Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ kể chuyện lớp 5 thông qua trò chơi học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.19 KB, 67 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
__________

TRẦN THỊ HỒNG HIỆP

TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN LỚP 5
THÔNG QUA TRÒ CHƠI HỌC TẬP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
__________

TRẦN THỊ HỒNG HIỆP

TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN LỚP 5
THÔNG QUA TRÒ CHƠI HỌC TẬP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS. BÙI MINH ĐỨC



HÀ NỘI – 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản khóa luận này, lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn
đến thầy giáo PGS.T. Bùi Minh Đức đã hướng dẫn và giúp đỡ em tận tình
trong suốt quá trình làm khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa đã
tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những tri thức quý báu trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu khóa luận này em còn nhiều bỡ ngỡ
khó khăn, không tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót. Em mong nhận được sự
xem xét, đánh giá, đóng góp những ý kiến quý báu của thầy cô giáo cùng các
bạn để bản khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Hồng Hiệp


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận này kết quả nghiên cứu của riêng bản thân
em dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo PGS.TS Bùi Minh Đức. Mọi
kết quả nghiên cứu trong để tài đều trung thực, không trùng với kết quả của
tác giả nào và chưa được công bố tại bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa
học nào của ai khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên


Trần Thị Hồng Hiệp


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

HSTH :

Học sinh tiểu học

BGK

:

Ban giám khảo

SGK


:

Sách giáo khoa

NXB

:

Nhà xuất bản


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 7
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ............................................... 8
6. Giả thuyết khoa học .................................... Error! Bookmark not defined.
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
8. Cấu trúc khoá luận ........................................................................................ 8
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 9
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................... 9
1.1.Cơ sở lí luận ................................................................................................ 9
1.1.1.Kể chuyện ................................................................................................. 9
1.1.2. Hứng thú và hứng thú học tập của học sinh tiểu học ........................... 15
1.1.3. Trò chơi và trò chơi học tập.................................................................. 18
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 22
1.2.2. Thực trạng dạy học môn Kể chuyện lớp 5 ............................................ 25

Kết luận chương 1 ........................................................................................... 31
Chương 2: SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO
HỌC SINH TRONG MÔN KỂ CHUYỆN LỚP 5 ......................................... 33
2.1. Nguyên tắc sử dụng trò chơi học tập để tạo hứng thú cho học sinh trong
môn Kể chuyện lớp 5 ...................................................................................... 33
2.1.1. Trò chơi học tập phải phải phù hợp và vừa sức với học sinh............... 33
2.1.2. Trò chơi học tập phải đảm bảo tính sư phạm – chơi để học ................ 33


2.1.3. Trò chơi học tập phải phù hợp với giờ học Kể chuyện ......................... 34
2.1.4. Trò chơi học tập phải tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học .......... 34
2.2. Quy trình lựa chọn và tổ chức trò chơi cho HSTH .................................. 36
2.3. Những điều cần lưu ý khi tổ chức trò chơi học tập .................................. 37
2.3.1. Cách hướng dẫn và tổ chức trò chơi học tập........................................ 37
2.3.2. Những điều lưu ý khi tổ chức trò chơi học tập ..................................... 38
2.4. Một số trò chơi học tập để tạo hứng thú cho học sinh trong môn Kể
chuyện lớp 5 .................................................................................................... 38
2.4.1. Tổ chức hoạt động thi kể chuyện đóng vai............................................ 38
2.4.2. Tổ chức trò chơi thi đặt tên cho đoạn ................................................... 41
2.4.3. Tổ chức trò chơi kể chuyện thi kể chuyện liên hoàn ............................. 45
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 46
Chương 3: GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ......................................................... 47
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 56
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 58


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cuộc sống hằng ngày, khi con người mới sinh ra thì đã có nhu cầu

