Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

ĐỀ CƯƠNG ngữ văn 9 học kỳ I chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.35 KB, 14 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I - NGỮ VĂN 9
PHẦN I - VĂN BẢN
I. Thơ hiện đại việt nam
1. Đồng chí (1948)- Chính Hữu
- Nội dung: Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến
đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên
sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng
- Nghệ thuật: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự gắn bó
keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm, Bút
pháp tả thực kết hợp với lãng mạn.
MB1: Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Phần lớn thơ ông
hướng về đề tài người lính với lời thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng giàu hình
ảnh. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ viết về người lính hay của ông. Bài thơ đã diễn tả thật
sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
Chinh Hữu đã ghi lại tình cảm cao quý ấy trong bài thơ mộc mạc mà có sức rung cảm lạ thường.
Bài thơ mở đầu bằng những lời tâm sự chân tình:
Quê hương anh nước mận, đồng chua.......
......Đồng chí!
Đó là lời trao gửi tâm tình của hai người lính xa quê vào những phút giây nghỉ ngơi ngắn ngủi
sau chặng hành quân dài vất vả, sau một trận đánh ác liệt hay trong đêm rừng cùng nhau phục kích
quân thù. Điều làm cho mọi người dễ xích lại gần nhau là những câu chuyện quê hương, Quê hương
anh và làng tôi, cách gọi chứa đựng tình cảm gắn bó thiết tha. Không thấy nhắc đến tên một địa
phương cụ thể nào, chỉ biết rằng quê hương anh là vùng nước mặn đồng chua. Câu thơ gợi nhiều hơn
tả. Thành ngữ nước mặn đồng chua đi vào câu thơ rất tự nhiên, khiến người đọc liên tưởng đến một
vùng đồng chiêm trũng ven biển quanh năm úng lụt. Cuộc sống người dân ở đây rất gieo neo, cơ
cực. Còn làng tôi là một làng nghèo ở vùng trung du đồi núi, đá sỏi cây cằn, đất đai quý hơn vàng
bạc. Con người phải đổi bát mồ hôi lấy bát cơm. Cả hai vùng quê đều nghèo nàn, lam lũ. Chỉ qua hai
câu thơ thôi tác giả đã nêu rõ thành phần xuất thân của người chiến sĩ. Phần lớn họ là nông dân
nghèo khổ. Theo tiếng gọi cứu quốc, họ tạm xa con trâu, mảnh ruộng đế cầm súng giết giặc. Ra đi
chiến đấu, mỗi người để lại sau lưng nơi chôn nhau cắt rốn với luỹ tre xanh, với mái tranh nghèo
quen thuộc và những người thân yêu nhất, không hẹn mà nên, những người nông dân ấy gặp nhau tại


một điểm: lòng yêu nước. Tình yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường
chiến đấu. Bởi thế nên từ những phương trời xa lạ, mọi người chẳng hẹn mà quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chia nhau gian khổ, hiểm nguy, đêm đắp chung một chiếc
chăn đơn, qua tâm sự vui buồn, họ thành tri kỉ. Khi đà thành tri âm tri kỉ rồi thì ngọt bùi san sẻ, sống
chết có nhau.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày............
...................Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Là lao động chính của gia đình, giờ các anh đi chiến đấụ, bao khó khăn vất vả sẽ đè nặng lên vai
cha già, mẹ yếu, vợ dại, con thơ. Biết chắc là như thế nhưng các anh vẫn quyết ra đi cứu nước vì cứu
nước là cứu nhà. Ruộng vườn thì gửi bạn thân cày; gian nhà tranh cù kĩ, xiêu vẹo đành mặc kệ gió
lung lay. Mặc kệ nghĩa là dẹp hết chuyện riêng tư sang một bên để lo đánh giặc trước đã. Phảng phất
đâu đây cái chí của Người ra đi đầu không ngoảnh lại (Nguyễn Đình Thi). Đây là phong thái, là cách
1


nói dân dã, mộc mạc của người nông dân. Hai cách nói khác nhau nhưng cùng chung một thái độ:
dứt khoát đưa nhiệm vụ cứu nước lên trên hết.
Tôi với anh chung cảnh ngộ, anh với tôi chung một lí tưởng, chung đội ngữ và tôi với anh giờ
đây lại chung cả những cơn sốt rét rừng ghê gớm. Cái căn bệnh quái ác mà lính ta anh nào cũng sợ.
Sợ mà không sao tránh khỏi. Nhà thơ nhắc đến chuyộn này như nhắc đến một kỉ niệm khó quên
trong tình bạn.
Bài thơ đem lại sự rung động sâu sắc khi dựng nên được hình ảnh chân thực và giản dị của anh bộ
đội cụ Hồ:
"Đêm nay rừng hoang sương muối...............
......................Đầu súng trăng treo."
Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hoà quyện với nhau. Cảnh vẫn là cảnh rừng
hoang, sương muối âm u, lạnh giá nhưng dường như nó không con de doạ được con người nữa mà
trái lại, nó bị đẩy lùi ra tít phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh của đồng đội đang sát cánh bên nhau

trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng người chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đêm khuya
chờ giặc, trăng đã xế ngang tầm súng. Và lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt, thú vị: Đầu súng
trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Trong sự tương phản giữa hai hình
ảnh súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được môi quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần
quyết chiến để bảo vệ hoà bình. Trăng tượng trưng cho cái đẹp và cuộc sống yên vui. Súng và trăng
là biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở, đồng thời nó cung thể
hiện rõ nét cái tư thế chủ động, tin tưởng và tâm hồn lạc quan, yêu đời của chiến sĩ ta.
Như tên gọi của nó, bài thơ Đồnq chí là bức chân dung sống động về anh bộ đội Cụ Hồ buổi đầu
kháng chiến. Chính Hữu đã khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ với tấm lòng cảm phục và mến thương
sâu sắc. Bài thơ lưu lại mãi mãi trong kí ức bao thế hệ cầm súng chống xâm lăng từ đó đến nay. Bởi
thế, nhắc đến tác giả là người đọc nhớ ngay đến bài thơ. Chỉ thế thôi cũng là điều thật đáng quý đối
với người sáng tác.
2. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) - Phạm Tiến Duật
- Nội dung: Bài thơ đã khắc hoạ hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc hoạ
nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ, với tư thế hiên
ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền
Nam.
- Nghệ thuật: Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường,
ngôn ngữ và giọng điệu giàu chất khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn.
Đề bài phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kinh
Trong những năm tháng gay go, quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, từ
tuyến đường Trường Sơn đầy bom rơi đạn nổ, nhà thơ Phạm Tuyến Duật đồng thời cũng là anh bộ
đội đã viết những bài thơ ca ngợi người lính trên chiến trường với một phong cách thơ riêng biệt,
độc đáo. Thơ của anh đã được đánh giá cao.Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Trích trong
tập Vầng trăng-Quầng lửa) là một trong những bài thơ để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc về
hình ảnh những người lính và sự kế thừa của biết bao thế hệ...
Hình tượng thơ gắn liền với cái đẹp, vẻ chau chuốt sự kì vĩ đi cùng năm tháng đó chính là hình ảnh
những chiếc xe không kính…- Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. ấy
thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt của bài thơ. Hình tượng độc đáo

nhưng hợp lý này đã có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm,
sự lạc quan và quyết tâm dành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ. Hình tượng những
chiếc “xe không kính” đã gợi lên những nguy hiểm cận kề. Những “ bom giật, bom rung” làm vỡ
kính xe. Sự hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính. Lời thơ bình dị: “ Không kính
2


không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…”
- Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó khăn gian khổ mà
anh bộ đội lái xe phải chịu đựng: “Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già…………mưa xối như ngoài trời”.
Hoàn cảnh chiến trường khó khăn, cái chết là những thử thách lớn với những người lái xe trên con
đường Trường Sơn khói lửa.- Điệp ngữ “ không có kính” ở đầu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn
mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ, hiểm nguy sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người
lính Trường Sơn vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam, dù thiếu thốn, khó khăn
vẫn kiên cường chiến đấu.. Trong tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn
nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam. Trong bom đạn khốc liệt
của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn dữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước, thực hiện khẩu
hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Câu thơ chuyển giai điệu, thanh thản, tự
tin:“ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
- Từ láy “ung dung”, và điệp từ nhìn: “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong
cách của người lái xe trên đường ra trận.Tư thế và lòng tự tin ấy còn được biệu lộ ở chỗ bất chấp “
bom giật, bom rung” của kẻ thù, vẫn cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, của đất nước, những nét đẹp
lãng mạng, mặc dù cái chết còn lẩn quẩn, rình rập đâu đó quanh anh. Hình ảnh thơ đẹp, mạnh mẽ:
“ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
- Những thiếu thốn,khó khăn vật chất lại càng không ngăn được con đường anh đi tới:“ Không có
kính, ừ thì có bụi”; “ Không có kính, ừ thì ướt áo” Câu thơ mộc mạc như một lời nói thường ngày

đầy dí dỏm, tinh nghịch: “ừ thì có bụi”, “ ừ thì ướt áo” đã giúp ta hiểu thêm về người lính trước
những khó khăn gian khổ . Có khó khăn nhưng nào đáng kể gì! Có sao đâu, anh chấp nhận tất cả. Cách giải quyết khó khăn của anh cũng thật bất ngờ, thú vị:

Chưa cần rửa, phì phèo châm điêu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”;
“ Chưa cần thay, lái trăm cây số ………… gió lùa khô mau thôi”
- Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui thể hiện niềm lạc quan yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng. Tư thế
hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy còn được nhân lên
gấp bội vì cạnh anh còn có cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không
kính” được hình thành, bao gồm những con người từ bốn phương chung lý tưởng, gặp nhau thành
bạn bè.
“ Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Các anh đã cùng chung niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng đội, tình đồng chí. Hình ảnh sinh
hoạt ấm tình đồng đội:“ Chung bát đũa nghĩa là gia đình
Võng mắc chông chênh đường xe chạy”.Những câu thơ này như tái hiện được những âm điệu vui
tươi của bài hát `“ Năm anh em trên một chiếc xe tăng”. Tuy mỗi người một tính nhưng ta chung
một lòng”. Đọc những câu thơ tiếp theo, ta thấy rõ khó khăn gian khổ càng nhiều hơn chiến tranh
càng ác liệt hơn:
“ Không có kính, rồi xe ………… thùng xe có nước”.
Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của anh bộ đội
vẫn không hề lay chuyển: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Hình ảnh tượng “Chỉ cần trong
xe có một trái tim”Trái tim là hình ảnh hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe đồng thờ cũng là hình ảnh
ẩn dụ tượng trưng cho ý chí, nghị lực và lóng quyết tâm dành chiến thắng của các anh Đó chính là
lòng yêu nước bất khuất của các anh bộ đội cụ Hồ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
3


