Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

ngân hàng câu hỏi và đáp án NHỮNG vấn đề cơ bản quản lý hành chính nhà nước thi hết môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.86 KB, 13 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.Phân tích các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai?
*. Nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai
a. Bảo đảm quản lý đúng thẩm quyền pháp lý
b. Bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước về đất đai
c. Bảo đảm quản lý nhà nướ về đất đai đúng quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt
d. Bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích
e. Sử dụng đát tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổ hại đên lợi ích
chính đáng của người sử dụng (SGK tr143)
*Liên hệ với việc quản lý đất đai hiện nay ở địa phương nơi anh/chị cư trú (hoặc ở
nước ta hiện nay)
2. Khái niệm, chức năng của văn hóa. Phân tích vai trò của văn hóa.
*k/n: SGK tr255
* Vai trò văn hóa tr257SGK
*Chức năng của văn hóa:
những chức năng của văn hóa. Ðứng từ góc độ bản chất của văn hoá xem văn hoá là một
tổng thể của rất nhiều hoạt động phong phú và đa dạng sản xuất, sáng tạo ra các sản phẩm
văn hoá hữu thể và vô thể nhằm tác động tới con người và xã hội với mục đích cao cả nhất là
vì sự phát triển và hoàn thiện con người và xã hội thì, văn hoá có 5 chức năng là: Chức năng
giáo dục; chức năng nhận thức; chức năng dự báo; chức năng thẩm mỹ và chức năng giải trí.
Nội dung cơ bản của các chức năng đó như sau:
- Chức năng giáo dục: là chức năng mà văn hoá thông qua các hoạt động, các sản phẩm của
mình nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con
người, làm cho con người dần dần có những phẩm chất và năng lực theo những chuẩn mực
xã hội đề ra. Văn hoá thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định
là truyền thống văn hoá mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị này tạo
thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ vậy, văn hoá đóng vai trò
quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trong việc "trồng người ". Với chức
năng giáo dục, văn hoá tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử mỗi dân tộc cũng như lịch sử
nhân loại. Văn hoá duy trì và phát triển bản sắc dân tộc và là cầu nối hữu nghị gắn bó các


dân tộc, gắn kết các thế hệ trong mục tiêu hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ. Văn hoá là
"gien" xã hội di truyền phẩm chất cộng đồng người lại cho các thế hệ sau.
- Chức năng nhận thức: Là chức năng đầu tiên, tồn tại trong mọi hoạt động văn hoá. Bởi, con
người không có nhận thức thì không thể có bất cứ một hành động văn hoá nào. Nhưng quá
trình nhận thức này của con người trong các hoạt động văn hóa lại được thông qua đặc trưng,
đặc thù của văn hóa. Nâng cao trình độ nhận thức của con người chính là phát huy những
tiềm năng ở con người.
- Chức năng thẩm mỹ: Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ,
hướng tới cái đẹp. Con người nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp cho nên văn hóa
1


phải có chức năng này. Nói cách khác, văn hoá là sự sáng tạo của con người theo quy luật
của cái đẹp, trong đó, văn học nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất sự sáng tạo ấy. Với tư
cách là khách thể của văn hóa, con người tiếp nhận chức năng này của văn hóa và tự thanh
lọc mình theo hướng vươn tới cái đẹp và khắc phục cái xấu trong mỗi người .
- Chức năng giải trí: Trong cuộc sống, ngoài hoạt động lao động và sáng tạo, con người còn
có nhu cầu giải trí. Các hoạt động văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, lễ hội, ca nhạc,... sẽ đáp ứng
được các nhu cầu ấy. Như vậy, sự giải trí bằng các hoạt động văn hoá là bổ ích, cần thiết, góp
phần giúp cho con người lao động sáng tạo có hiệu quả hơn và giúp con người phát triển
toàn điện.
Với các chức năng trên, chứng tỏ văn hoá có một đời sống riêng, quy luật hoạt động riêng
nhưng lại không nằm ngoài kinh tế và chính trị.
Vì sự phát triển và hoàn thiện con người và xã hội là mục tiêu cao cả của văn hoá.
3. Tại sao nói văn hoá là động lực, là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là công cụ hoàn
thiện con người và xã hội?
*. Sơ lược khái niệm, bản chất của văn hóa (theo tinh thần Nghị quyết TW 5 – khóa
VIII).
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc CNH-HĐH đất nước. CNH-HĐH đất
nước là một quy luật tất yếu khi muốn biến một nước chậm phát triển thành một quốc gia