giao tiếp – nhu cầu đó ngày càng đòi hỏi cao hơn. Kể chuyện chính là một
phần không thể thiếu được của nhu cầu ấy. Ngay từ khi còn nhỏ, tuổi thơ của
các em đã được làm quen với những câu chuyện dân gian qua lời kể của bà,
của mẹ hoặc của những người thân khác trong gia đình. Qua những câu
chuyện kể, các em bắt gặp được cuộc sống của các nhân vật, những cuộc
phưu lưu và những tình tiết đầy bất ngờ, thú vị. Chính những câu chuyện
đó đã đưa các em vào một thế giới khác, thế giới của những khu vườn cổ
tích thần bí, từ đó khơi gợi ở các em lòng yêu cái đẹp trong thiên nhiên,
yêu cuộc sống, nâng cao tâm hồn trong sáng, hướng các em tới những ước
mơ cao đẹp.
Trong trường Tiểu học, phân môn Kể chuyện là một môn học lý thú, hấp
dẫn đối với học sinh. Tiết Kể chuyện thường được các em luôn háo hức chờ
đợi được học. Khác hẳn với các tiêt học khác, GV và các em học sinh hầu như
thoát li hẳn sách vở, giao hòa tình cảm một các hồn nhiên thông qua những
nội dung câu chuyện được kể, thông qua lời kể của giáo viên và của học sinh.
Tiết Kể chuyện đã đưa các em đi từ hiện tại để vào những vườn cổ tích, đến
với những hình ảnh đẹp đẽ, tấm lòng dũng cảm cao thượng, đầy lòng vị tha
của các nhân vật trong cuộc sống hằng ngày các em ít được gặp.
Phân môn Kể chuyện đã thay đổi bầu không khí của lớp học giúp các em
giải tỏa những căng thẳng sau những tiết học khác. Để các em có tâm lí tốt
hơn cho các giờ học sau nhằm nâng cao hiệu quả dạy học. Phân môn Kể
chuyện cung cấp cho học sinh những tri thức về tự nhiên và xã hôi, cho các
em một số kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc học tập cũng như trong cuộc
sống, hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức cao đẹp. Không những

1


vậy kể chuyện còn giáo dục cho các em tấm lòng yêu quê hương đất nước,
yêu muôn loài và yêu thế giới xung quanh, giáo dục lòng yêu cái tốt, cái đẹp,

biết căm ghét cái xấu, cái ác, ghét chiến tranh nhưng có tấm lòng đầy vị tha,
góp phần hình thành nhân cách của con người của các em.
Ngoài ra, kể chuyện còn hình thành cho các em tính mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp, qua đó phát triển lời nói, bồi dưỡng cho các em cảm xúc thẩm
mĩ lành mạnh, cung cấp những kiến thức về vốn sống, nêu những tấm gương
giáo dục. Vì vậy, phân môn Kể chuyện có vai trò hết sức quan trọng trong
chương trình tiểu học.
Song trong một tiết kể chuyện, làm thế nào để học sinh có thể kể tốt một
câu chuyện mà các em đã được học, đã được nghe, có thể đóng vai đạt yêu
cầu trước hết cần phải tạo hứng thú với giờ kể chuyện cho học sinh. Vì chỉ
thích thú, ham thích kể chuyện thì các em mới thực sự kể chuyện được đúng,
được hay và sáng tạo. Nhưng tiếc rằng trên thực tế hiện nay, ở một số trường
tiểu học, không ít giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa nhận thức đúng vai trò của
mình trong việc khích lệ cũng như tạo hứng thú cho học sinh và chưa giành
thời gian xứng đáng cho tiết dạy kể chuyện. Một số giáo viên cho rằng kể
chuyện phụ thuộc nhiều vào năng khiếu. Ai có năng khiếu người đó sẽ dạy
giỏi, ai không có năng khiếu thì có cố gắng mấy cũng không thể thành công,
hoặc một phần khác cũng nhận thức được vai trò quan trọng của dạy học
phân môn Kể chuyện, song do điều kiện bên ngoài mà tiết Kể chuyện vẫn
chưa thực sự đạt được kết quả cao… Do đó, nhiều GV vẫn còn gặp nhiều
lúng túng khi thể hiện một tiết dạy kể chuyện mà học sinh có thể thực hành
ngay tại lớp bằng ngôn ngữ của mình. Điều đó phần nào đã dẫn đến chất
lượng giờ Kể chuyện còn hạn chế.
Bên cạnh đó là nhận thức của HS về vai trò của việc kể chuyện trong
cuộc sống ở mức độ nhỏ hẹp, chưa có sự quan tâm và dành thời gian đúng

