Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

PHẦN 2 khủng hoảng tài chính 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.72 KB, 12 trang )

PHẦN 2: VẬN DỤNG LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG GIẢI
THÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008
2.1

Những yếu tố tác động đến khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
Có 5 yếu tố trong môi trường kinh tế có thể gây tồi tệ hơn một cách căn bản

cho vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong các TTTC và đưa đến cuộc
khủng hoảng tài chính (1) tăng lãi (2) Sụt giảm thị trường cổ phiếu (3) sự sụt giảm
bất ngờ về mức giá tổng hợp (4) tình trạng không chắc chắn tăng lên (5) sự hoảng
loạn ngân hàng.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu 5 yếu tố có thể gây ra sự đổ vỡ nghiêm trọng
trong các thị trường tài chính, nhóm chúng em phân giải cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 như sau:
Khủng hoảng khinh tế toàn cầu 2008 -2009 là khủng hoảng lịch sử, là đợt
suy thoái kinh tế kéo dài nhất và nghiêm trọng nhất kể từ đại khủng hoảng thập
niên 19930. Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lelmon Brothers vào 15/09/2008 là
vụ phá sản lớn trong lịch sử thế giới.
Khủng hoảng tài chính năm 2008 cũng giống như hầu hết các cuộc khủng
hoảng tài chính khác tại Mỹ, đã bắt đầu bằng sự tăng giảm lãi suất, một sự tụt dốc
thị trường cổ phiếu, sự tăng tính không chắc chắn – hậu quả thất bại của những
công ty tài chính và phi tài chính quan trọng. Trong giai đoạn khủng hoảng này, sự
tăng tính không chắc chắn, sự tăng lãi suất và sự sụt giảm của thị trường cổ phiếu
đã làm tăng tính khắc nghiệt của những vấn đề lựa chọn đối nghịch trong các thị
trường tín dụng. Sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu cũng làm tăng vấn đề rủi ro đạo
đức khi đó đã làm cho người cho vay ít muốn cho vay hơn và dẫn đến một sự sụt
giảm hoạt động đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp.
Do những điệu kiện kinh doanh xấu đi và tính chất không chắc chắn và sự
vũng mạnh của các ngân hàng của họ, những người gửi tiền bắt đầu rút vốn khỏi



các ngân hàng. Sự rút tiền hàng loạt ở các ngân hàng dẫn đến những vụ khủng
hoảng ngân hàng. Hậu quả của việc này làm, giảm số lượng ngân hàng, làm tăng
lãi suất hơn nữa và giảm các hoạt động trung gian tài chính cdo ngân hàng thực
hiện. Việc làm xấy thêm các vến đề vốn dĩ so lựa chionjs đối nghịc và ruti ro gại
đức gay a nên đã đưa tới sự co hẹp nền kinh tế hơn nữa.
2.2

BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN – NGUYÊN NHÂN CỐT LÕI CỦA

CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2008 bùng nổ do sự tác động kết hợp của nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên khi phân tích kỹ chúng ta sẽ thấy, nguyên nhân cốt
lõi của vấn đề là do bất cân xứng thông tin và hai vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức kết hợp với tài chính hành vi của các chủ thể kinh tế gây ra.
Mầm móng của mọi việc có lẽ bắt đầu khi FED cắt giảm lãi suất xuống mức 1%
để kích thích tiêu dùng và ngăn chặn việc xuống dốc của nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, nếu
người ta không lạm dụng mức lãi suất thấp này quá mức, nếu người ta không phá vỡ các
chuẩn mực tín dụng và tìm mọi cách để “qua mặt” các cơ quan chức năng, nếu mọi việc
đều được công khai dưới sự kiểm soát của các cơ quan giám sát thì có thể một cuộc
khủng hoảng tồi tệ nhất đã được ngăn chặn kịp thời.
Khi lãi suất ở mức thấp, kể cả các ngân hàng cho vay cũng như những người đi
vay đều muốn thực hiện việc vay càng nhiều càng tốt. Giá nhà được kỳ vọng là sẽ tăng
cao hơn lãi vay phải trả, vì thế ai cũng muốn vay để đầu tư thêm nhiều căn nhà khác.
Theo cách này, khi đến hạn họ vừa trả được nợ, vừa “bỏ túi” được một khoản
chênh lệch. Với các ngân hàng, việc cho vay càng nhiều càng đem lại cho họ mức thu
phí cao hơn. Do đó họ tìm mọi cách để cho vay, thậm chí còn lún sâu hơn nữa khi họ tin
rằng sau 2 năm, lãi suất cao hơn có hiệu lực thì người ta sẽ đem nhà thế chấp ra đảo nợ,
lúc đó họ sẽ thu được hàng loạt phí phát sinh. Việc này dẫn đến kết quả là họ cho vay
một cách“vô tội vạ”, không có một chuẩn mực tín dụng nào chấp nhận việc cho những
người không nghề nghiệp, không thu nhập, không tài sản vay và có thể nhận xét là