phát triển. Kinh nghiệm thế giới đã cho thấy công nghiệp hóa không gắn liền với phát triển
văn hóa và con người sẽ dẫn đến những thảm họa về xã hội và môi trường. Phát triển văn
hóa và con người là động lực của sự phát triển KTXH, là điều kiện thực hiện công nghiệp
hóa, đồng thời là mục tiêu của sự phát triển KTXH, của công nghiệp hóa. Trong lời tuyên bố
mở đầu thập kỷ thế giới văn hóa vì phát triển, ông Tổng giám đốc Tổ chức khoa học và văn
hóa liên hiệp quốc (UNESCO) đã nhấn mạnh “kinh nghiệm của 2 thập kỷ vừa qua cho thấy
rằng trong xã hội ngày nay, bất luận là trình độ kinh tế nào, hoặc xu hướng chính trị nào, văn
hóa và phát triển là 2 mặt gắn liền với nhau. Nước nào tự đặt cho mình một mục tiêu phát
triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng
và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu đi nhiều... Phát triển cần phải thừa nhận văn
hóa giữ vai trò trung tâm và vai trò điều tiết xã hội. Nói tóm lại trọng tâm, động cơ và mục
đích phải được tìm trong văn hóa. Đây là bài học quý báo rút ra từ việc tổng kết gần 3 thế kỷ
phát triển công nghiệp trên”
Khái niệm :
Có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về văn hóa khác nhau, ở các mức độ rộng, hẹp và rất hẹp.
Nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của con
người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Để đi đến một định nghĩa về văn hóa,
cần thiết phải hiểu mối quan hệ tương tác giữa con người và văn hóa. Trước hết, chính con
người đã sáng tạo ra văn hóa. Chính trong quá trình phát huy những năng lực bản chất để cải
biến tự nhiên, cải biến xã hội và thông qua đó cải biến chính bản thân, con người đã sáng tạo
ra văn hóa. Văn hóa là phương thức để con người tồn tại và phát triển, là cách thức để con
người tách mình ra khỏi giới động vật. Vì vậy khái niệm văn hóa luôn chứa đựng nội dung
nhân văn, nhân bản. Thứ hai, hoạt động văn hóa sáng tạo ra con người; nói cách khác, con
người là sản phẩm của văn hóa. Bởi chỉ trong xã hội loài người mới có khái niệm văn hóa và
hoạt động văn hóa; văn hóa phản ảnh về môi trường sống hay là tổng thể các mối quan hệ
giữa con người với giới tự nhiên và với con người, cộng đồng; mặt khác con người chỉ có thể
tồn tại đúng bản chất người ở ngay trong xã hội loài người và chính văn hóa là môi trường
tạo nên nhân cách con người. Thứ ba, nói đến văn hóa là nói đến hệ giá trị. Dù tồn tại dưới
2



dạng các sản phẩm vật thể hay phi vật thể, cái làm nên nội dung văn hóa của chúng chính là
các giá trị. Đó là các giá trị được tạo ra từ các hoạt động khoa học, đạo đức và nghệ thuật và
các hoạt động đó luôn hướng tới sự hoàn hảo của 3 giá trị: Chân, Thiện và Mĩ. Tóm lại, Văn
hóa là hoạt động tinh thần nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của con
người để sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực: chân, thiện, mỹ
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt
động nhằm tạo ra những giá trị những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi
dưỡng sự hình thành nhân cách con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”.
Trong khái niệm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã miêu tả văn hóa bằng những thành tố của nó.
Người đã nhìn văn hóa được xem là phương thức để con người tồn tại và phát triển, nhấn
mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa “sản sinh” văn hóa với sự sinh tồn của con người.
Văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật
chất hay sản xuất giá trị tinh thần; trong quan hệ giao tiếp, ứng xử trong xã hội hay thái độ
ứng xử với thiên nhiên.
Bản chất của văn hóa :
Văn hóa có 7 thuộc tính cơ bản: Một là văn hóa luôn mang tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử,
văn hóa có một dấu ấn riêng. Hai là văn hóa mang tính truyền thống, do những giá trị văn
hóa được lưu giữ, phát triển và truyền bá qua các giai đoạn lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ba là văn hóa mang tính dân tộc thể hiện rõ nhất ở bản sắc văn hóa dân tộc; văn hóa
nói lên đặc điểm của một dân tộc, biểu hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của một dân tộc. Bốn
là văn hóa mang tính giá trị (vật thể, phi vật thể, vật chất hoặc tinh thần). Năm là, văn hóa
bao giờ cũng mang tính nhân sinh; chỉ có con người mới sáng tạo ra văn hóa và hoàn thiện
mình qua môi trường văn hóa. Sáu là, văn hóa mang tính phái sinh. Và bảy là trong xã hội có

giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp. Nền văn hóa Việt Nam là thành quả hàng
nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc mình. Văn hóa Việt Nam
đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam; tạo nên cốt cách, bản sắc riêng có
của con người, dân tộc Việt Nam.
Từ khi Đảng ta ra đời và trong suốt lịch sử lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta luôn coi văn
hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Quan điểm này được đề cập trong
Cương lĩnh, đường lối, chiến lược của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VIII khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đầy sự phát triển KT-XH”. Quan điểm này được cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5, khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”; và gần đây được khẳng định lại trong Kết luận hội nghị Trung ương
10, khóa IX.
*. Phân tích các nội dung: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội :
3


Đời sống xã hội có hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời
sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội có nghĩa là văn hóa góp phần tạo nền móng của xã hội. Nền móng có vững chắc thì sự
phát triển của đất nước mới lành mạnh. Nói văn hóa là nền tảng tinh thần có nghĩa là coi văn
hóa là tổng thể các giá trị, các tiềm năng sáng tạo của đất nước. Muốn phát triển cần phải dựa
vào các giá trị đó, cần khai thác và phát huy các giá trị đó. Thông qua thực tế kiểm nghiệm,
Đảng ta chỉ ra rằng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; văn hóa thể hiện sức sống, sức
sáng tạo phát triển và bản lĩnh của một dân tộc.
Văn hóa là nền tảng tinh thần, đòi hỏi phải đặt văn hóa vào vị trí quan trọng. Cũng như kinh
tế tạo nên giá trị vật chất, nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần tạo những điều kiện cần và

