Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

NGUYỄN DUY DUYÊN

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

NGUYỄN DUY DUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Duy Duyên


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới TS. Đặng Vũ Huân, người đã
trực tiếp động viên, hướng dẫn và tận tình chỉ bảo tác giả trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tác giả cũng xin bày tỏ lời cám ơn chân thành tới các thầy cô giảng
viên, các thầy cô Khoa Sau đại học, trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều
kiện thuận lợi nhất để tác giả có thể hoàn thành luận văn thạc sỹ luật học của
mình.
Bên cạnh đó, tác giả cũng xin được gửi lời cám ơn chân thành tới gia
đình, bạn bè và những đồng nghiệp đã giúp đỡ, ủng hộ tác giả có thể hoàn

thành luận văn của mình một cách tốt nhất.

Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2017.
Học viên thực hiện luận văn

Nguyễn Duy Duyên



MỤC LỤC
Trang

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP

6

1.1. Khái quát về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

6

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp

6

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

7

1.2. Lý luận pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp


10

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

10

1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

14

1.2.3. Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

19

Kết luận chương 1

25

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

26

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay

26

2.1.1. Các quy định về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp


26

2.1.2. Quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

34

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay

44

2.2.1. Thực trạng thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường tại
khu công nghiệp

44

2.2.2. Thực trạng thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường tại khu
công nghiệp của các chủ thể theo quy định của pháp luật

53

2.2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
tại khu công nghiệp

59


Kết luận chương 2

62


Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

63

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu
công nghiệp ở Việt Nam.

63

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
phải đảm bảo phát triển bền vững

63

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật
môi trường

65

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế và hợp tác quốc
tế trong bảo vệ môi trường

65

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu
công nghiệp ở Việt Nam


66

3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại
khu công nghiệp ở Việt Nam

66

3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ
môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam

72

Kết luận chương 3

76

KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CCN

Cụm công nghiệp


DN

Doanh nghiệp

ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

KBM

Kế hoạch bảo vệ môi trường

KCN

Khu công nghiệp

KCX

Khu chế xuất

KKT

Khu kinh tế


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Trải qua gần ba mươi năm xây dựng và phát triển, các khu công nghiệp
ở Việt Nam đã có đóng góp quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước

ngoài, tạo động lực cho phát triển công nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
và phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống
cho người dân… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà khu công
nghiệp đem lại, việc gia tăng ồ ạt các khu công nghiệp (KCN) trong thời gian
qua cùng với việc quy hoạch và vận hành các KCN mà không quan tâm sâu
sắc đến bảo vệ môi trường đã gây ra nhiều tác động xấu đến môi trường sinh
thái cũng như môi trường sống của khu vực dân cư quanh đó. Tình trạng ô
nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp hiện nay đang là một thực trạng
đáng báo động. Theo báo cáo hiện trạng môi trường KCN ở Việt Nam năm
2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì lượng chất thải phát sinh từ các
KCN đang có chiều hướng gia tăng theo tốc độ phát triển của KCN, dự báo
đến năm 2020, tổng lượng nước thải từ các KCN gần 5.000.000m3/ngày,
lượng các chất gây ô nhiễm từ các chất gây không khí từ các KCN là
5.000.000 kg/ngày. Thêm vào đó, thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường tại các KCN ngày càng diễn biễn phức tạp và khó kiểm soát. Trong
khi hiện nay, hầu hết các công nghệ, phương pháp xử lý chất thải tại các
KCN ở nước ta đang áp dụng chưa thật an toàn và đạt hiệu quả cao, hoạt
động giám sát, cưỡng chế của các cơ quan chức năng còn nhiều yếu kém.
Để bảo vệ môi trường tại KCN, Việt Nam đã thi hành nhiều chính
sách, chương trình thể hiện bằng các văn bản, nghị định, thông tư của Chính
phủ và các bộ ngành có liên quan. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998, tiếp
đến là Nghị quyết số 41/2004/NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số
35/NQ-CP ngày 18/3/2013 về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày
1


