Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008 ĐẾN KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂUx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 135 trang )

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khủng hoảng tài chính đã diễn ra ngày càng liên
tục với cường độ mạnh và diễn biến ngày càng phức tạp, gây ra những hậu quả
nặng nề đối với các quốc gia và toàn thế giới . Nhiều thị trường mới nổi đã trải
qua những cuộc khủng hoảng tài chính, có thể nhắc đến như khủng hoảng
Mexico 1994, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, khủng hoảng Acgentina
2001, và cuộc đại khủng hoảng 2008-2009. Cả thế giới đang phải chao đảo gánh
chịu hậu quả của cơn bão khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng đem tới thách
thức và cơ hội cho những ai biết nắm bắt thời cơ . Nhưng thực chất khủng hoảng
tài chính là gì?
Có rất nhiều băn khoăn xung quanh sự xuất hiện của những cuộc khủng
hoảng này, tuy nhiên băn khoăn lớn nhất và cũng cần giải đáp tốt nhất để có thể
tránh được những cuộc khủng hoảng khác là làm thế nào từ một đất nước từ trạng
thái tăng trưởng cao ngay trước một cuộc khủng hoảng có thể biến chuyển rất
nhanh chóng sang trạng thái khủng hoảng, sụt giảm kinh tế trầm trọng
1
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Các quốc gia ngày nay đang phát triển trong một thế giới có sự phụ thuộc
lẫn nhau một cách rất chặt chẽ .Xu hướng chung của thế giới ngày nay là tiến tới
một " ngôi nhà chung " sẽ được thiết lập cho nền kinh tế thế giới mà mỗi quốc gia
thành viên trong đó dù mạnh hay yếu đều đóng một vai trò nhất định vào sự phát
triển của ngôi nhà chung đó .Điều này sẽ đem lại lợi ích to lớn cho từng quốc gia
nhưng đồng thời nó cũng đặt mỗi quốc gia trước những thách thức to lớn cần
phải đương đầu . Mỗi sự thay đổi trong nền kinh tế quốc gia sẽ không chỉ còn là
vấn đề riêng của quốc gia đó nữa mà nó còn có những ảnh hưởng nhất định đến
các quốc gia khác . Vì thế ,nếu không có những sách lược phù hợp và không thận
trọng trong những bước đi trong việc phát triển kinh tế thì cái giá phải trả cho sự
bất cẩn đó sẽ vô cùng lớn .Cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ châu á năm 1997
là bài học vô cùng đắt giá cho những quốc gia không có sự cân nhắc rõ ràng
trong các bước đi của quá trình hội nhập. Đồng thời, Khủng hoảng kinh tế năm


2008 đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với mọi mặt
của kinh tế thế giới. Hầu hết các quốc gia đều ít nhiều chịu ảnh hưởng, từ suy
giảm tốc độ tăng trưởng cho đến nặng hơn là rơi vào khủng hoảng kinh tế. Nhiều
gói hỗ trợ kinh tế trị giá khổng lồ đã được bơm vào nền kinh tế của nhiều quốc
gia.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng hoảng lớn nhất trên
thế giới kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử của thế giới trong
những năm 30 của thế kỷ XX, nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với
nền kinh tế Mỹ và lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống
tài chính và sự tăng trưởng kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc của cuộc khủng
hoảng đi qua theo rất nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc
khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị trường đã trở nên ổn định hơn, quá
trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các nước vẫn phải tiếp tục lịch
2
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
trình tái cơ cấu và đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng tài chính mới (tàn
dư của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) đó là khủng hoảng nơ công châu Âu
đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế đồng Euro nói riêng và nền kinh tế
thế giới nói chung.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã bàn về
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn
buộc phải nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ
đến đời sống kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mội khu vực và thế
giới.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra tác động mạnh mẽ đến mọi
khía cạnh của nền kinh tế Châu Âu từ thị trường chứng khoán, hệ thống ngân
hàng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế. Để đối phó với tình hình đó Chính phủ,
Ngân hàng Thương mại các nước và các tổ chức khác đã phải hết sức khẩn
trương thực hiện các biện pháp can thiệp, giải cứu thị trường như liên tục giảm lãi
suất, tung ra các gói giải pháp kích thích tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ tài chính