không có một quy hoạch, định hướng nào chuẩn mực cho hoạt động tín dụng trong thời


gian này. Rõ ràng ở đây đã tồn tại bất cân xứng thông tin, nếu không không có lý do gì
mà các cơ quan chức năng lại để các ngân hàng làm vậy. Theo lý thuyết tài chính hành
vi, đây được gọi là sự tự tin thái quá, người cho vay đã đánh giá quá thấp những rủi ro
hàm chứa trong các khoản vay vô lý này.
Các ngân hàng và các tổ chức tài chính lại tiếp tục bưng bít thông tin bằng cách
bán hết những khoản vay có thế chấp nhiều rủi ro nhất của mình bằng cách đóng gói
chúng lại trong những chứng khoán có tên gọi giấy nợ có thế chấp (Collateralized debt
obligations- CDO). Những giấy nợ này chuyển dòng tiền từ hàng ngàn khoản thế chấp
thành những lô trái phiếu được “khoanh vùng”, hay xếp hạng với đủ mức độ rủi ro và
lợi nhuận phù hợp với các dự án đầu tư khác nhau. Như vậy, với vỏ bọc bên ngoài là
CDO và được “dán tem bảo đảm” của các hãng xếp hạng Mỹ, các khoản vay xấu đã trở
nên tốt, an toàn và hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư, cho nên không một ai có thể nghĩ
rằng các khoản vay như trên cũng được chấp nhận và đem ra xếp hạng. Động thái tiếp
theo của ngân hàng một lần nữa chứng minh rằng những khoản cho vay của ngân hàng
là bất ổn. Lo ngại rủi ro sẽ xảy đến, các ngân hàng tìm cách chuyển rủi ro cho các tổ
chức khác (công ty bảo hiểm) thông qua hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng CDS, theo
đó nếu bị vỡ nợ, ngân hàng sẽ được tổ chức bảo hiểm này bồi thường, bù lại trước đó
ngân hàng phải đóng một khoản phí cố định cho tổ chức này. Việc che dấu thông tin thể
hiện ở chỗ các hợp đồng CDS này được ký kết thầm lặng giữa ngân hàng và tổ chức tài
chính khác (thường là các công ty bảo hiểm), mà không qua sự quản lí nào của cơ quan
nhà nước, cho nên không có cơ chế trung gian nào để xác định giá trị của chúng, chúng
làm cho thị trường chứng khoán trở nên u tối. Đến đây thì khoảng cách thông tin có
được giữa các tổ chức tài chính bên trong và công chúng bên ngoài đã quá lớn, có quá
nhiều việc bị che dấu. Hệ thống các tổ chức tài chính được vị chủ tịch FED đánh giá là
có khả năng tự phòng vệ tốt đang tồn tại quá nhiều rủi ro tiềm ẩn mà “chỉ cần một con
cờ bị đổ thì cả bàn cờ domino sẽ đổ theo”.
Câu hỏi được đặt ra là chẳng lẽ không một ai phát hiện ra được sự bất ổn này