31 tháng 8 năm 2016 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi

trường. Các Nghị quyết đã chỉ ra những yếu kém trong công tác bảo vệ môi
trường, đồng thời đưa ra những định hướng rất quan trọng trong đó nhấn
mạnh các đô thị, các khu công nghiệp phải thực hiện tốt phương án xử lý chất
thải, ưu tiên xử lý chất thải độc hại. Nghị quyết Đại hội XII một lần nữa
khẳng định: "Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và
cải thiện môi trường theo hướng phát triển bền vững". Để cụ thể hóa các định
hướng nêu trên, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và pháp
luật bảo vệ môi trường tại KCN nói riêng đã từng bước được xây dựng và
hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đó. Tuy vậy cơ sở pháp lý cho các hoạt động bảo
vệ môi trường tại các KCN ở nước ta còn nhiều thiếu sót, bất cập, chưa đáp
ứng các đòi hỏi mà thực tiễn đang và sẽ đặt ra trong tiến trình phát triển bền
vững của đất nước.
Việc nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện hệ thống các quy định
pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN cũng như thực trạng bảo vệ môi
trường tại KCN bằng pháp luật, từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó và thực tế là yêu
cầu cấp thiết đối với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Vì vậy, tôi đã
lựa chọn đề tài "Pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp ở Việt
Nam" làm luận văn Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ môi trường là một lĩnh vực khá rộng và đã có không ít các công
trình nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề bảo vệ
môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất lại không nhiều, có thể
khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như sau:
Về các công trình nghiên cứu, các luận văn, luận án, có "Các giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở các khu công
nghiệp và các khu chế xuất" của TS. Trịnh Thị Minh Sâm, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2004. Báo cáo về "Tình hình và phương hướng phát triển
các khu công nghiệp nước ta thời kỳ 2006-2020" của Bộ Kế hoạch - Đầu
2



tư năm 2006. Báo cáo "Kiểm soát ô nhiễm môi trường khu kinh tế khu
công nghiệp Hà Nội" của Tổng cục Môi trường năm 2013. "Pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại khu công
nghiệp ở Việt Nam" của các tác giả Doãn Hồng Nhung và Nguyễn Thị
Bình, Nxb Xây dựng năm 2016; "Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả
Đinh Phượng Quỳnh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011;
"Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp tỉnh Hải
Dương", Luận văn Thạc sĩ luật học của Học viện Chính trị Quốc gia - Hồ
Chí Minh, năm 2009; "Bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Nghệ An", Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Quốc
Kỳ, Trường Đại học Vinh, năm 2015.
Về các bài viết đánh giá hay gợi mở một số khía cạnh của pháp luật
bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, có thể kể đến như: Bài viết của tác
giả Vũ Thị Duyên Thủy đăng trên tạp chí Luật học số 9/2011"Thực trạng
pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động của các khu công nghiệp ở
Việt Nam"; bài " Môi trường khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh Phía
Bắc thực trạng và bài học kinh nghiệm" của tác giả Phương Nhung đăng trên
tạp chí quản lý Nhà nước số 174 (tháng 7/2010). Về công tác quản lý môi
trường KCN, tác giả Ngô Sỹ Trung có bài viết: "Quản lý môi trường các khu
công nghiệp hiện nay" được đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 6/2010.
Tác giả Hoàng Thị Hường với bài viết: "Tăng cường quản lý môi trường đối
với các Khu công nghiệp" đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 157 (tháng
2/2009). tác giả Lê Thị Kim Tuyên với bài viết: "Thực trạng và giải pháp
bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam hiện
nay" đăng trên Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, tháng 7 năm 2012. Tác giả
Nguyễn Thị Bình với bài viết "Trách nhiệm bảo vệ môi trường tại khu công
nghiệp của Ban quản lý khu công nghiệp" đăng trên Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật điện tử tháng 7 năm 2016; tác giả Hồ Anh Tuấn với bài viết "Hoàn

3


thiện pháp luật bảo vệ môi trường nước trong khu công nghiệp ở Việt Nam"
đăng trên VNU Journal of Science: Legal Studies - Vol. 32, No. 4 (2016)…
Có thể khẳng định, cho đến nay, cũng đã có nhiều công trình nghiên
cứu về pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN nhưng việc đi sâu nghiên cứu
một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật bảo vệ môi
trường tại các KCN ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực vẫn là việc làm có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam, đề xuất phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN nhằm
đáp ứng tốt các yêu cầu của phát triển bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế.
* Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là:
- Nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ môi
trường tại KCN.
- Khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi
trường tại KCN ở Việt Nam hiện nay để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và
nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả việc thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận pháp luật,
hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường tại KCN và
thực tiễn thi hành ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn

đề lý luận pháp luật, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về
bảo vệ môi trường tại KCN, từ đó, xác định phương hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
4