2


mức cho việc luyện tập kể chuyện. Đó chính là lí do cho kết quả việc kể

chuyện chưa tốt cũng như hiệu quả của giờ học kể chuyện chưa cao.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đỏi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy
học ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh. Vì vậy người GV phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng
cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là
một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Việc sử dụng các trò chơi học tập
trong môn Kể chuyện giúp các em có thể nắm được nội dung và kể lại câu
chuyện một cách dễ dàng, sâu sắc và thêm phần hứng thú đọc và kể các câu
chuyện hơn, điều này là cần thiết để học sinh có thể tự học hoặc tham gia vào
các trò chơi cùng bạn bè theo tinh thần “Học vui – vui học”, “Học mà chơi,
chơi mà học”.
Là một giáo viên trẻ trong tương lai, với mong muốn góp phần nâng cao
chất lượng dạy học phân môn kể chuyện và tạo cho các em sự hứng thú lòng
say mê với phân môn này, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài “Tạo hứng thú
cho học sinh trong giờ Kể chuyện lớp 5 thông qua trò chơi học tập” để
nghiên cứu, từ đó đưa ra một số trò chơi học tập nhằm tạo sự hứng thú cho
học sinh, nâng cao chất lượng, hiệu quả của giờ dạy và học Kể chuyện cho
học sinh lớp 5.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu về dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 5
Từ lâu Kể chuyện đã được đưa vào chương trình Tiếng Việt ở tiểu học
với tư cách là một phân môn riêng, vì vậy phân môn Kể chuyện đã được rất
nhiều người quan tâm nghiên cứu.
Dạy và học môn Tiếng Việt là một nhiệm vụ khó khăn mà không phải
bất cứ nhà giáo dục nào cũng có thể làm được. Đã có rất nhiều tài liệu giáo
dục nghiên cứu và chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của việc dạy học kể chuyện,

3



phương pháp kể chuyện cũng như biện pháp nhằm thu hút sự hứng thú của
học sinh trong giờ Kể chuyện tuy nhiên các tài liệu đó còn mang tính chung
chung, chưa chỉ ra rõ vấn đề cũng như chưa đưa ra các biện pháp cụ thể để áp
dụng vào thực tiễn.
Tác giả M.K. Bogliuxkaia, V.V. Septsenko đă cho ra mắt quyển Đọc và
kể chuyện văn học ở vườn trẻ. Trong quyển sách này, ông đă đưa ra những
nghệ thuật và thủ thuật khi đọc cũng như những phương pháp dạy học một
tiết kể chuyện.
Một tài liệu viết về đề tài kể chuyện mà không thể không nhắc đến đó là
quyển Kể chuyện 1 của đồng tác giả Đỗ Lê Chuẩn và Nguyễn Thị Ngọc Bảo.
Trong phần lí luận chung, các tác giả đã nêu đầy đủ về vị tri, nhiệm vụ cũng
như phương pháp của dạy học kể chuyện ở lớp 1 cũng như đối với Tiểu học.
Phần hướng dẫn cụ thể, các tác giả đã tóm tắt nội dung truyện, hướng dẫn tìm
hiểu truyện và hướng dẫn các bước lên lớp cho từng bài cụ thể.
Cuốn Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học (Tài liệu đào tạo GV
– 2007) của Bộ giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển GV tiểu học. Cuốn sách
đã cập nhật những thông tin đổi mới về nội dung chương trình SGK và
phương pháp dạy học theo chương trình mới. Cuốn sách đã trình bày một
cách chi tiết, cụ thể về cấu trúc, nội dung và phương pháp dạy học cho từng
phân môn trong môn Tiếng Việt. Ngoài ra, cuốn sách còn giới thiệu được một
số phương pháp dạy học tích cực theo hướng đổi mới như: sử dụng đồ dùng
học tập trong dạy học, sử dụng máy chiếu, băng hình… nhằm phục vụ cho
quá trình dạy – học có thể đạt được kết quả cao nhất.
Cuốn Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu hoc theo chương trình mới
(Nguyễn Trí, Nhà xuất bản Giáo dục – 2003). Cuốn sách trình bày những vẫn
đề cơ bản của phương pháp dạy học mới ở nhà trường tiểu học nói chung và
bộ môn Tiếng Việt 5 nói riêng. Đặc biệt, tác giả đã quan tâm đến việc truyền