đủ để xã hội tồn tại và phát triển. Thiếu điều kiện vật chất thì không có sự tồn tại của con
người, nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì xã hội không thể phát triển được. Trong quá trình
tồn tại và phát triển của lịch sử, cơ sở vật chất và tinh thần thường xuyên thấm lẫn vào nhau
và hỗ trợ lẫn nhau. Chừng nào nền tảng tinh thần suy yếu, chừng đó xã hội sẽ lâm vào khủng
hoảng, các tệ nạn xã hội xuất hiện và sự phát triển kinh tế sẽ gặp khó khăn.
Mỗi một quốc gia, dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển, cải tạo tự nhiên, lao động
sản xuất, tổ chức xã hội … đã hình thành và tích lũy một hệ thống những kinh nghiệm,
những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mỗi dân tộc, và nhân loại trong quá trình hình thành và phát triển cho mình những giá trị xã
hội, những truyền thống, chuẩn mực xã hội. Giá trị là kết quả hoạt động sáng tạo của con
người và nó được coi là giá trị có ý nghĩa được cộng đồng khẳng định, bảo vệ, có vai trò liên
kết cộng đồng và định hướng cho hoạt động của cộng đồng. Còn chuẩn mực xã hội là sự cụ
thể hóa giá trị những quy định nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của con người. Chuẩn mực
đạo đức thông qua xã hội tác động đến lương tâm, không bị phát luật điều chỉnh nhưng qua
dư luận xã hội tác động làm điều chỉnh những hành vi ấy đúng chuẩn mực của xã hội.
- Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH.
Với ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Trong mỗi chính sách KT-XH luôn đòi hỏi phải bao
hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của
con người - nguồn lực quyết định sự phát triển xã hội. Văn hóa có mối quan hệ thống nhất
biện chứng với kinh tế, chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối
cùng là văn hóa.
Nói văn hóa là mục tiêu của phát triển KT-XH, có nghĩa là sự phát triển kinh tế phải nhằm
mục đích nâng cao chất lượng đời sống xã hội, tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển lành mạnh
về đời sống tinh thần. Muốn vậy, văn hóa phải điều tiết sự phát triển của kinh tế, phải gắn sự
phát triển của kinh tế với tiến bộ xã hội. Là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình
độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Với sự phát triển của văn
hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát
huy, trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực của toàn xã hội.
Phát triển KT-XH dân tộc chính là để đạt được độc lập - tự do - hạnh phúc, Văn kiện Đại hội

đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII viết: “Về đời sống vật chất và văn hóa nhân dân có
cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa
bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh, gia đình
hạnh phúc”.
4


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn hóa luôn được xác định là mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng và điều đó thể hiện một cách nhất quán trong đường lối văn hóa của
Đảng ta từ ngày mới thành lập đến nay. Đó là, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, vì mục tiêu: Dân giàu, Nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố nội sinh. Văn
hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát huy năng lực bản chất
người. Mối quan hệ con người với văn hóa là gắn liền nhau, văn hóa vừa thể hiện trong con
người, đồng thời văn hóa là môi trường, là điều kiện cho sự hình thành, phát triển nhân cách
con người. Tức là, văn hóa góp phần vào điều tiết quá trình phát triển KT-XH.
Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều hay ít lao động
và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy tiềm năng sáng tạo của
nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn
hóa, nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lí, lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mĩ của
mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời
sống con người càng cao thì khả năng phát triển KT-XH càng lớn và hiện thực.
Đối với một quốc gia, phát triển và tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với nhau. Muốn
phát triển bền vững và toàn diện thì động lực không thể thiếu là phát triển văn hóa. Văn hóa
phát triển mạnh và đúng hướng có khả năng phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
các nhân tố khách và chủ quan của các điều kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự
phát triển của xã hội được hài hòa, cân đối, lâu bền. Văn hóa hướng dẫn và thúc đẩy người
lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sản xuất ra hàng hóa với số
lượng và chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Văn hóa còn góp phần phần

tăng cường sự hiểu biết, mở rộng sự giao lưu hợp tác giữa nước ta và các nước khác trên cơ
sở bình đẳng cùng có lợi. Các giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa truyền thống là
cơ sở tinh thần để ngăn chặn, hạn chế các tệ nạn xã hội, xu hướng “sùng ngoại”, sùng bái
tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng đóng vai trò điều tiết trong quan hệ quốc tế, để mở
cửa và giữ vững được độc lập, chủ quyền, hợp tác kinh tế - văn hóa với nước ngoài mà
không để người ta lợi dụng biến đất nước mình thành nơi cung cấp nguyên liệu và nhân công
giá rẻ, nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận những công nghệ lạc hậu, những ảnh hưởng
văn hóa độc hại.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng còn có khả năng ngăn chặn, khắc phục được những
ham muốn quá mức dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và gây ô nhiễm môi trường
sinh thái, cổ vũ xây dựng một lối sống có điều độ và hướng đến những hành vi ứng xử có
văn hóa của con người đối với con người và đối với thiên nhiên.
3. Những giải pháp cơ bản để thực hiện quan điểm của Đảng:
Ngày nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, đứng trước xu thế toàn cầu hóa,
trong khi nền kinh tế nước ta còn thấp kém so với một số nước trong khu vực và trên thế
giới. Để văn hóa phát huy đúng nghĩa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động
lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, cần có những biện pháp:
Một là, mở rộng, vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, bằng nhiều hình thức phong phú. Phát
động phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa, hướng vào cuộc thi đua yêu nước vì
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
5


Hai là, Nhà nước cần ban hành các luật, chính sách về phát triển văn hóa dân tộc ở trên các
lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội. Hoàn chỉnh các quy chế, quy định về tổ chức và hoạt
động lễ hội, việc tang, việc cưới, cúng điếu phù hợp với giá trị văn hóa truyền thống. Từng
bước xây dựng các chuẩn mực văn hóa mới ở cơ sở. Khuyến khích, huy động mọi nguồn lực,
nhất là các nguồn lực trong nhân dân nhằm phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc

dân tộc. Có chính sách bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, đặc biệt lưu ý sưu
tầm, lưu truyền nền văn hóa phi vật thể. Xây dựng chính sách đặc thù phù hợp, khuyến khích
các hoạt động văn hóa, như chế độ nhuận bút cũng như cách đánh giá các tác phẩm văn hóa,
nghệ thuật trong tình hình mới. Ban hành chính sách cụ thể về hợp tác quốc tế về văn hóa.
Ba là, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. Tăng cường mức chi cho
hoạt động văn hóa từ nguồn ngân sách nhà nước, cả về chi thường xuyên và chi cho phát
triển văn hóa. Nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo
quản lý và nghiệp vụ ở các cơ quan quản lý văn hóa. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy cán
bộ các cơ quan quản lý văn hóa; các trường, khoa đào tạo về văn hóa
Bốn là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Trong giai đoạn xây
dựng và phát triển đất nước ngày nay, yêu cầu Đảng ta phải tăng cường nâng cao vai trò lãnh
đạo trên lĩnh vực văn hóa. Nhận thức đúng đắn về vai trò văn hóa cần làm tốt hơn nữa công
tác bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Các tổ chức cơ sở Đảng cần thực hiện thường
xuyên việc giáo dục lý tưởng cách mạng, về chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh, các đường lối chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước cho cán bộ, đảng viên.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, theo hướng nắm bắt được
các nhu cầu văn hóa lành mạnh của quần chúng, nhằm định hướng đúng cho các hoạt động
văn hóa từ khâu nhận thức, sáng tạo, bảo quản, đến phổ biến, phân phối và tiêu dùng sản
phẩm văn hóa của giới văn nghệ sĩ và quần chúng nhân dân. Không ngừng mở rộng dân chủ
để phát huy vai trò các hoạt động sáng tạo và tiêu dùng văn hóa trong nhân dân.
Năm là, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Nhà nước thể chế
hóa đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng bằng các văn bản pháp quy. Và quản lý Nhà nước
thông qua hệ thống pháp luật để điều tiết các hoạt động văn hóa, văn nghệ. Tăng cường giám
sát, kiểm tra tất cả các hoạt động liên quan đến văn hóa, văn nghệ. Ngăn ngừa, đối phó với
âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang tìm cách thẩm thấu, du nhập các
loại văn hóa độc hại, đồi trụy vào các thế hệ người Việt Nam ta hôm nay.
Tóm lại, xác định văn hóa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển KT-XH, một mặt đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa; mặt khác,
cũng để khẳng định một chân lý là chỉ có đặt văn hóa trong sự phát triển, gắn văn hóa với sự
phát triển, nghĩa là văn hóa phải bén rễ trong kinh tế thì kinh tế mới phát triển được. Sự

nghiệp văn hóa, suy cho cùng là vì con người, như nhận định của Đảng ta: Nhiệm vụ trung
tâm của sự nghiệp văn hóa là bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức,
tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
XHCN, hướng con người tới những giá trị Chân - Thiện – Mĩ. Vì vậy trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, cần coi trọng chính sách đầu tư cho văn hóa, đầu tư cho con người,
khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia phát triển và sáng tạo văn hóa, đồng thời
hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn./.
4. Khái niệm, vai trò của giáo dục – đào tạo. SGK tr 289
Liên hệ công tác quản lý về giáo dục – đào tạo ở nước ta hiện nay?
– Hiện nay có khuynh hướng đề cao khái niệm “đại học quốc tế chất lượng cao”, cơ bản xây
dựng đại học tốt là điều kiện“cần có”, nhưng điều kiện “đủ” là chúng ta phải có bản thân
6


sinh viên là những hạt giống tốt, nhân tố tốt. Rõ ràng lâu nay giáo dục Việt Nam cũng chỉ lo
đào tạo số lượng sinh viên đầu ra mà quên đi vấn đề quan trọng là thế hệ thanh niên thật sự
đóng góp như thế nào vào sự nghiệp phát triển đất nước. Hàng loạt kỹ sư, cử nhân Việt Nam
ra trường nhưng thử hỏi có bao nhiêu người đạt được trình độ kỹ thuật của kỹ sư? Bao nhiêu
người dùng được? Bao nhiêu người làm việc theo đúng ngành nghề mình đã học, đó là một
sự lãng phí lớn. Thậm chí ngày nay học sinh, sinh viên chỉ lo đạt bằng TOEFL này, TOEIC
kia nhưng chính tiếng Việt lại sử dụng không chuẩn. Trong khi cha ông ta ngày xưa số lượng
ông Cử đếm trên đầu ngón tay nhưng đào tạo người nào ra người nấy. Họ không chỉ thông
thạo ngoại ngữ mà còn giỏi thơ văn, rành văn hóa nước nhà. Vì sao lại có nghịch lý như thế?
Hiện nay chúng ta cũng không có một ngành thống kê thực tế phục vụ nghiên cứu chính
sách. Xây dựng trường đại học mang tầm quốc tế chỉ là điều kiện“cần” nhưng chưa “đủ”.
Trên thế giới người ta rất quan tâm đến những thợ giỏi, chuyên viên kỹ thuật cao. Đất nước
đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà sinh viên không chịu học kỹ thuật,
chỉ tập trung không cân bằng vào các ngành dễ được xã hội “chấp nhận” thì làm sao phát
triển công nghiệp, làm sao hiện đại hoá đất nước? Việt Nam muốn phát triển nền khoa học
kỹ thuật thì phải đào tạo khoa học kỹ thuật trên bình diện rộng.