pháp luật, luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống, có độ
tin cậy để nghiên cứu đề tài như: Phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, lịch
sử… trong đó, phương pháp tổng hợp, phân tích là những phương pháp được
sử dụng chủ yếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm
phong phú và sâu sắc hơn các vấn đề lý luận pháp luật bảo vệ môi trường tại
KCN, góp một phần nhỏ vào việc xây dựng các luận cứ khoa học để hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật, luận
văn chỉ ra các ưu điểm, hạn chế, bất cập là cơ sở thực tiễn để hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ môi trường tại KCN ở Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên
cứu của luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo pháp luật về bảo vệ môi trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ môi trường tại
khu công nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
môi trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái quát về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp
Trong quá trình phát triển kinh tế, đã hình thành nên những khu vực
tập trung chỉ có các cơ sở công nghiệp. Từ đó xuất hiện nhu cầu ban hành các
quy định về các khu vực này. Khái niệm KCN, với tư cách là thuật ngữ pháp
lý, được đưa ra đầy đủ lần đầu tiên tại Quy chế Khu công nghiệp và khu công
nghệ cao kèm theo Nghị định số 36/NĐ/CP ngày 24/4/1997 và được sửa đổi
trong Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về
khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Nghị định này quy định: "Khu
công nghiệp được hiểu là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định được thành
lập theo điều kiện, trình tự thủ tục quy định".
Khoản 11 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 cũng định nghĩa: "Khu công
nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp". Khái niệm KCN theo
Luật Đầu tư năm 2014 không đề cập tới yếu tố "được thành lập theo điều
kiện, trình tự thủ tục quy định", nhưng có thể thấy, để thành lập KCN thì các
nhà đầu tư xây dựng KCN cũng phải thực hiện trình tự thành lập theo quy
định của Luật Đầu tư 2014.
Như vậy, với khái niệm này, một KCN được hiểu phải đáp ứng 02 điều
kiện là: (i) Khu vực có ranh giới địa lý xác định; ( ii) Chuyên sản xuất hàng

công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Với các điều kiện
này, KCN có tính chất, đặc điểm khác so với các cơ sở sản xuất ngoài KCN.
+ Về không gian: Là khu vực có ranh giới địa lý xác định, phân biệt
với các vùng lãnh thổ khác và thường không có cư dân sinh sống. Các khu
công nghiệp đều được xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống hàng rào
6


KCN, phân biệt với các vùng còn. Mọi hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh
bên trong hàng rào đó, không chỉ được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật
hiện hành mà còn phải tuân thủ quy chế pháp lý riêng của KCN. Toàn bộ hạ
tầng kỹ thuật KCN được xây dựng phục vụ cho hoạt động sản xuất công
nghiệp và kinh doanh dịch vụ phục vụ công nghiệp, không phục vụ mục đích
sống dân cư, kể cả những người làm việc trong KCN.
+ Về chức năng hoạt động: KCN là khu vực chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Lĩnh vực đầu tư chủ
yếu của các doanh nghiệp trong KCN là sản xuất công nghiệp và dịch vụ phục
vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong KCN, không có các hoạt động sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho loại hình sản xuất này.
+ Về thành lập: KCN không phải là khu vực được thành lập tự phát mà
được thành lập theo quy định của pháp luật, trên cơ sở quy hoạch đã được
phê duyệt. Để phát triển các KCN, Nhà nước phải thiết lập môi trường đầu tư
thuận lợi, bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hệ thống cơ
chế chính sách toàn diện, đồng bộ. Chính vì vậy, Nhà nước phải xây dựng
quy hoạch phát triển các KCN, thẩm định kỹ trước khi thành lập và triển khai
xây dựng chúng.
+ Về mục đích thành lập: KCN được thành lập nhằm thu hút đầu tư
trong và ngoài nước cho sản xuất công nghiệp và nhằm tách riêng khu vực
sản xuất và khu vực sinh sống của nhân dân.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp

Theo Khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014 thì hoạt động bảo
vệ môi trường được hiểu là "hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác
động xấu đến môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy
thoái, cải thiện, phục hồi môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành". Từ định nghĩa này, hoạt động
bảo vệ môi trường tại KCN được hiểu là "hoạt động giữ gìn cho môi trường
KCN trong lành, sạch đẹp, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi
trường của KCN, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái,
7


cải thiện, phục hồi môi trường KCN, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành". Theo đó, bảo vệ môi trường tại
KCN thực chất là những hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá
nhân tiến hành nhằm mục đích cơ bản sau:
Một là, giữ gìn cho môi trường KCN được trong lành, sạch đẹp, cải
thiện môi trường KCN,đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn và khắc phục
những hoạt động gây hậu quả xấu do các tổ chức, cá nhân tác động đến môi
trường KCN.
Hai là, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đối với môi trường KCN.
Để bảo vệ môi trường tại KCN nhất là trong xu thế phát triển mạnh mẽ của quá
trình CNH - HĐH, những sức ép môi trường nói chung và môi trường KCN nói
riêng, thì vấn đề hết sức quan trọng là phải phòng ngừa những tác động tiêu cực
của hoạt động của KCN đối với môi trường và sức khỏe người lao động trong
các KCN, của người dân tại các khu vực xung quanh KCN, bảo vệ môi trường
sống tốt cho tất cả cộng đồng.
Ba là, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường
KCN. Quá trình tiến hành các hoạt động xản xuất công nghiệp đã thải ra một
lượng lớn các chất thải gây ô nhiêm nặng nề môi trường đất, nước, không
khí. Vì vậy, việc khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm, phục hồi và cải