4



đạt cho HS bốn kĩ năng: nghe – nói – đọc – viết. Dựa trên cơ sở đó, GV biết
cách vận dụng linh hoạt các phương pháp vào dạy học phân môn Tiếng Việt.
Hay như cuốn Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học (Bộ Giáo dục
và Đào tạo, Dự án phát triển GV tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội –
2005). Cuốn sách trình bày cụ thể những đổi mới trong nội dung và phương
pháp dạy học theo chương trình và SGK mới giúp nhà sư phạm nắm được bản
chất của phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS;
vận dụng sáng tạo, linh hoạt những hiểu biết đã có vào thiết kế kế hoạch bài
học theo hướng phát huy tính tích cực của từng HS, thực hành dạy học đạt
hiệu quả, chất lượng.
Một tác giả có nhiều đóng góp trong lĩnh vực này, đó chính là Chu Huy
với Dạy kể chuyện ở trường Tiểu học. Theo tác giả, nhu cầu kể chuyện đối
với học sinh tiểu học là rất lớn. Ngoài việc xác định vị trí, nhiệm vụ rất quan
trọng của phân môn Kể chuyện, ông còn đề ra phương pháp và kĩ thuật lên
lớp với những bài soạn rất cụ thể.
Tác giả Nguyễn Trí và Lê Phương Nga đã cùng biên soạn cuốn giáo
trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 và đã đề cập đến phương pháp dạy
học Kể chuyện. Phần viết về phương pháp dạy học Kể chuyện, các tác giả đã
vạch ra mục đích quan trọng và ý nghĩa thiết thực của việc dạy học kể chuyện.
Đồng thời, các tác giả đã xây dựng cách tổ chức dạy học một tiết Kể chuyện.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã cho ra mắt bạn đọc quyển Phương pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Dạy học kể chuyện là một trong những
phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mà tác giả đã đề cập đến. Trong đó, tác
giả đã chỉ ra phương pháp cũng như nghệ thuật đọc và kể chuyện rất cụ thể.
Xác định quan niệm và biện pháp dạy học Kể chuyện ở tiểu học là đề tài
nghiên cứu của tác giả Trần Thị Mến, sinh viên K47, khoa Giáo dục Tiểu học,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong đề tài này, tác giả đã xác định quan

5



niệm về dạy học Kể chuyện và một số biện pháp dạy học cụ thể nhưng chỉ
dừng lại ở việc hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện vừa nghe thầy cô kể
trên lớp.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây là rất giá trị cho giáo viên
trong việc dạy học Kể chuyện theo chương trình cải cách giáo dục. Đối với
chương trình 2000 thì các công tŕnh này chỉ có thể áp dụng với các lớp1, 2, 3
và kiểu bài Nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe trên lớp ở lớp 4-5.
2.2. Các nghiên cứu về hứng thú của học sinh tiểu học trong môn Tiếng Việt
Hiện nay, đã có rất nhiều tài liệu bàn về hứng thú học tập Tiếng Việt
cũng như là hứng thú học tập trong phân môn Kể chuyện của HSTH. Ý tưởng
tìm tòi các biện pháp dạy học sao cho hay, cho vui đã được nhiều nhà giáo
dục thể hiện qua một số cuốn sách tham khảo mặc dù sách không bàn đến bất
kì một vấn đề lí thuyết nào về dạy học hứng thú.
Trong cuốn Vui học Tiếng Việt, tác giả Trần Mạnh Hưởng đã cung cấp
những trò chơi, những bài tập vui và nhẹ nhàng về tiếng Việt theo yêu cầu
kiến thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt ở bậc tiểu học để HS có thể tự học
hoặc tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè theo tinh thần Học vui – vui học,
Học mà chơi – chơi mà học một cách hứng thú và bổ ích.
Cũng theo tinh thần ấy, tác giả Trương Đức Thành và tác giả Nguyễn
Văn Tứ cũng đã đề cập trong hai cuốn Những bài tập tiếng Việt lí thú (Trương
Đức Thành chủ biên) và Chuyện vui chữ nghĩa (Nguyễn Văn Tứ). Ngoài ra,
các tác giả Trần Mạnh Hưởng, Lê Phương Nga và Nguyễn Thị Hạnh trong
cuốn Trò chơi học tập tiếng Việt ở tiểu học cũng đã nêu ra một số trò chơi
nhằm nâng cao hứng thú học tập tiếng Việt cho HSTH. Hay như cuốn “Tổ
chức hoạt động vui chơi ở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ, thể lực
cho học sinh” của Hà Nhật Thăng (chủ biên) hay cuốn “150 trò chơi thiếu
nhi” của Bùi Sỹ Tụng và Trần Quang Đức (đồng chủ biên).