sao? Và chẳng lẽ không có ai đã từng lên tiếng cảnh báo hay sao? Thực ra đã có rất
nhiều lời cảnh báo nhưng tất cả đều lần lượt bị bỏ qua. Thậm chí có nhiều quỹ đầu tư


cảnh báo không được đã đi đến hành động, họ đã đánh cược là giá nhà sẽ giảm, tuy
nhiên họ thất bại và phải chịu những khoản lỗ nặng, lý do là “bong bóng” vẫn chưa đủ
lớn để có thể vỡ, các quỹ đầu tư này đã không đủ mạnh để chống lại đám đông thị
trường. Trong trường hợp này, lý thyết tài chính hành vi giải thích rằng thị trường đang
bị chi phối bởi tâm lý bầy đàn, hành động đổ xô đi mua nhà của số rất đông các nhà đầu
tư đã đẩy giá nhà tăng cao và tạo ra bong bóng. Một phần trong số họ nhận thức được
nhưng vẫn đi theo đám đông để kiếm những khoản lãi nhất định, đa số nghĩ rằng giá nhà
sẽ tăng mãi.
Nếu bất cân xứng thông tin và hành vi “bầy đàn” của thị trường đã đưa mọi việc lên đến
đỉnh điểm như thế nào thì cũng chính chúng đã kéo mọi thứ xuống tới đáy theo tương
tự, thậm chí còn với một tốc độ cực nhanh. Giá nhà sụt giảm đã kéo theo nhiều hệ lụy
nghiêm trọng, hàng loạt các con nợ không có khả năng trả nợ cho ngân hàng; Hệ thống
các công cụ phái sinh CDO, CDS dựa trên tài sản cơ sở là bất động sản theo đó cũng
hỗn loạn và nhanh chóng bộc lộ sự không thực vốn có dẫn đến mất dần giá trị; Tiếp theo
đó là tình trạng mất tính thanh khoản của hàng loạt các công ty bảo hiểm do không bồi
thường nổi số lượng quá lớn các vụ vỡ nợ trong cùng một lúc, thậm chí công ty bảo
hiểm có tầm ảnh hưởng lớn nhất nước Mỹ AIG cũng phải cần đến sự trợ giúp của chính
phủ Mỹ mới không bị phá sản; Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác cũng
rơi vào tình trạng khủng hoảng tín dụng, mất tính thanh khoản và đứng trước nguy cơ
phá sản. Một sự sụp đổ của toàn hệ thống tài chính Mỹ. Điển hình có các vụ sau: Ngân
hàng đầu tư Lehman Brothers, lớn thứ tư ở Mỹ đã phải tuyên bố phá sản sau khi bị FED
từ chối giúp đỡ; Ngân hàng Washington Mutual Bank bị Ngân hàng đầu tư JP Morgan
Chase mua lại; Hai tổ chức tài chính lớn nhất của Mỹ Fannie Mae và Freddie Mac sau
khi tiếp nhận cứu trợ từ Chính phủ Mỹ đã được đặt dưới sự quản lý của Chính phủ…
2.3


DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM

2008
2.3.1 Khủng hoảng tài chính tại Mỹ và sự ảnh hưởng đến các quốc gia khác
Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có một lần", theo