thiện môi trường, hạn chế các tác động tiêu cực đến môi trường từ các hoạt
động của các KCN là yêu cầu cấp thiết hiện nay của công tác bảo vệ môi
trường nói chung và bảo vệ môi trường tại KCN nói riêng.
Bốn là, phòng ngừa, ứng phó với sự cố môi trường trong KCN. Hoạt
động công nghiệp trong các KCN có thể tạo ra những nguy cơ gấy ra sự cố
môi trường. Do đó, hoạt động phòng ngừa, ứng phó với sự cố môi trường
trong KCN là một hoạt động không thể thiếu trong các KCN bởi nếu những
sự cố này xảy ra thì hậu quả có thể rất nghiêm trọng cho môi trường và đời
sống con người. Sự cố môi trường biển của "vụ Formusa" tại KCN Vũng Áng
tỉnh Hà tĩnh làm cho cá của vùng biển dài hơn 200 km thuộc 04 tỉnh miền
trung và làm ảnh hưởng tới hàng trăm ngàn ngư dân và các người khác là một
8


ví dụ điển hình cho ảnh hưởng của sự cố môi trường của KCN đến môi
trường và đời sống kinh tế, xã hội.
Vấn đề môi trường và hoạt động bảo vệ môi trường tại KCN có những
đặc điểm khác biệt so với hoạt động bảo vệ môi trường chung, của các doanh
nghiệp hoạt động ngoài KCN, cụ thể:
Thứ nhất, có nhiều đối tượng thực hiện hoạt động bảo vệ môi trường
tại KCN: Đối với các doanh nghiệp không hoạt động trong KCN thì chủ
yếu có các nhóm đối tượng liên quan đến thực hiện hoạt động bảo vệ môi
trường gồm cơ quan nhà nước về môi trường (cơ quan quản lý nhà nước về
tài nguyên và môi trường), doanh nghiệp, cộng đồng dân cư xung quanh
doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với KCN, bên cạnh những đối tượng nêu trên
thì còn có thêm hai nhóm đối tượng khác là Ban quản lý các KCN (là cơ
quan quản lý nhà nước đối với các KCN) và chủ đầu tư, vận hành KCN.
Việc xuất hiện hai đối tượng này sẽ làm xuất hiện thêm nhiều mối quan hệ
bảo vệ môi trường so với các doanh nghiệp hoạt động ngoài KCN. Ví dụ
như mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về môi trường với Ban

quản lý các KCN, giữa Ban quản lý các KCN với chủ đầu tư, vận hành
KCN, giữa chủ đầu tư, vận hành KCN với các doanh nghiệp hoạt động
trong KCN…
Thứ hai, do đặc thù về hoạt động của các doanh nghiệp trong một địa
điểm tập trung là KCN nên vấn đề môi trường và hoạt động bảo vệ môi
trường cũng có những đặc điểm khác biệt, cụ thể: (i) Nhiều doanh nghiệp
trong KCN gần nhau, loại chất thải có thể giống nhau nên có thể bố trí xử lý
chất thải tập trung, có thể giảm chi phí vận chuyển chất thải và giảm xả thải
chất thải ra môi trường; (ii) Giảm các tác động đến môi trường từ việc vận
tải, xây dựng và vận hành các hệ thống cung cấp điện, nước, viễn thông…;
(iii) Tác động đến môi trường khu dân cư sẽ giảm do các KCN được quy
hoạch và lựa chọn địa điểm xa khu dân cư, xã các khu vực nhạy cảm về môi
trường; (iv) Hoạt động quan trắc về môi trường thuận tiện hơn do các doanh
9


nghiệp tập trung vào một địa điểm. Hoạt động quản lý nhà nước về môi
trường cũng sẽ thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, nếu các KCN được quy hoạch và vận hành không hoặc
không quan tâm đúng mức đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường thì
hoạt động của các KCN cũng là nguyên nhân phá huỷ nghiêm trọng môi
truờng tại nhiều khu vực. Bởi lẽ, tại các KCN, quy mô tác động tới môi
trường thường là rất lớn do có nhiều tác động cùng lúc và cùng tập trung vào
một khu vực nên nguy cơ ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường do tác động
quá sức chịu tải của môi trường là rất cao. Đây cũng chính là lý do yêu cầu
bảo vệ môi trường của các KCN thường được đặt ra khắt khe hơn, đòi hỏi
tính tổ chức cao hơn so với các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ, lẻ.
1.2. Lý luận pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp


Từ phân tích khái niệm, đặc điểm của bảo vệ môi trường tại KCN ở trên,
có thể đưa ra định nghĩa pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN "Pháp luật
bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp là một bộ phận của pháp luật môi
trường, bao gồm các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động
bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp, nhằm phòng ngừa, hạn chế những tác
động xấu tới môi trường khu công nghiệp và môi trường xung quanh".
Với định nghĩa này, có thể thấy, nội hàm khái niệm pháp luật bảo vệ
môi trường tại KCN bao gồm:
Một là, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN là một bộ phận của pháp
luật môi trường: Hệ thống pháp luật môi trường trên thế giới nói chung và
pháp luật môi trường Việt Nam nói riêng đều điều chỉnh hai vấn đề chính.
Thứ nhất, là bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên
(thường gọi là mảng xanh). Điều chỉnh vấn đề này nhà nước ban hành các
quy định pháp luật quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong quá tŕnh
khai thác, sử dụng, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
bảo tồn đa dạng sinh học như: bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ tài nguyên
10


khoáng sản, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ nguồn thủy sinh… Các quy định
pháp luật về vấn đề này tập trung điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh
theo hướng đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân khi khai thác, sự dụng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho các hoạt động
phát triển, đồng thời gắn chặt trách nhiệm của họ với việc bảo tồn và sử dụng
hợp lý chúng, đảm bảo lợi ích lâu dài về môi trường của cộng đồng. Thứ hai,
được pháp luật môi trường điều chỉnh là kiểm soát, ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường (thường gọi là mảng nâu). Về lĩnh vực này pháp luật môi trường được
xây dựng và thực hiện theo hướng ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan để giảm thiểu các chất gây ô

nhiễm môi trường, phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động
xấu cho môi trường do ảnh hưởng của các loại chất thải. Các quy định pháp
luật về lĩnh vực này điều chỉnh các nội dung như: đánh giá tác động môi
trường; quản lý chất thải; bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng, sản
xuất kinh doanh, dịch vụ…Các quy định pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN
thuộc nhóm quy định vấn đề thứ hai này. Nói cách khác, các quy định pháp luật
về bảo vệ môi trường tại KCN là một bộ phận của pháp luật môi trường.
Hai là, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN điều chỉnh những mối
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường tại KCN và môi
trường xung quanh: Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi
trường có thể được phân loại theo các nhóm sau: (i) Các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường tại KCN. Có thể kể đến một số quan hệ như: quan hệ phát sinh từ hoạt
động quy hoạch xây dựng KCN, quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra
việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN, các quan hệ phát sinh từ
hoạt động xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN… (ii) Các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của
mình trong quá trình hoạt động của mình có liên quan đến môi trường KCN.
Ví dụ: các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quản lý chất
thải của chủ cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trong KCN…
11


Ba là, mục đích của pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN nhằm phòng
ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường KCN khắc phục ô nhiễm, phục
hồi và cải thiện môi trường do hoạt động của KCN gây ra: Thông qua sự định
hướng cách xử sự cho các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức, cá nhân
khi tác động đến môi trường KCN đồng thời ràng buộc trách nhiệm các chủ
thể này bằng những chế tài cụ thể, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN không
những có tác dụng phòng ngừa mà còn phần nào hạn chế những tác động tiêu

cực đến môi trường KCN.
Từ khái niệm, đặc điểm môi trường và bảo vệ môi trường tại KCN và
nội hàm khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường tại KCN, có thể chỉ ra
những đặc điểm của pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN như sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN bao gồm
những quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường chung nhưng cũng được áp dụng
tại KCN và các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường được quy định riêng cho
các KCN.
Chúng ta thấy rằng, vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra không chỉ
đối với KCN mà còn đặt ra đối với hầu hết các lĩnh vực, địa bàn của đời sống
xã hội (Bảo vệ môi trường tại trường học, bệnh viện, nơi công cộng, đô thị,
nông thôn… KCN). Phù hợp với những đặc thù này, các nhà làm luật sẽ xây
dựng những quy định "riêng" cho địa bàn, lĩnh vực. Bên cạnh đó, những hành
vi gây ảnh hưởng xấu tới môi trường tương tự nhau như sản sinh, xả các loại
chất thải như nước thải, chất thải rắn, khí thải… chất thải thông thường hoặc
chất thải nguy hại… các hoạt động đầu tư có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu tới
môi trường nên pháp luật phải quy định về vấn đề này. Các nhóm quy định
này được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng có liên quan, trong đó có
các đối tượng thuộc KCN. Vì vậy, hệ thống quy phạm pháp luật bảo vệ môi
trường tại KCN được chi thành hai loại: (i) Những quy phạm pháp luật bảo
vệ môi trường chung và (ii) các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường được
quy định riêng cho các KCN. Về nguyên tắc, hai nhóm quy phạm pháp luật
này tạo thành một chỉnh thể thống nhất, không mâu thuẫn và không chồng
12


chéo và là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân thực
hiện quyền và nghĩa vụ trong bảo vệ môi trường tại các KCN.
Thứ hai, quan hệ pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN thuộc đối
tượng điều chỉnh của nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như Luật đầu tư,

Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật bảo vệ môi trường…
Các mối quan hệ này được thể hiện cụ thể như: Quan hệ phát sinh
trong hoạt động đầu tư xây dựng KCN, loại hình, ngành nghề được lựa chọn
đầu tư vào KCN (Luật Đầu tư); quan hệ trong xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường như xử phạt vi phạm hành chính, bồi thưởng
thiệt hại, trách nhiệm hình sự đối với những đối tượng vi phạm pháp luật bảo
vệ môi trường (Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Hình sự) và các nghĩa vụ
bảo vệ môi trường mà các đối tượng khác nhau phải thực hiện (Luật Bảo vệ
môi trường).
Thứ ba, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN không chỉ nhằm mục
đích bảo vệ môi trường mà còn nhằm bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước theo quan điểm phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là phạm trù được hình thành do nhu cầu của việc bảo vệ
môi trường. Thực chất của phát triển bền vững là sự kết hợp giữa phát triển với việc
duy trì môi trường hay nói cách khác là yếu tố cơ bản của phát triển bền vững là
quyền phát triển và sự cần thiết phải chăm sóc môi trường [34, tr.17]. Phát triển bền
vững được hiểu dưới nhiều khía cạnh và theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có
cách hiểu phát triển bền vững bao gồm những khía cạnh xã hội và hoạch định chính
sách và cũng có cách hiểu chỉ thuần tuý dưới góc độ môi trường [34, tr.18]. Trong
quá trình phát triển các KCN, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN góp phần xem
xét đầy đủ những yêu cầu bảo vệ môi trường từ hoạt động quy hoạch, xây dựng đến
vận hành các KCN và các doanh nghiệp trong KCN. Việc xem xét này sẽ góp phần
đáng kể trong quyết định chính sách nhằm bảo đảm phát triển bền vững. Quyết định
chính sách là bước quan trọng trong phát triển bền vững. Khả năng kết hợp giữa phát
triển và bảo vệ môi trường phụ thuộc rất lớn việc ban hành các chính sách đúng đắn.
13


Thực tế ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, nơi mà việc
quyết định chính sách thường bị chi phối bởi một nhóm hoặc một cá nhân

cho thấy ảnh hưởng to lớn của việc quyết định chính sách đối với phát triển
bền vững. Gắn liền với việc ra chính sách là vị trí và thẩm quyền của cơ quan
ban hành chính sách và quyết định. Việc xác định đúng vị trí, tạo ra được sự
kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau giữa các hệ cơ quan quyền lực nhà nước cũng
là yếu tố định chế quan trọng của phát triển bền vững. Các quyết định sẽ ít bị
mang tính chất tham nhũng, ít bị chi phối bởi lợi ích cá nhân nếu như các cơ
quan ban hành chúng được đặt dưới sự giám sát của cộng đồng hoặc các cơ
quan nhà nước khác. Không chỉ ở các nước đang phát triển mà ngay ở các
nước phát triển, việc hoàn thiện cơ quan quyết định chính sách cũng đang là
vấn đề đáng quan tâm [34, tr.19].
Thứ tư, pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN cần phải có những quy
định nhằm mục đích hạn chế hoặc loại trừ các ảnh hưởng xấu tới môi trường
trong toàn bộ quá trình của đầu tư của như hoạt động của KCN.
Những nguy cơ ảnh hưởng tới môi trường của các KCN có thể phát sinh từ
việc dự kiến đầu tư, xây dựng KCN, thực hiện hoạt động xây dựng KCN, các nhà
đầu tư đầu tư vào KCN và các doanh nghiệp hoạt động trong KCN. Như vậy, pháp
luật bảo vệ môi trường tại KCN cần phải được xây dựng ban hành và thực thi trong
suốt quá trình từ việc lập quy hoạch KCN cho tới quá trình hoạt động của KCN,
của các doanh nghiệp hoạt động trong KCN.
Thứ năm, từ đặc điểm thứ tư có thể thấy, pháp luật bảo vệ môi trường
tại KCN có đặc điểm là có sự tham gia của nhiều đối tượng hơn so với doanh
nghiệp hoạt động ở ngoài KCN.