6


Để góp phần nâng cao lòng yêu thích tiếng mẹ đẻ - thứ của cải vô cùng
quý giá mà cho ông ta đã để lại, tác giả Trịnh Mạnh đã viết ra cuốn Tiếng Việt
lí thú. Trong cuốn sách này, tác giả tìm hiểu những điều lí thú xoay quanh
tiếng Việt nhằm tạo hứng thú học tập tiếng Việt cho HSTH.
Trong bài Bồi dưỡng hứng thú học tập của học sinh với môn Tiếng Việt
(năm 2000), tác giả Lê Xuân Thại đã nêu ra tầm quan trọng của việc bồi
dưỡng hứng thú học tập cho HS. Việc bồi dưỡng hứng thú học tập có vai trò
vô cùng quan trọng trong việc giúp HS lĩnh hội tri thức, đặc biệt là lĩnh hội
các kiến thức về tiếng Việt.
Tác giả Lê Phương Nga trong bài viết Bảo đảm sự thành công cho học
sinh tiểu học trong giờ học Tiếng Việt những ngày đầu tiên đến trường, Tạp
chí Tâm lí học 2/2004, đã khẳng định một trong những yếu tố dẫn đến thành
công của giờ học Tiếng Việt chính là việc bồi dưỡng hứng thú học tập tiếng
Việt cho HS.
Ở các tài liệu này, các tác giả đã đề cập rất rõ vai trò cũng như các biện
pháp của việc tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết học Tiếng việt cũng
như các giờ học kể chuyện. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu
nghiên cứu trên phương diện lí luận mà chưa đi sâu khai thác triệt để thực
trạng sử dụng phương pháp này trong dạy học Kể chuyện nhằm tạo hứng thú
cho học sinh ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số trò chơi học tập sử dụng trong dạy học phân môn Kể
chuyện nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến tạo hứng
thú trong giờ Kể chuyện cho học sinh lớp 5
- Nghiên cứu một số trò chơi học tập phân môn Kể chuyện lớp 5


7


- Sử dụng các trò chơi học phân phân môn Kể chuyện lớp 5
- Thiết kế giáo án ứng dụng cho đề tài
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và địa bàn khảo sát
5.1. Đối tượng
- Vấn để sử dụng phương pháp trò chơi học tập để tăng hứng thú cho
học sinh trong môn Kể chuyện lớp 5
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giờ Kể chuyện lớp 5
5.3. Địa bàn khảo sát
- Trường Tiểu học Hùng Vương – Tx.Phúc Yên – Tỉnh Vĩnh Phúc
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu đề tài bao gồm:
- Phương pháp tổng hợp lý luận, phân tích tài liệu: Đọc, nghiên cứu các
tài liệu liên qua đến đề tài, nghiên cứu cơ sở lí luận của việc dạy học Kể
chuyện ở Tiểu học.
- Phương pháp khảo sát thực trạng dạy học Kể chuyện ở trường Tiểu
học nói chung và ở lớp 5 nói riêng.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm kiểm tra tính khoa học và tính khả
thi của những biện pháp đã đề xuất.
- Tổng hợp và thống kê các kết quả thu được từ điề tra và thực nghiệm
sư phạm.
7. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận khóa luận bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Sử dụng trò chơi học tập để tạo hứng thú cho học sinh trong
môn Kể chuyện lớp 5

Chương 3: Thiết kế giáo án thực nghiệm

8


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Kể chuyện
1.1.1.1. Khái niệm kể chuyện
Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Theo Từ điển tiếng Việt (Văn
Tân chủ biên) giải thích: Kể là nói rõ đầu đuôi và nêu ví dụ: kể truyện cổ tích.
Theo đó “kể” tức là nói một sự việc có mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Tác giả Nguyễn Trí cho răng: Kể chuyện là một phương thức tự sự,
một phương thức biểu đạt để kể chuyện. Theo quan niệm này, muốn kể
chuyện chúng ta phải có chuyện để kể. Hay nói các khác là người ta dùng
cách kể chuyện khi có chuyện muốn kể.
Tác giả Chu Huy đã trình bày thuật ngữ kể chuyện trong quyển Dạy
học kể chuyện ở trường Tiểu học. Theo đó, ông cho rằng kể chuyện bao hàm
bốn phạm trù ngữ nghĩa sau:
- Một là: Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với các loại hình
trữ tình, loại hình kịch) – còn gọi là truyện hoặc tiểu thuyết.
- Hai là: Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng.
- Ba là: Chỉ tên một loại văn thuật truyện trong môn Tập làm văn.
- Bốn là: Chỉ tên một phân môn học ở các lớp trong trường Tiểu học.
Kể chuyện là một thuật ngữ bởi nó có một kết cấu âm tiết ôn định, một
phạm trù ngữ nghĩa (còn gọi là khái niệm) nhất định. Thuật ngữ kể chuyện lâu
nay vẫn được dung với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng lời, kể câu chuyện có
hình thức hoàn chỉnh, được in trong sách báo hay lưu truyền bằng miệng.
Trong phạm vi đề tài này, Kể chuyện chính là tên gọi của một phân

môn Tiếng Việt ở tiểu học. Nhằm mục đích phát triển lời nói cho học sinh,
bồi dưỡng cho các em những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, cung cấp những