– Nền giáo dục chúng ta có thể xem như đang mắc bệnh mà không chữa trị, đua nhau
nhồi nhét học thuộc lòng theo sách vở để có điểm cao mà sách chưa chuẩn, năm nào thi cử
cũng gian lận, đề thi sai, trẻ con thì bị bỏ mặc lang thang trên đường phố, ma túy trong học
đường, ý thức công dân rất kém. Càng nói càng thấy nguy cơ, nhưng không thấy xã hội thật
sự quản ngại vì bao nhiêu năm rồi chưa thấy biện pháp giải quyết, chỉ nghe được những hứa
hẹn cải cách. Giáo dục Việt Nam muốn phát triển phải giải phẫu đúng bệnh. Bệnh chẩn đoán
đúng nhưng không chịu giải phẫu làm sao chữa trị? Thực tế, các cơ quan chức năng đều nhận
thấy hết căn bệnh giáo dục nước nhà. Trong các cuộc hội thảo, hầu như mỗi vấn đề đều đã
được phân tích, đã chỉ ra cái đúng cái sai nhưng điều lạ lùng là nó không được đúc kết để
đưa vào thực hiện thực tế. Tình trạng “nói” nhưng không “làm” là căn bệnh nan giải nhất của
hầu hết nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội chứ không phải của riêng ngành giáo dục Việt
Nam.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có những
thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho
công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn
chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:
– Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục; chất lượng
giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so với yêu cầu
phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.
– Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại
hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo,
năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
– Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống;
giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề” vẫn yếu kém;
yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực
hành, kỹ năng sống…
– Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất cân đối.
– Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là nguyên
nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, còn nhiều
7



lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác của đất nước.
– Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng lực của
một bộ phận còn thấp.
– Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng liên kết với
nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác định rõ phương châm.
– Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục chưa được quan
tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
– Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơ chế, chính
sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu những quyết sách đồng
bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực
hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một số chính sách về giáo dục còn chủ quan,
duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể giải quyết khắc
phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt nhất thời, thiếu chiến lược
và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống, chưa đạt tới chiều sâu bản chất của vấn
đề. Để giải quyết được căn bản những vấn đề đặt ra, những người lãnh đạo – quản lý, những
nhà khoa học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan,
như các văn kiện của Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu trên báo chí và
những báo cáo tổng kết thành tích.
Nguyên nhân
(1). Về phía người dạy
Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng cao
nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làm người học tiếp thu
một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang năng lý thuyết, thiếu cập nhật thực tiễn dẫn tới
xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp. Mặt khác, việc sử dụng các phương tiện phục vụ cho
giảng dạy chưa nhiều do vậy mà không thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp cho

người học, số thời gian của giảng viên dành cho lên lớp tại các trường quá lớn, cho nên hạn
chế thời gian nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế. Đời sống của ngưới Thầy còn
nhiều khó khăn : Hiện nay giáo viên đang được hưởng mức lương thuộc nhóm cao, nhưng
thực tế xã hội ta hiện nay không sống bằng lương , các ngành khác lương thấp nhưng cuộc
sống thoải mái hơn nhiều. Đây là vấn đề cần phải xem lại chính sách lương bổng của chúng
ta đối với thầy cô giáo. Nếu chúng ta thử tính một gia đình nhà giáo , hai người dạy học, có
hai con đúng tiêu chuẩn, nếu họ là nhà giáo chân chính, chuyên tâm dạy học thì với đồng
lương của họ nuôi con đi học tới lớp mấy ?
(2). Về phía người học
Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học quá thấp, thấp đến mức không thể thấp
hơn được nữa, chủ yếu tập trung vào các trường xét tuyển, tính chủ động sáng tạo trong học
tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưa cao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học
thụ động, học theo phong trào, học cho qua “học theo hội chứng bằng cấp” , do vậy khi tốt
nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối
bỏ. Chỉ số chất lượng đào tạo so với các nước trong khu vực đứng hạng 10 trên 12 nước.
(3). Về chương trình đào tạo
8


Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,,̀ thiếu tính cập nhật, lý thuyết chưa gắn
với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, dẫn tới sinh viên Việt
Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với thực tiễn.
(4). Giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, thiếu đầu tư nâng cấp
Những tồn tại trên đã làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục đào tạo đại học mà
nguyên nhân chính vẫn là tư duy của người dạy, người học và cơ chế quản lý chưa phù hợp
đã tạo những “Sản phẩm” chất lượng kém vừa thiếu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, phương
pháp làm việc vừa kém về năng lực nhận thức, tư duy và phương pháp nghiên cứu khoa học,
xã hội không thừa nhận và rồi “Sản phẩm” của giáo dục đào tạo đại học không có chỗ đứng
trên thị trường, người học xong đại học khó hoặc không tìm được việc làm.
-Nội dung chương trình và sách giáo khoa chưa phù hợp: Hiện nay đang từng bước