1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp
Có những cách hiểu khác nhau về nội dung cơ bản của pháp luật môi
trường và từ đó cũng có cách hiểu khác nhau về nội dung cơ bản của pháp
luật bảo vệ môi trường tại KCN. Theo Giáo trình Luật Môi trường của Trường
Đại học Luật Hà Nội thì: "Luật môi trường là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành
bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lí điều chỉnh các quan
14



hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động
đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các phương
pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống
của con người" [34, tr.40]. Theo định nghĩa này, Luật môi trường gồm hai bộ
phận: (i) Các nhóm quy phạm pháp luật; (ii) Các nguyên tắc pháp lý. Nếu theo
cách hiểu này, "pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN là một chế định, một bộ
phận của pháp luật môi trường, bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật và các
nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể
trong quá trình tiến hành các hoạt động bảo vệ môi trường tại KCN".
Cách hiểu phổ biến hiện nay khi nghiên cứu pháp luật bảo vệ môi
trường tại những địa điểm cụ thể nào đó như khu dân cư, khu đô thị, KCN... thì
nội dung của pháp luật bảo vệ môi trường chỉ bao gồm các nhóm quy phạm
pháp luật. Các nhóm quy phạm pháp luật này là những nội dung chủ yếu của
pháp luật bảo vệ môi trường áp dụng tại địa điểm đó. Theo các hiểu này, pháp
luật bảo vệ môi trường tại KCN chỉ bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật
bảo vệ môi trường áp dụng cho KCN.
Tác giả luận văn cho rằng, cách hiểu của các tác giả của Giáo trình Luật
môi trường của Trường Đại học Luật Hà Nội là phù hợp. Các nguyên tắc của
pháp luật nói chung, nguyên tắc của pháp luật môi trường nói riêng cũng là tư
tưởng chính trị, pháp lý chỉ đạo quá trình xây dựng dựng và áp dụng pháp luật
bảo vệ môi trường tại KCN. Vì các nguyên tắc của pháp luật môi trường cần
được phân biệt với các nguyên tắc cụ thể được áp dụng trong các chế định
hay nhóm quan hệ khác nhau của nó. Các nguyên tắc của pháp luật môi
trường chi phối một cách toàn diện các quan hệ phát sinh việc bảo vệ môi
trường. Những nguyên tắc hoặc những quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với
từng nhóm quan hệ luật môi trường cần phải được ban hành nhằm thực hiện
các nguyên tắc cơ bản này. Tuy nhiên, theo tác giả luận văn thì các nguyên
tắc của pháp luật môi trường cũng chính là nguyên tắc cụ thể của pháp luật

bảo vệ môi trường tại KCN bao gồm:
- Nguyên tắc đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành.
15


- Tính thống nhất trong quản lí và bảo vệ môi trường.
- Nguyên tắc đảm bảo sự phát triển bền vững.
- Nguyên tắc coi trọng tính phòng ngừa [34, tr.43-47].
- Nguyên tắc nghĩa vụ vật chất của tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử
dụng và tác động tới các thành phần môi trường [35, tr.36].
Các nhóm quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN cũng có thể
được chia thành các nhóm quy phạm pháp luật nhau, phụ thuộc vào tiêu chí
phân loại:
(i) Căn cứ vào phạm vi và đối tượng áp dụng của nhóm quy phạm thì
pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN gồm các nhóm quy phạm chung áp dụng
cho nhiều đối tượng, trong đó có các đối tượng thuộc KCN và nhóm quy phạm
chỉ áp dụng riêng cho KCN.
(ii) Căn cứ vào nội dung thì pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN có các
nhóm quy phạm vê quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại KCN và nhóm quy
phạm về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường tại KCN.
(iii) Căn cứ vào tiến trình xây dựng và vận hành KCN, thì pháp luật bảo
vệ môi trường tại KCN gồm: (a) Quy định về bảo vệ môi trường trong giai
đoạn chuẩn bị đầu tư, xây dựng khu công nghiệ, (b) Quy định về bảo vệ môi
trường trong giai đoạn triển khai thi công xây dựng khu công nghiệp, (c) Quy
định về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hoạt động của khu công nghiệp và
(d) Quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm của chủ đầu tư,
chủ dự án về bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp.
Các nhóm quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường tại KCN được trình
bày sau đây sẽ căn cứ vào tiến trình xây dựng và vận hành KCN và như vậy
bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật sau:

Một là, quy định về bảo vệ môi trường trong giai đoạn chuẩn bị đầu
tư, xây dựng khu công nghiệp.
Theo nguyên tắc phòng ngừa các vấn đề môi trường và bảo vệ môi
trường cần phải được xem xét ngay từ khi chuẩn bị đầu tư hình thành nên các
KCN. Hoạt động chuẩn bị này bao gồm quy hoạch và kế hoạch phát triển các
16