9


kiến thức về vốn sống cho học sinh, có tác dụng giáo dục tư tưởng và tình
cảm cho các em.
1.1.1.2. Mục tiêu của dạy kể chuyện
Theo tác giả Hoàng Hoà Bình, dạy học kể chuyện ở tiểu học nhằm đạt
các mục tiêu sau:
Một là, cùng với phân môn Tập đọc, kể chuyện bước đầu cho các em
tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, biết rung cảm trước vẻ đẹp của nó. Đồng thời
các em nắm được một số đặc điểm chính yếu của nó để vận dụng trong việc
tiếp nhận các tác phẩm văn học và trong việc sáng tạo lời nói phục vụ cho
hoạt động giao tiếp.
Hai là, bước đầu cho các em tiếp xúc với hình tượng văn học, rung cảm
trước những vui, buồn, yêu, ghét của con người. Từ đó hình thành và phát
triển nhận thức, tình cảm và thái độ đúng đắn trong cuộc sống như biết phân
biệt cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác, cái đúng với cái sai; biết yêu
thương trường, lớp, thầy cô, bạn bè, quê hương, đất nước; có lòng nhân ái vị
tha; có ý thức về bổn phận với ông bà, cha mẹ, người thân, thầy cô giáo, bạn
bè; biết tôn trọng nội qui, tôn trọng pháp luật, bảo vệ của công, bảo vệ môi
trường; biết sống tự tin, năng động, trung thực, dũng cảm; có ý thức và nhu
cầu nhận thức bản thân.
Ba là, bước đầu rèn luyện và hình thành các kĩ năng cơ bản như biết kể
chuyện, biết tóm tắt câu chuyện, biết rút ra ý nghĩa câu chuyện, biết nhận xét,
nêu cảm nghĩ của mình về các nhân vật có trong truyện... để vận dụng trong
học tập trên lớp và trong thưởng thức nghệ thuật ngoài lớp.
1.1.1.3. Vai trò của kể chuyện

Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn
ngữ dạng nói. Mặc dù đã có các phượng triện thông tin đại chúng hiện đại

10


như tivi, đài phát thanh, radio… người ta vẫn thích nghe kể chuyện bằng
miệng.
Theo định nghĩa rộng, thuật ngữ “kể chuyện” có thể bao hàm toàn bộ
ngôn ngữ nói trong sinh hoạt hằng ngày của con người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý
báu. Chúng ta phải biết quý trọng nó, giữ gìn nó, phát triển nó”. Nhờ có tiếng
nói là lao động mà con người thoát khỏi đời sống động vật, vươn lên làm chủ
bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Bầy người nguyên thủy thường
quay quần quanh đống lửa trại nướng thịt thú rừng, nướng quả, hạt, và thường
kể cho nhau nghe những câu chuyện săn bắn hái lượm. Đó cũng là sự khởi
đầu của sự tích lũy tri thức khoa học và kể chuyện ở đây mang chức năng
thông tin. Khi ngôn ngữ ngày càng phát triển, vốn từ cơ bản tăng lên, đời
sống vật chất và tinh thần ngày càng phong phú thì kể chuyện không chỉ dừng
lại ở mức độ thông tin nữa mà thêm chức năng giải trí, hay cao hơn nữa là
chức năng nghệ thuật. Nhờ vậy mà kho tàng đồ sộ truyện cổ dân gian hết sức
giàu có, hết sức đa dạng được truyền lại tới ngày nay bằng hình thức kể.
Đối với trẻ thơ, mỗi câu chuyện kể giúp cho trẻ có thêm những ước mơ
bay bổng. Chúng có ảnh hưởng lớn tới vai trò phát triển toàn diện của trẻ nhỏ.
Mỗi câu chuyện kể đều có thể đánh thức ước mơ của trẻ, làm cho trẻ nhận
thức được thế giới xung quanh, có biểu tượng về thực tế xã hội, từng bước
cung cấp cho trẻ những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống.
Kể chuyện có vai trò giúp trẻ nhỏ nhận thức thế giới không chỉ bó hẹp ở
những câu chuyện trong nước, mà còn những câu chuện nước ngoài, được
chọn vào trong chương trình tiểu học. Kể chuyện giữa các em hoàn thiện nhân

cách biết quý trọng con người, yêu thiên nhiên và chắp cánh ước mô cho các
em, kể chuyện còn có ảnh hưởng lớn tới việc giáo dục thẩm mỹ cho cá em.
Có thể nói vẻ đẹp về con người về thiên nhiên hội tụ từ những câu chuyện