nhằm đảm bảo lòng tin của công chúng, thị trường và đã đạt được những kết quả
khả quan. Do đó, việc tìm hiểu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đến nền kinh tế các nước Châu Âu là hết sức quan trọng. Để cứu vãn nền kinh tế
khỏi cơn suy thoái, các chính phủ đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm
kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ
công một cách đáng kể, tác động dẫn đến khủng hoảng nợ công Châu Âu.
Với đề tài nghiên cứu “Từ khủng hoảng tài chính 2008 đến khủng hoảng
nợ công Châu Âu”, chúng tôi sẽ phân tích chi tiết nguyên nhân, diễn biến và tác
động đến chính sách tài chính toàn cầu nhằm cho ta cái nhìn đúng đắn hơn về
“mặt trái” xu hướng toàn cầu hóa. Đồng thời, đề tài còn đưa ra những ảnh hưởng
3
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
mà Việt Nam gánh chịu từ các cuộc khủng hoảng này nhằm rút ra bài học cho
Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.Và cũng qua đó khẳng định
một tất yếu khách quan cho nền kinh tế Việt Nam : đó là đẩy nhanh tiến trình hội
nhập với thế giới bên ngoài với những bước đi vững chắc ,chủ động đối phó với
những thách thức những trở ngại luôn đi kèm với một nền kinh tế mở.
Bài viết của chúng tôi gồm ba phần chính:
Phần 1: Tổng quan lý thuyế về khủng hoảng tài chính
Phần 2: Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
Phần 3: Khủng hoảng nợ công Châu Âu
Với lượng thông tin mà chúng tôi cung cấp trong đề tài, hi vọng sẽ giúp các bạn
có được cái nhìn tổng quát về khủng hoảng tài chính, từ đó sẽ cung cấp các kiến
thức cơ bản để đánh giá ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến sự phát triển kinh tế
toàn cầu.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
I. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÀ GÌ?
Khủng hoảng tài chính là một biến cố mà khi đó các khu vực tài chính và
các tổ chức kinh tế có sự vỡ nợ với số lượng lớn, các tập đoàn và định chế tài
chính phải đối mặt với rất nhiều khó khăn với những hợp đồng đến hạn thanh

toán. Do đó, những khoản nợ mất khả năng thanh toán tăng vọt và tất cả hoặc hầu
hết nguồn vốn của hệ thống ngân hàng bị rút cạn. Tình huống này có thể xuất
hiện cùng với sự sụt giảm giá tài sản, sự tăng nhanh của lãi suất thực và sự chậm
4
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
lại hoặc đảo chiều của dòng vốn đầu tư.Trong một vài trường hợp,cuộc khủng
hoảng bắt đầu bởi những người gửi tiền vào ngân hàng ,tuy nhiên trong hầu hết
các trường hợp khác, đó là do họ nhận thấy các định chế tài chính quan trọng rơi
vào khó khăn có tính hệ thống dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt.Khủng
hoảng là một trong hai loại biến cố:
i) Việc rút tiền hàng loạt dẫn tới việc chính phủ phải đóng cửa,sáp nhập hoặc thâu
tóm một hoặc nhiều định chế tài chính,
ii) Nếu không có sự rút tiền,đóng cửa,sáp nhập,thâu tóm hay sự giúp đỡ quy mô lớn
của chính phủ đối với một định chế tài chính quan trọng (hoặc một nhóm các
định chế) thì sẽ đánh dấu sự bắt đầu tình trạng căng như dây đàn đối với các định
chế tài chính khác.
II. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1. Khủng hoảng tiền tệ
Khủng hoảng tiền tệ còn được gọi là khủng hoảng tỷ giá hối đoái hay
khủng hoảng cán cân thanh toán nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn đến sự
giảm giá một cách đột ngột của đồng nội tệ hoặc trường hợp NHTW phải bảo vệ
đồng tiền của nước mình bằng cách nâng cao lãi suất hay chi ra một khối lượng
lớn dự trữ ngoại hối.
a. Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ nhất
Đây là mô hình khủng hoảng được khái quát từ các cuộc khủng hoảng của
các nước Châu Mỹ Latin trong thập niên 80. Paul Krugman (1979) và sau đó là
Flood & Garber (1984) đã giải thích cơ chế truyền động của khủng hoảng tiền tệ
dựa vào mô hình tiền tệ đơn giản.
Hình 1: Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ nhất
5