KCN và từng dự án KCN. Quy hoạch được xem là công cụ có tính chiến lược
trong phát triển, được coi là một phương pháp để hướng tới tương lai theo
mục tiêu đã vạch ra. Có thể hiểu, quy hoạch xây dựng KCN là xác lập các
mục tiêu phát triển KCN mong muốn, đề xuất và lựa chọn phương án, giải
pháp để bảo vệ và cải thiện môi trường KCN, vì vậy, việc quy định những
yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch KCN có ý nghĩa rất quan
trọng. Bên cạnh đó, việc triển khai quy hoạch phát triển KCN thông qua việc
lập các dự án những KCN cụ thể cũng phải xem xét những vấn đề môi
trường. Các vấn đề bảo vệ môi trường trong triển khai các dự án đầu tư các
KCN có thể được giải quyết thông qua các quy định về ĐTM và thiết kế hệ
thống công trình kết cấu hạ tầng.
Hệ thống công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN là hệ thống xương
sống của KCN. Việc đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật KCN là đầu
tư cho phát triển và luôn phải đi trước. Do vậy việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật
KCN ngoài việc đảm bảo tính hiệu quả về kinh tế, còn phải đảm bảo thỏa
mãn các mục tiêu về bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, ngay trong thiết kệ hạ
tầng kỹ thuật KCN, những quy định pháp luật luôn phải lồng ghép yếu tố bảo
vệ môi trường tại KCN. Cụ thể trong việc thiết kế hệ thống hạ tầng kỹ thuật
phải đảm bảo thuận tiện trong xây dựng, sửa chữa, vận hành tiết kiệm sử
dụng đất, phải được thiết kế đồng bộ đảm bảo ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm
môi trường, sự cố môi trường từ các loại chất thải phát sinh trong khu vực
cũng như việc quản lý chúng một cách có hiệu quả.

Hai là, quy định về bảo vệ môi trường trong giai đoạn triển khai thi
công xây dựng khu công nghiệp.
Trong giai đoạn này bắt đầu có những tác động trực tiếp đến môi
trường KCN. Việc tiến hành hoạt động xây dựng có thể tạo ra nhiều tác động
tiêu cực cho môi trường như gây ô nhiễm đất, ô nhiễm nước, ô nhiễm không
khí. Hoạt động thi công công trình xây dựng còn tạo ra ô nhiễm tiếng ồn, ô
nhiễm rung, làm biến đổi cảnh quan thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh
học. Việc thi công công trình xây dựng còn là nguyên nhân trực tiếp làm suy
17


thoái tài nguyên thiên nhiên do việc sử dụng các nguyên nhiên vật liệu để xây
dựng nên các công trình này.
Thông qua các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường trong giai
đoạn triển khai thi công xây dựng KCN, những hành vi có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường từ hoạt động xây dựng sẽ bị loại trừ. Các chủ thể có liên
quan trong hoạt động xây dựng sẽ tiến hành hoạt động kiểm soát và tự
kiểm soát nhằm ngăn ngừa ô nhiễm môi trường cũng như các hành vi có
nguy cơ gây ra hậu quả cho môi trường.
Ba là, quy định về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hoạt động của
khu công nghiệp.
Đây là giai đoạn có tác động nhiều nhất đến môi trường của KCN. Đòi
hỏi phải có những quy định chi tiết, rõ ràng về nghĩa vụ bảo vệ môi trường
đối với từng đối tượng hoạt động tại KCN. Các quy định pháp trong giai đoạn
này tập trung chủ yếu về trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ đầu tư xây dựng, vận
hành KCN và chủ đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong
KCN. Trong quá trình hoạt động, các đối tượng này có phát sinh chất thải thì
phải thực hiện nghĩa vụ quản lý chất thải. Tùy từng ngành nghề sản xuất,
kinh doanh, các doanh nghiệp này làm phát sinh loại chất thải nào thì phải
thực hiện nghĩa vụ quản lý chất thải đó (khí thải, nước thải, chất thải rắn

thông thường, chất thải nguy hại..). Nhằm bảo vệ môi trường tại các KCN thì
việc nắm tình hình chất lượng môi trường, thực trạng chất lượng môi trường
để từ đó có những phương án bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế là hết
sức quan trọng. Do đó, hoạt động đánh giá thực trạng chất lượng môi trường
phải được xác định là một nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Để thực hiện nhiệm
vụ này, có thể xác định nghĩa vụ quan trắc môi trường. Nghĩa vụ này có ý
nghĩa rất quan trọng.
Đây là cơ sở để các cơ quan nhà nước nắm bắt được những thông tin
về tình hình quản lý môi trường tại các KCN, đồng thời giám sát việc thực
hiện nghĩa vụ của các chủ thể trên. Một nhóm nghĩa vụ quan trọng khác là
các nghĩa vụ liên quan đến phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi
18


×