lời ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED), đã được dự báo từ
năm 2006. Tuy nhiên, dự đoán cũng như phân tích của nhiều nhà kinh tế đã không đủ
sức thuyết phục để các cơ quan tài chính quyền lực nhất tại Mỹ và châu Âu có biện
pháp đề phòng. Nguyên nhân trực tiếp của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng
hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã
đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu
vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại
thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới
khả năng chi trả của khách hàng. Dư nợ trong lĩnh vực này tăng mạnh từ 160 tỷ USD
năm 2001 lên 540 tỷ USD vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ USD vào năm
2007. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất
Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó
với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào
giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Họ
không thể trả được nợ vay và nhà thì bị tịch biên. Thị trường bất động sản bắt đầu đóng
băng và giá nhà đất sụt giảm mạnh. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động
sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn
sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản.
Nạn nhân đầu tiên của cơn bão tài chính là Countrywide Financial, tập đoàn tài
chính từng nắm giữ 20% thị trường cho vay bất động sản Mỹ, chỉ trong vài tháng, đã bị
đẩy đến sát bờ vực phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến tháng 1/2008, ngân
hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of America, đã mua lại
Country Financial với giá 4 tỷ USD. Sau đó một tháng, đến lượt Northern Rock, ngân

hàng lớn thứ năm tại Anh, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay
thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu Ngân hàng Trung ương Anh. Nhà đầu tư ùn ùn
kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này; và đến
ngày 17/2/2008, Nothern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiện Country Financial
và Nothern Rock là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn
cầu cũng như làn sóng sáp nhập, phá sản, và bị Chính phủ tiếp quản của các định chế


tài chính.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai Tập đoàn chuyên
cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được Chính
phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ
vỡ với những tên tuổi lớn khác. Ngày 15/9/2008, Ngân hàng đầu tư lớn thứ tư nước Mỹ
Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau,
Washington Mutual Inc., một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ, đã tạo nên vụ phá
sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng giá trị tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ USD.
Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, Ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch
bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ USD vào AIG,
Tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết
cục tồi tệ hơn.
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow
Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Biến động tại phố
Wall trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục
năm đã bị phá. Không chỉ ở phố Wall, tuần lễ từ 15 đến 21/9/2008 thị trường chứng
khoán của cả thế giới chao đảo, từ Tôkyô đến Thượng Hải, Seoul và Hồng Kông, các
chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại châu Âu, các thị trường chứng khoán Paris,
Luân Đôn, Franfurt, Amsterdam cùng chung số phận. Thị trường chứng khoán
Matxcơva cũng lâm vào tình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho
cơn bão đi qua.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 chứng kiến các cơn sốt giá

dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu,
từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm 2008 đã leo lên trên 100 USD vào 20/2/2008
và lập kỷ lục trên 147 USD một thùng vào 11/7/2008. Giá dầu leo thang kéo giá hàng
hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên 1.000 USD một
ounce vào ngày 17/3/2008. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại
nhiều nơi, thậm chí cả ở các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng


xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008, giá dầu
bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân của hiện tượng trên là nhu cầu sử dụng
dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn về
kinh tế. Hiện giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 USD một thùng, mất hơn 100
USD, tương ứng gần 70%, so với mức giá kỷ lục trước đó vài tháng, bất chấp những nỗ
lực cắt giảm sản lượng của OPEC.
Bước vào quý IV/2008, suy thoái kinh tế toàn cầu biểu hiện rõ sau khi các trung
tâm kinh tế lớn nhất như Mỹ, Nhật Bản và EU cùng lần lượt rơi vào suy thoái. Kinh tế
Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh, khoảng âm 0,3% trong quý III/2008. Mức chi
tiêu của người tiêu dùng, vốn đóng góp tới hai phần ba vào sự tăng trưởng kinh tế Mỹ,
suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Thâm hụt ngân sách liên bang trong năm tài khóa
2008 tăng mạnh tới mức kỷ lục 454,8 tỷ USD, cao gấp ba lần mức thâm hụt 161,5 tỷ
USD trong tài khóa năm 2007, chủ yếu do chi phí quốc phòng tăng mạnh, nhất là phục
vụ cho hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Dự báo thâm hụt ngân sách liên
bang trong tài khóa năm 2009 có thể lên tới 1.000 tỷ USD. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ
thất nghiệp hiện nay của nước này lên đến 6,5% cao nhất trong 14 năm qua. Theo dự
báo, kinh tế Mỹ tiếp tục suy thoái trong năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên 8%,
trong khi các khoản tiền dự trữ và giá trị bất động sản giảm mạnh, chỉ số lòng tin của
người dân Mỹ giảm xuống tới mức kỷ lục. Ðiều này càng làm cho nền kinh tế số một
thế giới lâm vào suy thoái trầm trọng hơn.
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ quả của

tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia
tăng cao, chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.
Trong 3 tháng, tính tới đầu quý IV/2008, đã có hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản.
Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản xuất xe
hơi hàng đầu là Ford, General Motors (GM), và Chrysler phá sản. Kể từ đầu năm đến
nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính "quật" cho tơi tả.


Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của Mỹ tụt xuống mức thấp nhất trong
vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi hơn do khủng hoảng tài chính, ba đại gia trên đang
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, mà trước mắt là cạn kiệt tiền mặt. Chrysler từ
ngày 18/12/2008 đã ngừng hoàn toàn hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc Mỹ. Chính
phủ Mỹ đang cân nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập đoàn nguy ngập nhất, vay
gấp 14 tỷ USD trong thời gian ngắn, được trích từ nguồn hỗ trợ 700 tỷ USD dành cho
việc mua nợ xấu của các ngân hàng. Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một liều
thuốc tạm thời, đủ để hai hãng "sống sót" đến hết quý I/2009. Các kế hoạch dài hơi hơn
nhằm giải quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơi khi đó được chuyển giao cho
Chính phủ mới của Tổng thống Barack Obama. Theo ước tính của các chuyên gia kinh
tế, nếu các công ty được coi là biểu tưởng của nền công nghiệp xe hơi Mỹ phá sản, sẽ
có thêm khoảng 2,5 triệu lao động mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ từ đó cũng sẽ
leo thang với tốc độ chóng mặt.
Lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế, thì đến ngày 11/12/2008, cả thế giới chấn động khi các nhà chức trách
Mỹ bắt giữ cựu Chủ tịch Thị trường Chứng khoán Nasdaq Mỹ, đồng thời là một nhà
giao dịch chứng khoán huyền thoại của nước này, ông Bernard Madoff. Ông Chủ tịch
Công ty Chứng khoán Bernard L. Madoff Investment Securities LLC này đã dùng
những thủ đoạn tinh vi để thu hút vốn của các nhà đầu tư, rồi thua lỗ tới 50 tỷ USD.
Danh sách “nạn nhân” của ông “trùm lừa” này trải dài từ Mỹ, sang châu Âu và cả châu
Á. Trong số những “nạn nhân” lớn nhất trong vụ này phải kể tới Công ty Quản lý tài
sản Fairfield Greenwich Group của Mỹ với thiệt hại 7,3 tỷ USD, Ngân hàng Banco

Santander với mức thiệt hại 3,6 tỷ USD, Công ty Kế toán và Tư vấn tài chính Ascot
Partners với thiệt hại 1,8 tỷ USD… Vụ scandal trên hiện vẫn chưa có hồi kết với những
câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống giám sát tài chính Mỹ cũng như sự dính líu
của quan chức tại Washington với Bernard Madoff.
Theo dự báo của các chuyên gia, kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới sẽ tiếp tục đi
xuống cho tới giữa năm 2009. Cường quốc số một thế giới và nhiều nền kinh tế lớn