thực hiện thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình, có định hướng giáo dục toàn diện cho
học sinh, khắc phục những thiếu sót trước đây chủ yếu dạy kiến thức, nặng về lý thuyết, chưa
quan tâm đến giáo dục tình cảm và hành động cho học sinh .
Ngành giáo dục chậm đổi mới để theo kịp nhu cầu đất nước : Sự phát triển kinh tế của đất
nước tạo điều kiện cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam phát triển , hiện nay
chúng ta có một xã hội học tập, người người đi học, gần 30 triệu học sinh các cấp là một con
số khổng lồ, qua các kỳ thi đại học ta thấy có sự chen chúc nhau quá mức, các trung tâm
luyện thi, các thầy giáo dạy thêm, học thêm, học sinh cố học để tìm kiếm một trường học
thích ứng. Khi một đất nước có tốc độ phát triển khá cao và đều đặn như hiện nay, các nhà
quản lý giáo dục phải có biện pháp đón đường , dự kiến những nhu cầu của ngành, của nhân
dân, của học sinh để có những biện pháp thích hợp.
– Cơ chế quản lý đối với ngành giáo dục chưa phù hợp : Hiện nay ngành giáo dục các
địa phương chịu sự tác động hàng ngang của địa phương nhiều hơn là chịu tác động hàng
dọc của Bộ giáo dục – đào tạo. Các trường phổ thông dạy học, thi cử đúng như quy chế của
Bộ giáo dục – đào tạo, nhưng nếu học sinh thi rớt nhiều, lưu ban nhiều thì địa phương sẽ có ý
kiến , thậm chí có những ý kiến chỉ đạo, “bệnh thành tích”có cơ hội để phát triển trong cơ
chế quản lý giáo dục hiện nay .
Đánh giá – nhận xét
Việt Nam trên trường quốc tế
Có lẽ chưa bao giờ đề tài giáo duc được đem ra bàn luận nhiều như thời điểm hiện tại.
Nguyên nhân trực tiếp có lẽ là từ giải thưởng toán học Fields của giáo sư Ngô Bảo Châu,
một « hiện tượng » mới đang chiếm đa số trên các mặt báo của Việt Nam và cả quốc tế. Từ
chuyện gốc gác đến giá trị nền tảng mà anh thừa hưởng, từ chuyện riêng, đời tư đến tầm ảnh
hưởng chính trị quốc gia…vẫn đang là những đề tài tranh luận sôi nổi của giới chuyên môn.
Tuy nó chưa đến hồi kết, nhưng rất nhiều người đã lấy làm tự hào về nền giáo dục Việt Nam
từ sự kiện này. Một thái độ cần được xem lại, cần được soi chiếu với một thực trạng mà các
chuyên gia nước ngoài gọi là « khủng hoảng trầm trọng về giáo dục ». Chúng ta sẽ nhìn lại
vấn đề này qua các số liệu thống kê từ các diễn đàn, cũng như các báo cáo khoa học chính
thức trong thời gian gần đây.
Trong bảng xếp hạng thứ tự các trường đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế từ trước đến nay thì

Việt nam chưa có lấy một đơn vị góp tên trong « top 200 ». Mới đây nhất, năm 2009, người
ta công bố 100 trường đại học nổi tiếng trên thế giới, Việt nam vẫn là một « hành tinh » chưa
ai nghĩ đến, trong khi Nhật bản có đến 4 trường trong các vị trí khác nhau, Singapo, Hàn
quốc, Trung Quốc đều là những quốc gia góp mặt ở những vị trí đáng tự hào.
9


Hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 376 trường đại học, với khoảng 6600 giáo sư và
phó giáo sư. Tuy nhiên theo ông tổng thư ký hội đồng chức danh giáo sư, nếu đánh giá đúng
theo tiêu chuẩn quốc tế, Việt nam chỉ có khoảng từ 15 đến 20% có trình độ tương ứng với
chức danh đó. Còn lại không chỉ thấp mà hơn dưới 1/3 rất thấp.
Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ thi trượt đại học nhiều nhất thế giới. Hiện nay chỉ có 1/10 người
ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh. Tuy nhiên, quốc gia này đang được xếp vào những
nước có tỷ lệ dân số đạt trình độ đại học trở lên thấp nhất của khu vực và trên thế giới. Ngay
các nước láng giềng cũng đang phấn đấu để đạt được tỷ lệ tuyển sinh đại học là 60 – 80%
hoặc cao hơn nữa, trong khi chúng ta mới chỉ đạt được khoảng 10 – 15%.
25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc và hầu hết là các môn này
nhằm mục đích tuyên truyền chính trị.
Việt Nam là một trong những quốc gia còn sót lại của nền giáo dục đại học dưới sự quản lý
chặt chẽ từ trung ương, thiếu sự tự quản đến mức khó hiểu. Sự bất cập này không những ảnh
hưởng đến chất lượng chuyên môn của đội ngũ giảng dạy mà còn cả các tiêu chuẩn xây dựng
cơ sở vật chất.
Mỗi năm có khoảng 20000 sinh viên ra trường và chỉ 50% được đáp ứng việc làm, trong đó
chỉ 30% đúng nghành nghề. Dĩ nhiên chúng ta chưa nói đến chất lượng và thực tế chuyên
môn của tầng lớp mà người ta gọi là tri thức, là bộ mặt của đất nước.
Trong một cuộc sát hạch, đánh giá của Intel để tuyển dụng 2000 sinh viên công nghệ thông
tin, chỉ có 90 ứng sinh, nghĩa là 5% vượt qua kiểm tra, và trong số đó chỉ có 40 người đủ khả
năng tiếng anh theo yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận, đây là kết quả tệ nhất mà họ từng
gặp ở những nước mà họ đầu tư.
Trong 10 năm từ 1996 đến 2005 chỉ có 3456 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp san

quốc tế. Nếu đem so sánh với con số giáo sư và phó giáo sư thì trung bình mỗi vị chỉ có 0,58
bài báo cáo trong vòng 10 năm. Không những ít so với quốc tế và so với các nước trong khu
vực, Việt Nam cũng đứng vào loại bét nhất : chỉ bằng 1/5 so với Thái lan ; 1/3 Malaysia ;
1/14 Singapo ; thậm chí thấp hơn cả Indonésia và Philippin.
Chất lượng sinh viên tốt nghiệp ở Việt nam thấp hơn một bậc so với nước ngoài. Theo một
giảng trình viên của cuộc hội thảo về toán lý hóa : « trình độ của sinh viên tốt nghiệp ở Việt
nam chỉ bằng chương trình đại cương của đại học nước ngoài, cao học bằng đại học và tiến sĩ
bằng cao học ».
Việt nam là nước có tỉ lệ « giả tri thức, tiến sĩ giấy, giáo sư dỏm » nhiều đến mức không dám
công khai điều tra vì sợ « không có người làm việc ». Việc lấy bằng cấp không biết dễ hay
khó, nhưng có lẽ Việt nam là nước duy nhất trên thế giới có ý định đòi 100% cán bộ cốt cán
phải có bằng tiến sĩ ở thủ đô Hà Nội.
Có thể nói giáo dục Việt Nam đang thực sự khủng hoảng, mà nói như các chuyên gia của đại
học Harvard thì nó đã đến mức trầm trọng. Người ta vẫn thường mượn đến cái danh của
những cá nhân kiệt xuất để che đậy cho một thực trạng yếu kém đến mức báo động. Một
cách làm chẳng giống ai, khi cứ tâng bốc rồi « bắt quàng làm họ » trong lúc công trạng lại là
của kẻ khác. Người Việt Nam nên vui khi có những con người làm rạng danh đất nước như
nghệ sĩ Piano Đặng Thái Sơn, như bộ trưởng bộ y tế Đức Philipp Roesler, như giáo sư Ngô
Bảo Châu…Tuy nhiên, chúng ta không nên đánh đồng họ với nền giáo dục Việt Nam, vì
những con người này đều trưởng thành từ một nền giáo dục hiện đại ở nước ngoài. Chúng ta
cũng không nên ngủ quên vì những lời tán tụng trong khi nền giáo dục của mình vẫn đang ở
bậc thấp, đang mò mẫm trong mờ mịt của những bước đi sai lầm. Có lẽ sẽ sáo rỗng khi nhắc
10