- Bài thơ thành công trong việc khắc họa hình ảnh những anh bộ đội lái xe trên tuyến đường Trường
Sơn đầy gay go, thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt

nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Họ là hình ảnh “Nhân dân ta rất anh hùng”. Âm
điệu trẻ chung, vui tươi, lời thơ gần với những lời nói trong sinh hoạt thường này và cách xây dựng
hình tượng thơ độc đáo đã thể hiện phong cách thơ riêng của Phạm Tiến Duật.
3. Đoàn thuyền đánh cá (1958)- Huy Cận
- Nội dung: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc hoạ nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà
giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc
sống.
- Nghệ thuật: Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng
phong phú, độc đáo; có âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan.
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá: của Huy Cận
Bài làm
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách mạng ông
nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại,
từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được
sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một bài ca ca
ngợi cuộc sống của những con người lao động mới.
Cảnh ra khơi và tâm trạng náo nức của con người được khắc họa qua từ ngữ: “Mặt trời xuống
biển…..
Sóng đã cài then đêm sập cửa” -Nghệ thuật so sánh nhân hóa cho thấy cảnh
biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn
xuống đáy biển.
Mặt trời xuất hiện trong bài thơ rất nhiều lần nó như người bạn đồng hành cùng những ngư dân trên
biển Mặt trời mọc, mặt trời lặn, mặt trời thật sự tỏa sáng giống như những con người hăng say làm
việc đang tỏa sáng. Những con người thời bình tuy không phải ra chiến trường đánh giặc nhưng trên
mặt trận lao động sản xuất họ cũng gặp nhiều khó khăn, những thiên tai, bão lũ trên biển hàng năm
cướp đi rất nhiều sinh mạng con người. Nhưng những ngư dân không thể sống thiếu biển, cuộc sống
của họ gắn liền với biển, nên lần nào ra đi họ cũng vui vẻ không hề hoảng sợ. Tác giả đã tạo ra một
hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết 3 sự vật và hiện tượng: Câu hát, cánh buồm và gió khơi.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hat căng buồm cùng gió khơi”

Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cùng với gió
biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi. Nghệ thuật ẩn dụ trong cách viết của nhà
thơ Huy Cận đã làm cho những câu thơ sinh động hơn, khéo léo và nhiều sức gợi tả trong lòng người
đọc. Tinh thần yêu đời, niềm tin vào cuộc sống luôn xuyên suốt bài thơ. Tác giả muốn qua những
người ngư dân hăng say lao động để nói lên tinh thần yêu nước cống hiến sức mình cho tổ quốc. Bài
thơ của nhà thơ Huy Cận càng đáng quý khi trong những năm gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc
đang cạnh tranh nhau trên biển Đông, việc những người ngư dân bám biển cũng là thể hiện sự bảo vệ
chủ quyền của dân tộc Việt Nam ở trên biển. Ước muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển
khơi của con người thật đáng nể phục.
Thuyền ta lái gió….lưới vây giăng
Câu thơ vừa gần gũi vừa xa xôi, hư hư thực thực khiến cho con thuyền hiện lên thật gần gũi với
con người nhưng cũng thật xa mờ. Sự đối lập giữa con thuyền nhỏ bé với cả biển cả vũ trụ bao la.
Thiên nhiên với con người luôn gắn liền với nhau từ bao đời nay vẫn thế. Nếu như cuộc sống là một
bức tranh thì thiên nhiên và con người là hai mảnh ghép không thể tách rời nhau. Biển đẹp biển hiền
hòa, biển dịu êm hay dữ dội thì biển vẫn luôn là người bạn gắn bó với những ngư dân, với những
vùng quê có biển. Biển như người mẹ hiền cho con người tôm cá, cho con người muối mặn…cho
4


con người những khu du lịch nghỉ dưỡng sau những ngày làm việc mệt nhọc. Hình ảnh mặt trời được
tác giả miêu tả rất nhiều với nhiều trạng thái khác nhau từ hoàng hôn tới bình minh.
Bài thơ là những bức tranh đẹp, rộng lớn kế tiếp nhau về hình ảnh thiên nhiên và đoàn thuyền
đánh cá. Thiên nhiên như một người bạn thân thiết, đồng hành cùng cuộc sống của con người. Hình
ảnh người lao động trong bài thơ được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn, thể hiện niềm tin, niềm vui
trước cuộc sống mới.
4. Bếp lửa (1963)- Bằng Việt
- Nội dung: Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những
kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn
của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước.
- Nghệ thuật: Bài thơ đó kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành

công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi
mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
Đề bài phân tích bài thơ bếp lửa
Bài làm
Mỗi người khi xa quê họ đều nhớ về quê hương với những kỷ niệm gần gũi nhất, thân thương nhất.
Tế Hanh nhớ về quê là nhớ về dòng sông. Giang Nam nhớ về quê là nhớ về những buổi trốn học đuổi bướm. Rồi “kẻ nhớ canh rau muống”, “người nhớ cà đầm tương”. Những cái bình thường quen thuộc tưởng
chừng như chẳng có gì đáng nhớ nhưng khi xa rồi mới không thể nào quên. Bằng Việt trong những năm
tháng du học ở Liên Xô nhớ da diết về hình ảnh bếp lửa với người bà thân thương. Một người bà giàu
tình ân nghĩa.
Mở đầu dòng cảm xúc của tác giả là hình ảnh.
Một bếp lửa chờn vờn,
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Từ“chờn vờn” là từ láy tượng hình vừa giúp chúng ta hình dung làn sương sớm đang bay nhè
nhẹ vừa gợi cái mờ nhoà của hình ảnh kí ức theo thời gian. Từ “ấp iu” là một sáng tạo mới mẻ của
nhà thơ trẻ. Đó không phải là từ láy, từ ghép đơn thuần mà là sự kết hợp và biến thể của 2 từ “ấp iu”
và “nâng niu” ấp iu gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp,
điệp ngữ “một bếp lửa” điệp lại hai lần gợi ra hình ảnh khơi nguồn cảm hứng cho dòng hồi tưởng về
bà.
Lên 4 tuổi cháu ................còn cay.
Thành ngữ “đói…mòn” cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, hình ảnh con ngựa gầy rạc cùng
người bố đánh xe chắc cũng gầy khô là những kỉ niệm về thời gian khó. Hình ảnh bếp lửa và khói
cùng với hình ảnh người bà hiện lên trong nỗi nhớ thương ngậm ngùi của người cháu
Tám năm cùng bà nhóm lửa,
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi.
Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 có mối lo giặc tàn phá xóm làng “Giặc
đốt…rụi” có những hoàn cảnh chung của nhiều gđ VN trong cuộc kháng chiến chống Pháp : mẹ và
cha đi công tác bận không về cháu sống cùng bà trong sự cưu mang dạy dỗ. Hoàn cảnh chung của
đất nước trong kháng chiến chống Pháp.
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà.
Đang trong dòng hồi tưởng tác giả như tách ra khỏi kí ức trở về với hiện thực trực tiếp nói với bà “
bà còn nhớ không bà” Tiếng tu hú gợi hoài niệm gợi tình cảnh vắng vẻ và nhớ mong của hai bà cháu.
Miên man theo dòng cảm xúc hồi tưởng, hình ảnh bà hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất
cao quí. Làm trọn nhiệm vụ của người hậu phương để người đi công tác được yên lòng… lời dặn
trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp chúng ta hình dung rõ ràng giọng nói, tiếng
5


nói tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ VN yêu
nước, đầy lòng hy sinh, kiên cường nhóm lửa giữ lửa
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.....
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tĩnh tại và tương đối khái quát, theo mạch cảm xúc, chuyển
thành hình ảnh ngọn lửa trìu tượng hơn chủ quan hơn, nhiều ý tứ hơn. Đó là ngọn lửa của tấm lòng
ấm áp tình yêu thương con cháu. Ngọn lửa niềm tin dai dẳng và bền chặt vào tương lai cuộc kháng
chiến. Từ bếp lửa tác giả suy ngẫm về cuộc đời bà
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa.....
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Từ láy lận đận và hình ảnh ẩn dụ mấy nắng mưa diễn tả cuộc đời trải nhiều vất vả gian lao, cực nhọc
vậy mà bà vẫn giữ thói quen dậy sớm cho đến tận bây giờ không còn chiến tranh đói rét thiếu ăn
thiếu mặc như trước nữa....Điệp từ “nhóm” nhắc lại 4 lần trong khổ thơ thấy được sự tần tảo, giàu
đức hi sinh của bà, bà không chỉ nhóm lửa luộc sắn, khoai mà còn nhóm niềm yêu thương , nhóm
dạy cả tâm tình tuổi nhỏ. Hình ảnh bếp lửa bình dị thân thuộc mà kì diệu thiêng liêng nâng đỡ bước
chân cháu trên khắp chặng đường đời.
Tác giả viết " Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!".
Đúng vậy vì bếp lửa thật giản dị, bình thường và phổ biến trong mọi gđ VN nhưng nó cũng thật
cao quý kì diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn bó với bà- người giữ lửa, nhóm lửa, truyền ngọn lửa
yêu thương và niềm tin cho con cháu. Bếp lửa trở thành 1mảnh tâm hồn, 1 phần không thể thiếu
trong đời sống tinh thần của cháu. Người cháu đã khôn lớn, đang ở phương trời xa, quen với khung

trời rộng với bếp ga, bếp điện nhưng vẫn luôn nhớ về hình ảnh bếp lửa, nhớ về bà. Ngọn lửa của
lòng bà đã trở thành kỉ niệm, niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cho cháu.
5. Ánh trăng (1978) - Nội dung: “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua
của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc,
củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
- Nghệ thuật: Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm.
Đề bài phân tích bài thơ Ánh trăng
Thơ xưa cũng như nay, thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà văn, nhà
thơ. Đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng trăng đã giật mình thảng thốt nhớ cố
hương. Nay Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên
nhiên một ánh trăng. Và đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên,
vụ tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân
hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ.
Ánh trăng gắn với những kỷ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê con người khi đó sống giản dị,
thanh cao, chân thật trong sự hòa hợp với thiên nhiên trong lành
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với biển
Ánh trăng gắn bó với những kỷ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính
trong rừng sâu “Hồi chiến tranh ở rừng, vầng trăng thành tri kỉ”
Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao
của cuộc kháng chiến – vầng trăng tri kỷ. Nhân vật trữ tình gắn bó với trăng trong những năm dài
kháng chiến. Trăng vẫn thủy chung, tình nghĩa.
Vầng trăng tri kỷ ngày nào nay đã trở thành "người dưng" – người khách qua đường xa lạ. Sự thay
đổi của hoàn cảnh sống – không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện sống cách biệt.
Thình lình đèn điện tắt....
.....Đột ngột vầng trăng tròn
6