Xuất phát điểm là các chính sách kinh tế vĩ mô không
ổn định và duy trì chế độ tỷ giá hối đoái ổn định
Thâm hụt ngân sách
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Theo mô hình, nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng này là thâm hụt
ngân sách và chế độ tỷ giá cố dịnh. Khi thâm hụt ngân sách xảy ra, chính phủ sẽ
thực hiện in tiền hay phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, tạo ra
một sức ép làm giảm giá trị đồng nội tệ ( tác động lên tỷ giá hối đoái). Chính phủ
bảo vệ chính sách tỷ giá cố định này bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại hối
( chính là trực tiếp mua hoặc bán ngoại tệ); nếu có một thị trường tài chính phát
triển , nhiệm vụ này có thể được thực hiện bằng các hoạt động thị trường mở hay
can thiệp vào thị trường ngoại hối kỳ hạn. Trong trường hợp này chính phủ sẽ
bán dự trữ ngoại hối để duy trì tỷ giá cố định, làm cho dự trữ của quốc gia giảm,
sự suy yếu của các yếu tố kinh tế vĩ mô trở thành một tín hiệu cho một cuộc tấn
công đầu cơ vào đồng nội tệ và đẩy nhanh quá trình khủng hoảng. Cuối cùng,
cách giải quyết là chính phủ buộc phải chấm dứt tỷ giá cố định và chuyển sang
6
Tài trợ bằng cách phát hành
thêm tiền
NHTW bán dự trữ ngoại hối để duy trì tỷ
giá hối đoái cố định
Sức ép lên tỷ giá hối đoái
Dự trữ ngoại hối suy giảm
Tấn công đầu cơ
Khủng hoảng tiền tệ
Khủng hoảng tiền tệ
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
thả nổi tỷ giá. Đó là hành vi tối đa hóa lợi ích của nhà đầu tư chứ không phải là
một hành vi phi lý trí.
Tuy vậy, phân tích này có điểm yếu là dựa vào mô hình vĩ mô đơn giản,

trong đó giả định mọi đối tượng có khả năng dự đoán hoàn hảo. Việc giả định hai
loại tài sản nội tệ và ngoại tệ có nghĩa là chính phủ có thể bảo vệ tỷ giá cố định
khỏi bị phá giá bằng cách trực tiếp bán dự trữ ngoại tệ. Những giả định đơn giản
của mô hình cho phép ta mô tả khá cụ thể quá trình diễn ra khủng hoảng nhưng
rõ ràng trong thực tế có nhiều yếu tố gây ra khủng hoảng ( chứ không chỉ là thâm
hụt ngân sách ) đã bị bỏ qua.
b. Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai
Các mô hình thế hệ thứ hai là sự tiếp nối các nghiên cứu của Krugman
(1979) và Flood và Garber (1984). Theo Obstfeld (1986, 1994 và 1996), các mô
hình cảnh báo thế hệ thứ 2 không xuất phát từ các yếu tố kinh tế vĩ mô căn bản
mà tập trung vào kỳ vọng. Những mô hình này nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của kỳ
vọng hiện thực hóa khủng hoảng và những rối loạn thị trường tới một đồng tiền.
Hình 2: Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai
Kỳ vọng thị trường:
chính phủ có thể rời bỏ tỷ giá cố định để thực hiện chính sách kinh tế khác (như giảm thất
nghiệp )
Các nhà đầu cơ tấn công đồng nội tệ
Tấn công xảy ra tạo kỳ vọng đồng nội tệ có thể bị phá giá và làm tăng lãi suất
Chính phủ thấy lãi suất tăng lên gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng và tình trạng thất nghiệp nên thả
nổi tỷ giá
KỲ VỌNG XOAY VÒNG
7
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Trong mô hình này, Obsfeld đã đưa ra khái niệm “kỳ vọng xoay vòng”
(self-fulfilling expectations),vì vậy mà mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ
hai còn được gọi là mô hình kỳ vọng xoay vòng.Theo ông,việc quyết định bảo vệ
tỷ giá hối đoái cố định có cả lợi ích và chi phí. Đứng trước sức ép phải thả nổi tỷ
giá,nếu chính phủ quyết định bảo vệ tỷ giá cố định thì lợi ích có được sẽ là uy tín
về chính sách trong dài hạn.Nhưng việc bảo vệ tỷ giá tạo ra những tác động tiêu
cực tới nền kinh tế vì thường thì lãi suất phải tăng lên. Lãi suất tăng,trước hết làm