đến hai từ « cải cách », nhưng đó vẫn là điệp khúc cần lặp lại để hy vọng vào một tương lai
sáng sủa hơn cho giáo dục nước nhà.
Giáo dục Việt Nam chưa sát với thực tế “Học không đi đôi với hành”
Nhìn chung giáo dục Việt Nam chưa thực sự sát với thực tế, sinh viên sau khi tốt nghiệp các
trường đại học chưa hẳn đã có việc làm, dường như GD chưa đáp úng được những đòi hỏi

của xã hội. Sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp các trường đại học ra thường phải học
thêm một số chương trình mà bên tuyển dụng yêu cầu, vì họ cho rằng cái mà sinh viên học
được ở trường lớp chỉ đa phần là lý thuyết suông, chưa thể áp dụng vào thực tế.
Những con số “đáng sợ” sau là minh chứng cho những bất cập của Giáo dục Đào tạo Việt
Nam:
Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học của mình.
Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học;
Gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu;
Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập.
(Theo một nghiên cứu mới đây về phong cách học của sinh viên của PGS.TS Nguyễn Công
Khanh (2008, được trích trong Mai Minh, 2008)
Như vậy, các trường đại học ở Việt Nam muốn nâng cao chất lượng thì phải chú trọng thay
đổi 3 vấn đề chính được đề cập ở trên. Những thay đổi này cần sự nỗ lực từ nhiều phía: Bộ
Giáo dục, nhà trường, giảng viên và sinh viên. Biết rằng việc thực hiện rất khó khăn và phải
mất một khoảng thời gian dài nhưng phải làm ngay vì nhà nước đã mở cửa cho nước ngoài
đầu tư vào giáo dục và khuyến khích các cơ sở giáo dục đào tạo theo nhu cầu xã hội. Điều
này tạo ra sự cạnh tranh trong Giáo dục-Đào tạo, các trường đại học phải tự đổi mới nâng
cao chất lượng để tạo uy tín và thương hiệu cho mình.
Trao đổi với GS Nguyễn Minh Thuyết, thầy cho biết:
– Hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm được nhiều nhà khoa học cho là không phù hợp, cần
rút ngắn. Là người tham gia biên soạn sách giáo khoa, giáo sư chia sẻ với quan điểm này như
thế nào?
– Xét hoàn cảnh của đa phần người học và điều kiện kinh tế của đất nước, kéo dài đến 12
năm học phổ thông là không phù hợp, lãng phí. Phần lớn các em học hết 12 năm rồi thì vẫn
quay về lao động chân tay bình thường. Để được đào tạo nghề, các em lại phải đi học nghề.
Trong khi đó, nếu xác định học nghề từ đầu thì chỉ cần học hết lớp 9, không cần đến hết 12.
Tất nhiên, đã học thì cái gì cũng bổ, như học toán, nhưng học đến lớp 9 là đã đủ rèn tư duy,
không cần đến các kiến thức toán nâng cao. Với một gia đình bình thường, bớt một năm nuôi
con đi học là bớt được món tiền cực lớn, đó là chỉ tính đóng góp bình thường chứ chưa kể
“tiêu cực phí”.

– Theo giáo sư, chương trình phổ thông rút ngắn bao nhiêu thì hợp lý?
– Tôi đã đưa ra đề xuất giảm bớt một năm học, theo cơ cấu “9 + 2”. Hệ thống giáo dục bắt
buộc của mình là 9 năm, đây là chương trình phổ cập, ai cũng phải học và dần dần nhà nước
phải miễn học phí. Sau 9 năm, thay vì học 3 năm THPT như hiện nay với đầy đủ các môn,
thì bậc học này để cho học sinh tự chọn học các môn phù hợp với tương lai. Đây là 2 năm để
định hướng, trên thế giới, nhiều nước cũng đã đi theo hướng này.
Thêm nữa, thanh niên Việt Nam hiện trưởng thành sớm hơn thế hệ trước, học hết 11 năm tức
là đã 17 tuổi. Ở tuổi này, thanh niên đã có nhận thức xã hội tốt và làm việc được. Đây cũng
là lứa tuổi tâm sinh lý phát triển và phải chịu trách nhiệm về các hành vi.
11