Hành động "vội bật tung cửa sổ" và cảm giác đột ngột "nhận ra vầng trăng tròn", cho thấy quan hệ

giữa người và trăng không còn là tri kỷ, tình nghĩa như xưa vì con người lúc này thấy trăng như một
vật chiếu sáng thay thế cho điện sáng mà thôi. Câu thơ dửng dưng – lạnh lùng – nhức nhối, xót xa
miêu tả một điều gì bội bạc,
nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống.
Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở: Đừng để những giá trị vật chất điều
khiển chúng ta...Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ.Vầng trăng vẫn một
tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ. Tác giả sử dụng hình ảnh thơ khá hay "trăng tròn" biện
pháp nghệ thuật hóan dụ đặc sắc "ngửa mặt lên nhìn mặt". Cách viết thật lạ và sâu sắc, trăng – người
đang đối diện đàm tâm.Ánh trăng đã thức dậy những kỷ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình
cảm bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên Cảm xúc "rưng rưng" là biểu
thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỷ.
Có cái gì rưng rưng.....
...Như là sông là rừng
Biện pháp liệt kê đồng, bể, sông, rừng lúc này không phải đại diện cho thiên nhiên nữa mà đại diện
cho quá khứ gian lao nghĩa tình hiện về Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm
hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.Ánh trăng hiện lên đáng giá biết
bao, cao thượng vị tha biết chừng nào.
Trăng cứ tròn vành vạnh........
.......Đủ cho ta giật mình
Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ vẫn tròn đầy, vẹn nguyên tình nghĩa không
thể phai mờ. Ánh trăng im phăng phắc biện pháp nhân hóa trăng chính là người bạn nghĩa tình
mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: Con người có thể vô tình, có thể lãng
quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
"Giật mình" là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô
tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái "Giật mình" của sự ăn năn, tự trách, tự thấy
phải đổi thay trong cách sống: Không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên
nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiện nhiên.Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời
nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong hòa bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng
bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.
Bài thơ Ánh trăng là một lần "giật mình" của Nguyễn Duy về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình

với những kỷ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy
ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm người, cách sống ân nghĩa thủy chung ở đời. Ánh trăng thật
sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thật của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi
mà chúng ta tưởng đã ngủ yên trong quên lãng./.
II. Truyện Việt nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945
1. Làng (1948) - Kim Lân viết sâu sắc về đề tài người nông dân trong thời kì k/c chống Pháp
a. Nội dung: Tình yêu làng quê, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi
tản cư đã được thể hiện rất chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện “Làng”.
b. Nghệ thuật: Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả
tâm lí và ngôn ngữ nhân vật.
c. Tình huống truyện
+ Tác giả tạo tình huống đặc sắc ông Hai nghe tin làng theo giặc
+ T/g đặt nhân vật vào tình huống để nhân vật tự bộc lộ t/c yêu làng, yêu nước,
+ t/c yêu nước, tinh thần k/c bao trùm chi phối t/c yêu làng quê
+ Tạo nút thắt cho câu chuyện để nhân vật tự bộc lộ tâm trạng, phẩm chất góp phần thể hiện chủ đề
d. Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
- T/y làng là bản chất truyền thống của người nông dân:
7


+ Ông hay khoe về làng chứng tỏ niềm tự hào sâu sắc về làng quê “Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
+ Nó còn trở thành niềm say mê niềm kiêu hãnh của ông Hai
- Sau cách mạng ông Hai có những chuyển biến trong t/c
+ Ông tự hào về phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến của quê hương: đào đường…
+ Ông quan tâm và theo dõi tin tức kháng chiến, ông vui vì những tin thắng lợi của quê hương.
-> Chuyển biến trong nhận thức của người nông dân
- Tình yêu làng gắn bó hòa quyện với tình yêu nước:
+ Ông Hai đang vui sướng vì nghe được nhiều thành quả của k/c thì ông nghe được tin làng theo giặc
khiến ông sững sờ bàng hoàng không thể tin được “cổ ông nghẹn ắng lại…. thở được” ông nói lảng đi

chuyện khác rồi ra về với tâm trạng xấu hổ
+ Nhìn lũ con ông giàn nước mắt ông thương con, xấu hổ niềm tự hào trong ông đã bị xúc phạm
+ Ông dằn vặt nội tâm, đau đớn ông tự kiểm điểm trong óc “không mà họ toàn là những người có tinh
thần cả mà…”
+ T/g diễn tả sâu sắc tinh tế tâm trạng ông Hai bằng hình thức độc thoại nội tâm
+ Chỉ nghe những tiếng xì xào cũng làm ông giật mình lo sợ, ám ảnh
+ Ông đấu tranh tư tưởng gay gắt hay quay về làng, quay về tức là bỏ k/c bỏ cụ Hồ còn ở lại đây thì bị coi
thường bị xua đuổi.
+ Ông quyết định “làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù” biểu hiện sâu sắc về sự
chuyển biến trong nhận thức của người nông dân họ đã biết đặt t/y nước và tinh thần k/c lên trên t/y làng
+ Ông trò truyện với con trai là để tự giãi bày với lòng mình, tự mình nói với chính mình dường như để
thanh minh để trấn an mình trong tình huống căng thẳng.
- Khi nghe tin làng được cải chính:
+ Ông Hai trút bỏ được gánh nặng tâm lí “mặt rạng rỡ, miệng bỏm bẻm, mắt hấp háy…”tác giả dùng từ
láy và miêu tả ngoại hình…
+ Ông càng tự hào và vui sướng hơn ông náo nức khoe làng mình, nhà ông bị tây đốt là minh chứng cho
tinh thần kháng chiến của làng Chợ Dầu…
=> Sự thống nhất t/y quê hương và tinh thần k/c trong t/y đất nước. Nhà văn Kim Lân đã rất tinh tế trong
việc diễn tả tâm lí nhân vật
Đề bài 1: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn " Làng" của Kim Lân.
A- Mở bài:
- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những
truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu
người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông
dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu
Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của
dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống
cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp.

