luật về hòa giải trước thời điểm ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Sau khi nhân dân ta giành được chính quyền, Tòa án cách mạng đã được hình
thành và đi vào hoạt động, nhưng khái niệm pháp luật kinh tế nói chung, tranh chấp
thương mại (kinh tế) nói riêng chưa xuất hiện. Chưa có sự phân biệt tranh chấp kinh tế
với các loại tranh chấp tài sản khác. Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 [7] đã sử dụng hai
khái niệm khác nhau là "dân sự" và "thương sự", nhưng lại chưa có một văn bản
pháp luật nào định nghĩa và nêu rõ đặc điểm, tính chất của từng loại để phân biệt;
cũng không có sự khác nhau về thủ tục tố tụng tại Tòa án đối với hai loại tranh chấp
này.
Tại Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh được ban hành kèm theo Nghị
định số 735-TTg ngày 10-4-1956 [8] của Thủ tướng Chính phủ, thuật ngữ "Hợp
đồng kinh doanh" đã được sử dụng. Điều lệ đã quy định rõ: "Hợp đồng kinh doanh
là một bản quy định mối quan hệ giữa hai hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện
cam kết với nhau thực hiện một số nhiệm vụ nhất định, trong những thời gian nhất
định, nhằm mục đích phát triển kinh doanh công thương nghiệp góp phần thực hiện
kế hoạch nhà nước"

15


Điều 20 của điều lệ trên quy định việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh
doanh được thực hiện như sau:

"a) Nếu là tranh chấp giữa tư doanh với nhau, giữa tư doanh với quốc doanh
hay Hợp tác xã thì đưa ra cơ quan đăng ký hay thị thực hợp đồng giải quyết. Nếu
xét thấy cần đề nghị truy tố trước Tòa án nhân dân, cơ quan đăng ký sẽ đứng ra
khởi tố trước Tòa án nhân dân nơi sở tại.
b) Nếu có tranh chấp giữa các tổ chức hợp tác xã hay tổ chức quốc doanh với
nhau thì đưa lên cơ quan cấp trên hoặc hội nghị liên tịch các cơ quan cấp trên mà
giải quyết".
Các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế (hợp đồng kinh doanh) khi đó gồm
có cơ quan công thương tỉnh, thành phố, Ủy ban hành chính huyện, Ủy ban hành
chính xã, cơ quan cấp trên của hợp tác xã, cơ quan cấp trên của tổ chức kinh tế quốc
doanh và Tòa án nhân dân.
Theo bản Điều lệ tạm thời trên, thì các tranh chấp hợp đồng kinh doanh do các
cơ quan hành pháp giải quyết. Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp theo sự khởi tố của
cơ quan đăng ký hợp đồng.
Ngày 14-1-1960 Chính phủ ban hành Nghị định số 20/TTg [12] thành lập hệ
thống Hội đồng Trọng tài.
Trong các văn bản bản pháp lý trên, phương thức giải quyết các tranh chấp
kinh tế bằng hòa giải hầu như chưa được đề cập hoặc có đề cập nhưng còn sơ sài.
Đối với những tranh chấp kinh tế mà một bên là doanh nghiệp tư nhân thì việc giải
quyết được các cơ quan hành pháp thực hiện. Những vụ việc được chuyển sang giải
quyết tại Tòa án ít có khả năng được giải quyết bằng hòa giải. Thủ tục hòa giải khi
đó cũng chưa được quy định rõ ràng trong hoạt động tố tụng của Tòa án.
Đối với những trường hợp tranh chấp kinh tế gây nhiều thiệt hại cho việc thực
hiện kế hoạch nhà nước, thì việc xét xử của Tòa án trước hết là nhằm bảo vệ quyền
lợi của Nhà nước, nhằm thực hiện đúng kế hoạch Nhà nước giao; sau đó mới là bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, các bên chỉ có thể thỏa
thuận với nhau dưới sự trung gian hòa giải của Tòa án về việc bồi thường thiệt hại

16



×