khác có xu hướng dần chuyển từ lạm phát sang giảm phát, trạng thái báo hiệu sự suy
giảm kéo dài của nền kinh tế, biểu hiện ở sự đi xuống của thị trường tín dụng, nhà đất,
lao động và hoạt động tiêu dùng. Một điều gây quan ngại cho cả thế giới là đói nghèo
đang gia tăng trên phạm vi toàn thế giới.
Nửa đầu năm nay, trong bối cảnh thị trường dầu thô liên tiếp lập kỷ lục và thiếu
chút nữa chinh phục mốc 150 USD/thùng, lạm phát là nỗi lo canh cánh của cả thế giới.
Tuy nhiên, càng về cuối năm, nỗi lo này càng giảm bớt cùng với sự đi xuống nhanh
chưa từng có của giá nhiên liệu. Mặc dù vậy, thế giới lại phải đương đầu với một mối
đe dọa mới là giảm phát - một vấn đề đáng ngại không kém gì lạm phát. Tại Mỹ, trong
tháng 11/2008, CPI giảm với tốc độ kỷ lục 1,7% sau khi đã giảm 1% trong tháng
10/2008. Từ đầu năm 2008 tới tháng 11/2008, CPI ở nước này chỉ tăng có 0,7%, so với
mức tăng 4,1% trong cả năm 2007. Tại châu Âu, lạm phát cũng đang giảm mạnh. Cơ
quan Thống kê EU (Eurostat) cho hay, lạm phát trong tháng 11/2008 của khu vực đồng
Euro đã giảm xuống còn 2,1% trong tháng 11/2008- mức thấp nhất trong vòng 14 tháng
trở lại đây - từ mức 3,2% trong tháng 10/2008. Tại Trung Quốc- nền kinh tế hồi đầu
năm còn đặt nhiệm vụ hàng đầu là “giảm nhiệt” tăng trưởng- lạm phát tháng 11/2008
cũng đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 22 tháng qua.
Tầng lớp dân nghèo của thế giới là một trong những đối tượng hứng chịu nhiều
tác động nặng nề của sự biến động giá cả và khủng hoảng tài chính. Tính toán của Tổ
chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho thấy, giá lương thực tăng cao và kinh tế
suy thoái đã làm số người bị đói năm 2008 tăng thêm 40 triệu, nâng tổng số người thiếu
đói toàn cầu lên 960 triệu người. Nếu như lạm phát tất yếu đe dọa nghiêm trọng cuộc

sống của họ, thì giảm phát cũng có khả năng gây tác động tai hại không kém, vì giá cả
lương thực giảm, dẫn tới hạn chế đầu tư phát triển diện tích trồng trọt, nguồn cung eo
hẹp.
2.1.2 Khủng hoảng tài chình trên thế giới
 Khủng hoảng tài chính tại châu Âu
Khu vực đồng tiền chung Euro cũng lần đầu tiên rơi vào suy thoái kể từ khi hình
thành năm 1999. Đến ngày 28/2/2008, Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào


danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài
sản mất giá là 1,36 tỷ Euro. Chưa đầy một tháng sau, chính xác là ngày 17/3/2008, sự
sụt giá không kiểm soát nổi của các khoản đầu tư tài chính- bất động sản đã buộc Tập
đoàn môi giới chứng khoán Bear Stearns của Mỹ tê liệt và chấm dứt hoạt động sau 85
năm tồn tại. Bear Stearns phải chấp nhận bán lại cho đối thủ JP Morgan Chase với giá
240 triệu USD, bao gồm cả trụ sở của hãng này. Tại thời điểm đó, giá mỗi cổ phiếu của
Bear Stearns là 2 USD, trong khi giá trước đó một năm là 170 USD.
Chưa dừng lại ở đó, đến ngày 29/4/2008, Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5
năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ
USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp
bất động sản. Đến ngày 31/7/2008, ngân hàng này công bố khoản trích lập dự phòng
tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD, và
Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín
dụng toàn cầu. Trước đó, ngày 11/7/2008, Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm
soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn
nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng
11 ngày.
Số liệu thống kê cho thấy GDP của 15 nước sử dụng đồng tiền chung Euro đã
tăng trưởng âm liên tiếp trong quý II và quý III/2008. Đức là nền kinh tế lớn nhất châu
Âu và đứng thứ ba thế giới chính thức rơi vào cuộc suy thoái lớn nhất trong vòng 12
năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịu mức sút

giảm mạnh nhất kể từ gần hai thập niên qua, số người thất nghiệp có thể lên tới 3 triệu
người vào năm 2010. Số liệu thống kê của Italia cho biết nền kinh tế nước này đang rơi
vào cuộc suy thoái nặng nề nhất kể từ năm 1992.
Các nền kinh tế châu Âu cũng không thoát khỏi vòng xoáy khủng hoảng. Nhiều
ngân hàng, tổ chức tín dụng châu Âu cũng chịu chung số phận ngân hàng Northern
Rock bị Anh quốc hữu hóa. Deutche Bank của Đức và UBS của Thụy Sỹ phải tăng mức
trích dự phòng do những thất thoát liên quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
 Khủng hoảng tài chính tại châu Á