suy giảm tăng trưởng kinh tế và gây ra thất nghiệp. Một tác động tiêu cực khác là
đối với hệ thống ngân hàng,lãi suất cao buộc các ngân hàng phải trả lãi cao hơn
cho các nguồn vốn huy động. Nhưng đối tượng vay nợ theo lãi suất thả nổi sẽ gặp
khó khăn về khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ khó đòi và tình trạng vỡ nợ vì thế gia
tăng làm ảnh hưởng tới năng lực tài chính và khả năng thanh toán của hệ thống
ngân hàng.
Đứng trước sự cân đối giữa lợi ích và chi phí, chính phủ có thể lựa chọn
bảo vệ tỷ giá hối đoái hay thả nổi tỷ giá.Các nhà đầu cơ cũng có hai sự lựa chọn:
hoặc là tấn công vào đồng nội tệ hoặc là không.Nếu thấy tại một thời điểm nào
đó,việc bảo vệ tỷ giá cố định tạo nên những chi phí kinh tế quá lớn thì các nhà
8
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
đầu cơ có thể giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Kỳ vọng này làm các
nhà đầu cơ và cả nhiều nhà đầu tư khác đồng loạt bán nội tệ để mua ngoại tệ.
Điểm then chốt trong mô hình của Obfeld là khủng hoảng hoàn toàn có thể
mang tính tự phát sinh chỉ do yếu tố tâm lý của các nhà đầu cơ lẫn đầu tư chứ
không phải do những yếu kém nội tại của nền kinh tế. Sở dĩ có điều này là bởi vì
kỳ vọng ban đầu có được phụ thuộc vào việc thay đổi giá cả và chỉ số kinh tế
khác tác động như thế nào tới tình hình kinh tế và chính trị.Nhưng ngược
lại,những thay đổi về giá cả và các chỉ số kinh tế này lại có thể xảy ra đơn giản là
vì kỳ vọng của các nhà đầu tư.Những yếu tố có tác động qua lại theo kiểu xoay
vòng này có thể tạo ra một cuộc khủng hoảng mà lẽ ra không thể xảy ra nhưng lại
xảy ra khi các đối tượng có cùng một kỳ vọng như vậy.
Nhược điểm của mô hình:
• Khó giải thích những sự nhảy vọt của nền kinh tế giữa các trạng thái cân
bằng.Thông thường,phải mất một thời gian nhất định thì lãi suất trong nước
mới ảnh hưởng bất lợi tới thất nghiệp và ngân sách.Do đó,mô hình có thể
không giải thích được tại sao khủng hoảng tự phát lại xảy ra trong thời gian
ngắn như vậy.
• Mô hình cũng không thể giải thích được tại sao các nhà đầu tư lại đồng loạt

điều chỉnh dự đoán của họ gây ra những chuyển động của nền kinh tế giữa các
điểm cân bằng. Mô hình này chỉ có thể giải thích tốt tình huống trong đó nhà
đầu tư hoặc nhà đầu cơ lớn tồn tại trên thị trường nhưng không thể giải thích
được tình huống mà ở đó cần sự phối hợp giữa các nhà đầu tư để tạo ra những
cuộc tấn công tự phát.
c. Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ ba
Mô hình này được đưa ra sau cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997 bởi
Paul Krugman, Radelet và Sachs vào năm 1998. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
mối quan hệ khá chặt chẽ giữa những trục trặc trong khu vực ngân hàng tài chính
với khủng hoảng tiền tệ.
9

×