B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước.
Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà
nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có
chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và
độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đã mang rõ màu sắc riêng, in
rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
8


a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thống trong ông Hai.
- ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
- Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh
thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng
làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quê cái không khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào,
khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi
nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai
dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi
nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đụ, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không
được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt
hủi”. ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra
thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại
dân.

- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám
ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có
lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa
chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình
yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như
vậy nhưng thực lòng đau như cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi
lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em
đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố
của nó.
+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
• Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
• Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là
cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đụ sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng
liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trỳt bỏ, ụng Hai tột cựng vui sướng
và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ
không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về
làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và
ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm
trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc
9



thoại.Ngôn ngữ của ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân
vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô
cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nột mới trong nhận thức
và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm
nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.
Đề bài 3; Trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế diễn
biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
Dựa vào truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân, em hãy phân tích để làm sáng rõ điều đó.
Bài làm
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
( Đỗ Trung Quân )
Trong trái tim mỗi con người luôn có một khoảng dành riêng cho quê hương, tình cảm dạt dào cháy
bỏng với quê hương luôn có sức sống mãnh liệt bền bỉ. Đặc biệt trong hoàn cảnh gian khó nguy
hiểm tình cảm ấy càng tỏa sáng rạng ngời. Với ngòi bút sắc sảo chân thực, tâm hồn đồng cảm sâu
sắc nhiều nhà văn Việt Nam hiện đại đã khắc họa thành công hình ảnh những con người có tình cảm
yêu làng quê da diết. Thành công hơn cả là nhà văn Kim Lân với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn
Làng – một lão nông dân nghèo luôn nặng lòng với quê hương. Lật lại từng trang sách, ta nghẹn
ngào xúc động cùng buồn vui với nhân vật và càng thấu hiểu được vẻ đẹp ẩn chứa trong bức tranh
nội tâm nhân vật. Trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động và tinh
tế diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
Ông Hai nhân vật chính của tác phẩm là người rất yêu làng, nhưng phải xa làng đi tản cư. Tình
yêu làng của ông được đặt vào một tình huống đầy thử thách: tin làng chợ Dầu theo giặc, phản bội

kháng chiến. Ông Hai đã trải qua tâm trạng dằn vặt, đau đớn, phải đấu tranh rất quyết liệt để lựa
chọn con đường đi đúng đắn cho mình.
Khi nghe tin làng theo giặc, ông bàng hoàng, sững sờ “ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê
rân rân”.
Ông nghi ngờ, cố chưa tin nhưng khi cái tin ấy được khẳng định từ chính miệng những người
tản cư dưới xuôi lên thì ông không thể không tin. Từ lúc ấy, tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt với
mặc cảm là kẻ phản bội. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “ cúi gằm mặt xuống mà đi”
Ông sống trong tâm trạng nơm lớp lo sợ, xấu hổ, nhục nhã “ Cứ nghe thấy tiếng Tây, Việt gian,
cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà nín thít”
Ông tủi thân thương con, thương dân chợ Dầu, thương thân mình phải mang tiếng là dân làng
Việt gian “ Nước mắt ông lão cứ giàn ra”
Ông Hai tiếp tục bị đầy vào tình huống thử thách căng thẳng khi nghe tin người ta không chứa người
làng chợ Dầu
Ô Hai cảm nhận hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống “ đi dâu bây giờ?”, “ Rồi đây
biết làm ăn, buôn bán ra sao”.
Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng ông vô cùng bế tắc. Mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh
điểm. Ông nghĩ “ Hay là quay về làng?”, nhưng ông hiểu rõ “ Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ
cho thằng Tây” , là phản bội cách mạng, phản bội Cụ Hồ.
10


Ông đã dứt khoát lựa chọn theo cách của ông “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi
thì phải thù”. Tình yêu nước đã rộng lớn hơn bao trùm lên tình cảm làng quê. Nhưng dù xác định
như thế, ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng. Vì thế mà ông càng đau xót tủi hổ.
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời
tâm sự với đứa con để củng cố niềm tin vào cách mạng và kháng chiến.
Diễn biến tâm trạng của ông Hai được tác giả miêu tả một cách tinh tế và sinh động
Tác giả miêu tả cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ, đăc biệt
diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh day dứt, day dứt trong tâm trạng nhân vật.
Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ.