11


trong chương trình tiểu học đã đem lại ấn tượng thẩm mỹ sâu sắc cho các em
như vẻ đẹp về con người: Ông Gióng, Thạch Sanh, Lang Liêu, Hoàng Tử,
Công Chúa… hay cảnh đẹp về thiên nhiên như: Màu xanh của thảo nguyên
mênh mông, của Sa mạc với Cát vàng, của thác nước trăng xóa, của núi đồi
hun hút và sâu thẳm… Mỗi câu chuyện là một bức tranh rộng lớn về con
người về cảnh đẹp thiên nhiên, đem đến nhận thức đầu đời và để lại ấn tượng
tốt đẹp trong lòng mỗi trẻ.
Những câu chuyện kể trong đời sống với tình thiết éo le, những tấm
gương anh dũng hay những cái tham lam, cái ác, những thói hư, tật xấu được
biểu lộ trong các câu chuyện còn góp phần giúp các em phát triển các cảm
xúc thẩm mĩ, lòng mẫn cảm chân thành trước nỗi bất hạnh, đau đớn và khổ ải
của con người. Nhờ các câu chuyện kể, trẻ nhận thức được thế giới không chỉ
bằng trí tuệ mà còn bằng trái tim, và đồng thời trẻ còn đáp lại các sự kiện,
hiện tượng của thế giới sung quanh và tỏ thái độ của mình đối với các điều
thiện và điều ác. Qua các câu chuyện cổ tích, trẻ còn được cung cấp thêm
những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa, và chính nét đặc trưng
của câu chuyện làm cho các em đồng tình khi những người hiền hậu chiến
thắng và quan niệm “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” cũng được in sâu vào trong
tâm hồn các em.
Góp phần lớn trong việc nhân thức vẻ đẹp, qua các câu chuyện kể, các
em còn được phát triển khả năng tư duy và vốn ngôn ngữ mà các em tích lũy
được trước khi đến trường và sau khi đã học xong lớp 1. Từ đó làm cho vốn
sống của các em thêm phong phú, là nền tảng để các em học tập tốt không chỉ

phân môn Kể chuyện mà còn các môn học khác ở bậc Tiểu học.
Như vậy những câu chuyện kể luôn luôn giành được sự yêu mến của tất
cả mọi người. Nó là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi con người

12


và càng cần và quan trọng hơn đối với những tâm hồn trẻ thơ, đang từng ngày
lớn lên và hoàn thiện.
1.1.1.4 Vị trí, nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện
a) Vị trí
Phân môn Kể chuyện được xếp liền ngay sau phân môn Tập đọc của bộ
môn Tiếng Việt, sở sĩ như vậy là vì Kể chuyện có vị trí đặc biệt trong dạy học
tiếng mẹ đẻ, trước hết vì hành động kể là một hành động “nói” đặc biệt trong
hoạt động giao tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về
đời sống và tạo điều kiện để học sinh rèn luyện tổng hợp các kĩ năng tiếng
Việt như: Nghe, nói, đọc trong hoạt động giao tiếp. Khi nghe các thầy cô giáo
kể chuyện học sinh được tiếp nhận tác phẩm ở dạng âm thanh. Khi các em kể
chuyện là các em đang tái sản sinh hay sản sinh một tác phẩm nghệ thuật ở
dạng lời nói. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có được cả
sức mạnh của văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự
hiểu biết về cuộc sống, về con người, tâm hồn của các em sẽ nghèo đi biết bao
nhiêu nếu không có những câu chuyện kể trong trường học. Vì vai trò của
hành động kể và sản phẩm truyện, phân môn Kể chuyện có vị trí rất quan
trọng trong dạy học Tiếng Việt.
b) Nhiệm vụ
Trong quyển Dạy kể chuyện ở trường Tiểu học, tác giả Chu Huy đã chỉ
ra nhiệm vụ cơ bản của phân môn kể chuyện là: bồi dưỡng tâm hồn, đem lại
niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển ngôn ngữ và tư duy
cho trẻ. Chúng ta có thể hiểu các nhiệm vụ của kể chuyện cụ thể như sau:

Nhiệm vụ thứ nhất là bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui cho trẻ. Kể
chuyện đã đáp ứng nhu cầu nghe kể chuyện ở trẻ. Đối với các em nhu cầu này
rất lớn. Các câu chuyện được sử dụng để kể cho trẻ là các tác phẩm văn học