Thực tế các trường trung học hiện cũng chỉ dạy đến 11 năm, vì sau lớp 11, học sinh chỉ học
các môn thi đại học. Chúng ta cũng cần nhìn nhận lại việc các thế hệ trước đây học 11 năm,
thậm chí thế hệ kháng chiến chỉ 10 năm nhưng vẫn sản sinh ra rất nhiều giáo sư, tiến sĩ giỏi.
Giải pháp
Mục tiêu giáo dục của ta hiện nay là “Nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân
tài ” . Theo công bố của chương trình phát triển Liên hiệp quốc ( UNDP ) năm 1993 về chỉ
tiêu quy mô phát triển giáo dục thì so với quốc tế ta đều thấp hơn về chỉ tiêu phát triển giáo
dục ở các bậc học. Về giáo dục phổ thông, ta chưa đạt mức trung bình, về cao đẳng đại học
ta còn thấp hơn nước phát triển chậm. Vì vậy, muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục đề ra
chúng ta cần tích cực thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục :
(1)- Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đào tạo: Trên thế giới và trong khu vực hiện nay tỷ
trọng ngân sách giành cho giáo dục – đào tạo rất cao, chúng ta do điều kiện đất nước còn
nghèo , nguồn cung cấp ngân sách cho giáo dục- đào tạo còn hạn chế, đang phấn đấu để đạt
con số 15 % và sau đó cần phải tăng hơn nữa . Ngoài ngân sách nhà nước hiện nay chúng ta
đang huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, xã hội hoá giaó dục để tăng nguồn lực cho
giáo dục đào tạo . Hiện nay có nhiều nước trên thế giới coi giáo dục là một ngành kinh
doanh, kinh doanh công nghệ dạy học, chúng ta nên tạo điều kiện kêu gọi họ tham gia xây
dựng cơ sở vật chất và nội dung chương trình giáo dục cho ta. Ngoài ra ta nên có chủ trương

cho các trường chuyên nghiệp, dạy nghề lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với
ngành nghề đào tạo.
Tăng lương giáo viên
Hiện nay, với thang bảng lương đang áp dụng, ngành GD thật khó để thu hút được đội
ngũ giáo viên giỏi. Bởi nhìn vào điểm chuẩn đầu vào của các ngành sư phạm tại các trường
ĐH năm 2012, người ta không khỏi giật mình.
Tại ĐH Đà Nẵng, điểm chuẩn ngành sư phạm Vật lý là 14,5 điểm, ngành sư phạm Tin học là
13 điểm. ĐH Tây Bắc, điểm chuẩn ngành sư phạm Toán là 14 điểm, sư phạm Vât lý là 13
điểm. Như vậy, chỉ cần trung bình mỗi môn thi từ 4,5 đến 5 điểm là các bạn trẻ của chúng ta
đủ tiêu chuẩn bước vào giảng đường ĐH. Đầu vào là thế, vậy ta thử nghĩ xem liệu đầu ra
(sau 4 năm học tập) của số sinh viên này như thế nào? Phải chăng 4 năm ĐH sẽ giúp các sinh
viên này cải thiện rõ rệt về chất để trở thành những giáo viên có đủ tự tin đứng trên bục
giảng truyền đạt lại kiến thức cho học sinh?
Trong khi đó điểm đầu vào của ĐH Ngoại thương Hà Nội năm 2009, đối với ngành Kinh tế
đối ngoại (khối A) là 26,5 điểm. Tương tự ngành thấp nhất, điểm trúng tuyển cũng đã là 23,5
điểm. ĐH Kinh tế Quốc dân điểm trúng tuyển thấp nhất của khối A là 22,5 điểm. Tại sao lại
có nghịch lý này?
Đơn giản, bởi khi ra trường một sinh viên học về kỹ thuật, hay thương mại, kinh tế
nếu làm cho một doanh nghiệp tư nhân trong nước cũng có thể có mức lương khởi điểm từ 3
– 4 triệu đồng/tháng, và may mắn hơn nếu được làm cho các tổng công ty, tập đoàn lớn hay
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì mỗi tháng bình quân có thể thu nhập từ 6 –
10 triệu đồng, thậm chí hơn nữa. Với mức lương tháng đó, nhìn vào thang bảng lương giáo
dục, người thầy không khỏi chạnh lòng.
Bởi vì, một giảng viên có thâm niên 10 năm kinh nghiệm tại các trường ĐH lớn của
Việt Nam cũng không thể có được mức lương ngang bằng một sinh viên vừa tốt nghiệp ĐH,
làm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. So sánh nhỏ này cho thấy chừng nào chúng
12


ta chưa cải cách hệ thống thang bảng lương ngành GD, chừng đó chúng ta vẫn không thể có

được đầu vào tốt cho ngành sư phạm.
Xét về mặt kinh tế, chi phí chúng ta đánh mất trong tương lai cho vấn đề này sẽ còn
cao hơn rất nhiều so với việc tăng lương cho giáo viên. Vì một giáo viên kém ảnh hưởng đến
hàng trăm người, và thậm chí ảnh hưởng đến cả nhiều thế hệ. Như vậy, phải tăng lương thì
ngành GD mới có cơ hội chiêu mộ được người tài.
(2)- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục: Từng bước đổi mới nội dung
sách giáo khoa, loại bỏ những kiến thức không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết
theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng nội
dung công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành.
Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trọng hơn nữa các môn
khoa học xã hội và nhân văn , nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và văn hoá Việt Nam.
Tổ chức cho sinh viên, học sinh tham gia công tác xã hội, tổ chức các hoạt động văn nghệ,
thể thao phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Nhìn rộng ra các quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới, họ đặc biệt quan
tâm đến việc phát triển tư duy sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc theo
nhóm của người học. Các quốc gia này áp dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm khích lệ
và tạo điều kiện tốt nhất để người học phát triển khả năng sáng tạo của mình. Nhiều trong số
các phương phương pháp, chúng ta có thể học tập và áp dụng cho Việt Nam ngay cả ở những
trường, đơn vị chưa áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ.

13



×