Ngôn ngữ kể, ngôn ngữ của nhân vật thật đặc sắc, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật ông Hai giàu
tính khẩu ngữ, vừa có nét riêng của người nông dân, vừa mang đậm cá tính của nhân vật.
Xây dựng nhân vật ông Hai, tác giả đã tô thêm những nết đẹp cho con người Việt Nam. Họ
không những cần cù, chăm chỉ thông minh mà còn có tình yêu quê hương đất nước sâu sắc mãnh
liệt, sẵn sàng hi sinh mọi thứ vì Tổ quốc thân yêu. Có cùng tiếng nói với Kim Lân, nhà văn Anh Đức
cũng khắc họa hình ảnh ông lão vườn chim – một lão nông nghèo sống cô đơn, gắn bó với từng tấc
đất U Minh, yêu từng gốc tràm, yêu từng con chim nhỏ. Tình cảm yêu quê hương đất nước của con
người Việt Nam thật giống như lời tác giả Ơ-ren-bua khẳng định: “ lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu
miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”
2. Lặng lẽ Sa Pa
a. Nội dung: Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc hoạ thành công hình ảnh những người lao động bình
thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó,
truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
b. Nghệ thuật: Truyện đã xây dựng được tình huống hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, có sự kết hợp giữa
tự sự, trữ tình với bình luận.
Đề bài 1: Đọc truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, tuổi trẻ chúng ta cảm nhận được bao
nhiêu điều bổ ích và thú vị: Cuộc đời thật đẹp và đáng yêu. Chung quanh ta có biết bao nhiêu con
người đẹp, tâm hồn họ, việc làm của họ làm ta cảm phục kính yêu. Em có suy nghĩ gì về ý kiến trên.
*Gợi ý
A.Mở bài
- Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một truyện ngắn hay. Với cốt truyện đơn
giản xoay quanh một tình huống bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm
công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa, đã để lại trong lòng người đọc một niềm vui
sướng thú vị.
- Vì thế có ý kiến cho rằng : “ Đọc truyện Lặng lẽ Sa Pa…kính yêu”
B.Thân bài
1.Tóm tắt truyện: Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa gần như không có cốt truyện. Một anh thanh niên làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu và sống đơn độc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 một. Công việc
của anh bình thường nhưng vô cùng quan trọng, góp phần phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Cuộc
gặp gỡ tình cờ của ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh đã làm nổi bật mẫu người lí tưởng và để lại

một cuộc chia tay đầy lưu luyến.
2. Đúng như ý kiến đã nhận định: Cuộc đời của anh thanh niên cũng như ông kĩ sư vườn rau Sa Pa,
anh cán bộ nghiên cứu khoa học trong truyện thật đáng yêu.
- Anh thanh niên còn rất trẻ vậy mà chấp nhận một cuộc sống lẻ loi cô độc trên đỉnh núi cao
quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù Sa Pa.
- Anh biết tự tạo cho mình một cuộc sống bình thường: trồng hoa, nuôi gà, đọc sách. Mặc dù ở một
nơi quanh năm vắng bóng người, trong điều kiện thời tiết thật khắc nghiệt nhưng anh vẫn làm tròn
nhiệm vụ, bởi vì ở anh cò tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc: “ Nửa đêm đang nằm trong
chăn, nghe chuông đồng hồ mà chỉ muốn đưa tay tắt đi
11


Anh có nhận thức, suy nghĩ đúng đắn về vai trò của công việc đối với cuộc sống con người. Nhận
thấy công việc của mình có ích cho mọi người, cho quê hương đất nước.
- Ông kĩ sư vườn rau Sa Pa với công việc thầm lặng tưởng như bình thường nhưng lại có ý nghĩa
rất lớn đến cuộc sống: suốt ngày rình xem ong thụ phấn, sau đó thụ phấn nhân tạo cho hàng vạn cây
để cho củ su hào được to hơn, ngọt hơn, phục vụ cho đời sống của con người.
- Anh cán bộ nghiên cứu sét đã hơn mười một năm ròng không một ngày rời xa cơ quan, suốt
ngày chờ sét để hoàn thành bản đồ sét, tìm tài nguyên cho đất nước. Anh đã hi sinh cả việc riêng,
không đi đến đâu mà tìm vợ, trán thì cứ hói dần đi.
- Những con người ấy đã tạo thành cái thế giới những con người miệt mài trong lao động lặng lẽ
mà khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người. Đó là những con người sống
cống hiến hết mình cho đời, cho nhân dân. Đúng như Nguyễn Thành Long đã nhận định: “ Trong
cái lặng im của Sa Pa , dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã
nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”
3.Bàn luận
- Trong cuộc sống hôm nay giữa bao bộn bề của cuộc sống thì hình ảnh những con người như
anh thanh niên và cái thế giới những con người như anh thật đáng quí và đáng trân trọng. Nếu như ai
cũng có những suy nghĩ và việc làm như họ thì cuộc sống này tốt đẹp biết bao.
- Hình ảnh những nhân vật trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa thật đẹp, thật đáng để mọi người