Các nước có nền kinh tế phát triển là những nước ảnh hưởng nặng nề nhất từ
cuộc khủng hoảng trên.
Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức công bố lâm vào suy
thoái kinh tế ngày 18/11/2008 sau khi tăng trưởng âm liên tiếp trong hai quý II và
III/2008. Như vậy, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001, kinh tế Nhật Bản rơi vào suy
thoái. Trước đó
Khủng hoảng tài chính cũng tràn qua Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Braxin... là những
nơi được dự đoán là ít chịu tác động nhất. Kinh tế Trung Quốc vốn được coi là một động
lực tăng trưởng của kinh tế thế giới, sau nhiều năm tăng trưởng ở mức hai con số, đã
giảm chỉ còn 9% trong quý III/2008. Ngân hàng Thế giới cho biết tăng trưởng GDP của
Trung Quốc chỉ đạt 7,5% trong năm 2008, mức thấp nhất trong vòng 19 năm qua. Tốc độ
tăng trưởng công nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng từ 16% trong tháng 6 xuống còn 8,2%
trong tháng 10/2008, thấp nhất trong 7 năm qua. Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài
chính, theo dự báo sẽ còn khó khăn hơn trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảm nhiều
ngành sản xuất khác và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rúp mất giá
mạnh, Chính phủ đã phải chi 58 tỷ USD để giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó, nguy cơ
thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và kinh tế khó khăn, bởi thời kỳ thịnh vượng nhờ
giá dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định và mạnh lên trong thời gian
khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được giá, nhưng hiện đứng trước nhiều khó khăn do

khủng hoảng tài chính và giá dầu thế giới giảm mạnh, xuống dưới 50 USD/thùng - đây là
mức thấp nhất trong 4 năm qua. Nga đang thực hiện các giải pháp nhằm thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng tài chính ngày càng nghiêm trọng hiện nay. Chính phủ dự định chi
khoảng 190 tỷ USD nhằm hỗ trợ hệ thống tài chính và ngân hàng, các ngành kinh tế then
chốt cũng như cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hầu hết các nền kinh tế lớn ở Ðông - Nam Á đều định hướng xuất khẩu và phụ
thuộc nhiều vào thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Do vậy, dù ở mức độ khác
nhau các nước trong khu vực Ðông - Nam Á dễ bị tác động của xu hướng giảm sút


thương mại và đầu tư trên thế giới hiện nay. Trước mắt, lĩnh vực xuất khẩu, thị trường
chứng khoán và thị trường tiền tệ khu vực đang chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Singapore là quốc gia đầu tiên ở Ðông - Nam Á rơi vào suy
thoái trong năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tế nước này là xuất khẩu hàng công
nghiệp chế tạo, dịch vụ tài chính- ngân hàng và du lịch đều bị ảnh hưởng nặng nề của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng
3%. Chính phủ đã phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng bước tăng giá đồng nội tệ SGD.
Các biện pháp kích thích cả gói có thể làm cho thâm hụt ngân sách năm 2008 tăng lên
gấp ba lần. Kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng Won mất giá hơn 40% kể từ
đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Chính
phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và
bơm tiền vào hệ thống tài chính. Thái Lan cũng có những biểu hiện của suy thoái kinh
tế. Trong bối cảnh đó Pakistan là nước châu Á đầu tiên kêu gọi IMF trợ giúp 6,5 tỷ
USD.



×