khâm phục.
C.Kết bài
- Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã gợi ra những vấn đề về ý nghĩa và niềm vui của những con người
lao động vì những mục đích chân chính cho cuộc đời.
- Đọc truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa ta thấy con người thật đẹp, cuộc đời thật tươi đẹp biết bao. Mỗi
người chúng ta, nhất là thế hệ trẻ cần phải sống tốt hơn, sống có lí tưởng, có ước mơ hoài bão vì
tương lai của đất nước và của chính bản thân.
3. Chiếc lược ngà sáng tác năm 1966 – Tác giả: Nguyễn Quang Sáng
- Nội dung: Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, đoạn trích truyện “Chiếc lược
ngà” đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
- Nghệ thuật: Truyện đã thành công trong việc miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là
nhân vật bé Thu.
Đề bài phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng
Tình cảm gia đình là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ
cứu nước. Khai thác mảng đề tài này, Nguyễn Quang Sáng đã có một số tác phẩm đặc sắc như
“Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”,.. Trong đó, “Chiếc lược ngà” tạo được nhiều ấn tượng hơn cả.
Một trong những yếu tố làm nên thành công của tác phẩm là nhà văn đã xây dựng thành công nhân
vật chính - nhân vật bé Thu - một cô bé cá tính, đáng yêu và có tình yêu ba tha thiết.
“Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 rồi được đưa vào tập truyện cùng tên (Chiếc lược ngà) của
Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện được xây dựng trên một tình huống hiểu lầm tạo nhiều bất ngờ
cảm động: Anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi.
Từ đó hai ba con chưa hề gặp lại nhau, cho đến khi kháng chiến kết thúc, anh trở vể, đứa con gái tám
tuổi không chịu nhận ba. Trong ba ngày ở nhà, bằng đủ mọi cách mà con bé vẫn không chịu gọi lấy
một tiếng ba. Đến lúc phải ra đi nhận nhiệm vụ mới, bé Thu mới gọi anh bằng ba. Thật bất ngờ. Thì
ra, nó không chịu nhận ba là vì vết thẹo trên má đã khiến anh không còn giống như trong bức ảnh
chụp ngày cưới. Con bé chỉ gọi ba khi bà ngoại giải thích cho nó rõ điều này. Giây phút anh nghe
được tiếng gọi mà anh chờ đợi đã bao năm ấy cũng là lúc cha con xa nhau. Anh Sáu hứa sẽ mang về
tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà
cho con gái. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.
12



Nhân vật cô bé tám tuổi ấy là Thu, mới có tám tuổi nhưng cô đã bướng bỉnh, gan góc và rất có cá
tính. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó biết qua bức
ảnh chụp với má ngày cưới. Nó nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba dù cả nhà - trong đó có bà
nội - thừa nhận điều đó. Họ đón ông với tất cả tấm lòng chân thành, yêu thương của con người Nam
Bộ. Chẳng những thế, ông còn vô cùng xúc động khi gặp nó. Nhưng bỏ qua tất cả, Thu vẫn hét lên
sợ hãi khi ông Sáu lập cập đến với nó và lắp bắp gọi: “Thu! Ba đây con...”. Có điều đó bởi Thu thấy
ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây
giờ lại có vết thẹo dài trên má.
Không chỉ vậy, qua nhiều chi tiết miêu tả hành động của bé Thu Nguyễn Quang Sáng vừa thể
hiện được tính cách đặc biệt của cô bé vừa tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ. Khi mẹ yêu cầu “mời ba
vô ăn cơm", Thu gọi "trổng" “vô ăn cơm”. Nồi cơm sôi, không tự chắt được con bé nhất quyết không
chịu gọi ba để được giúp đỡ. Nó tìm mọi cách chăt nước không cần nhờ vả. Đặc biệt, tính cách rắn
rỏi, ngang bướng vô cùng trẻ con của Thu được thể hiện qua chi tiết bé hất đổ cả chén cơm khi anh
Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu "con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm
cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa,
gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm.". Đành rằng trẻ con chỉ tin
vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết được sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào,
và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của nó, nhưng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính
mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ cùa bé Thu đã trở thành tiền đề để sau này trở thành
lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, Thu cùng “Chiếc lược ngà" sẽ nằm lẫn vào vô vàn tác phẩm khác
viết cho thiếu nhi. Điều khiến nhân vật cùng tác phẩm đi xa hơn trong lòng người đọc là ở chỗ bé
Thu có một tình yêu ba nồng nàn, tha thiết.
Cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Cô đã nghĩ rằng “người ta” mang
đến cho mình một người “ba giả"! Và vì thế, Thu càng phản đối quyết liệt người “ba giả” ấy bao
nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Cái tình yêu ấy thật sâu sắc: nó chỉ có một, không
thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó,
là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân thành.

Khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên, buổi
sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng
tựa của và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không
bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sẩm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây
thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó
như to hơn, cái nhìn cùa nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. "
Không hiểu con bé “nghĩ ngợi sâu xa” điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước - nói: “Ba đi nghe con” thì nó bất ngờ lao đến thét
lên: Ba., a... a...ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở “Con không cho ba đi”. Đến đây, người đọc mới vỡ
lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. "Tiếng kêu của nó như tiếng xể, xé sự im lặng và xé cả
ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay,
tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó
chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.". Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé
Thu với ba bây giờ trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà. Song, trái ngược mà
vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba nó thì nó
nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé
kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón
chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha.
13


Trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng: chi
tiết cái thẹo. Chính cái thẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà
Thu dành cho ba. Cái thẹo là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không
chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Thấu hiểu
sâu sắc điều đó, sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp
bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc.
Xây dựng nhân vật bé Thu - một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu ba tha thiết
cảm động - Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ bởi vậy nhà văn đã tạo nên được
một nhân vật trẻ thơ thực sự sống động gây nhiều niềm xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Bên
cạnh đó, tác phẩm đã tạo nên một tình huống hiểu lầm độc đáo mà chi tiết quan trọng nhất là chi tiết

cái thẹo. Chi tiết này có giá trị giống như một “cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ hay “chiếc lá cuối cùng” trong truyện ngắn cùng tên của Ô Hen-ri,...
Nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong lòng người
đọc những ấn tượng sâu sắc bởi một tính cách đặc biệt khó có thể nhầm lẫn. Nhân vật này đã góp
phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm. Và vì vậy, cùng với tác phẩm, nhân vật bé Thu
đã giành được một vị trí riêng trong lòng độc giả yêu truyện ngắn Việt Nam.

14



×