13


nghệ thuật. Các tác phẩm này có tác động rất lớn đến tâm hồn và cảm xúc của
trẻ, đồn thời nó còn đem lại những cảm xúc thẩm mĩ cho các em.
Phân môn Kể chuyện trong chương trình tiểu học trước tiên đáp ứng nhu
cầu mong muốn được nghe kể chuyện của học sinh, phát triển ngôn ngữ, phát
triển kĩ năng nghe, nói, đồng thời phát triển tư duy và bồi dưỡng tâm hồn, làm
giàu vốn sống và vốn văn học cho học sinh.
Nhiệm vụ thứ hai là trau dồi vốn sống và vốn văn học cho các em. Các
em được học kể chuyện từ khi chưa biết đọc biết viết, điều này cũng có nghĩa
là các em được tiếp xúc rất sớm với các tác phẩm văn học. Trong chương
trình tiểu học, các em được nghe và kể rất nhiều câu chuyện với nhiều thể loại
khác nhau, từ truyện cổ tích đến hiện đại, có cả tác phẩm văn học trong nước
lẫn ngoài nước. Nhờ đó vốn văn học của trẻ được phát triển. Các câu chuyện
kể với nhiều đề tài khác nhau đã đưa các em tới một thế giới muôn màu,
muôn vẻ của cuộc sống, tự nhiên và xã hội. Các câu chuyện phản ánh trực
tiếp hoặc gián tiếp cuộc sống: nỗi khổ cực, bị áp bức bốc lột của nhân dân lao
động xưa, bộ mặt ích kĩ, tham lam, gian tà của giai cấp bốc lột, tập quán,
truyền thống của dân tộc, các gương chiến đấu hi sinh bảo vệ và xây dựng đất
nước. Vốn sống của các em được mở rộng cũng nhờ đó.
Nhiệm vụ thứ ba là phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ. Qua việc nghe
và kể các câu chuyện, trẻ được tiếp xúc với các hình ảnh nghệ thuật của ngôn
từ mà tác giả đã sử dụng. Chính điều đó giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển.
Các chi tiết, các hình ảnh nghệ thuật, tính cách của nhân vật... trong câu
chuyện làm phát triển tư duy cho trẻ. Trong quá trình nghe, kể trẻ phải thâm

nhập vào trong truyện. Muốn vậy trẻ phải hiểu sâu sắc câu nội dung chuyện. Mà
nội dung câu chuyện chính là các chi tiết, các hình ảnh, các nhân vật
Ngoài ra, phân môn Kể chuyện góp phần rèn luyện và phát triển kĩ năng
nói và kể trước đám đông. Giờ học kể chuyện rèn cho học sinh kĩ năng nói

14


trước đám đông dưới dạng độc thoại từng bài theo phong cách nghệ thuật.
Đồng thời với các kĩ năng nghe, nói, đọc thì kĩ năng ghi chép cũng được phát
triển trong quá trình kể lại câu chuyện đã nghe, kể lại câu chuyện đã đọc.
Tóm lại, Kể chuyện có mục tiêu, nhiệm vụ rất quan trọng trong trường
tiểu học. Ngoài việc góp phần hoàn thiện nhân cách cho học sinh, Kể chuyện
còn tạo cho các em hứng thú học tập.
1.1.2. Hứng thú và hứng thú học tập của học sinh tiểu học
1.1.2.1.Đặc điểm hứng thú của học sinh tiểu học
Hứng thú học tập có vai trò rất quan trọng trong hoạt động học tập nói
riêng và trong việc phát triển thái độ của cá nhân với thực tiễn khách quan nói
chung. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà sư phạm là hướng
dẫn một cách kiên trì, có mục đích hứng thú của HS ngay từ tuổi thơ. Để giáo
dục hứng thú có hiệu quả, các nhà giáo dục cần nắm được sự hình thành và
các mức độ phát triển của các loại hứng thú của trẻ.
- Trẻ trước tuổi học:
Hứng thú nhận thứ được bắt đầu hình thành từ khá sớm. Ban đầu hứng
thú nhận thức được biểu hiện dưới hình thức tò mò. Ngay từ những năm đầu
tiên của cuộc đơi, trẻ đã bị vật mới lạ, sự di động, âm thanh, màu sắc sặc sỡ,
ánh sáng chói…của đối tượng hấp dẫn. Trẻ không rời mắt khỏi những vật
kích thích đó và vươn tới tiếp xúc nhiều lần với nó. Đến tuổi mẫu giáo, do có
sự hướng dẫn của người lớn, đặc biệt là của cô giáo ở lớp mẫu giáo, trẻ dần
nảy sinh hứng thú học tập, hứng thú với cuộc sống nhà trường.

- Học sinh tiểu học:
6 tuổi – “một bước ngoặt hạnh phúc” trong cuộc đời mỗi con người. Sự
kiện nhập trường gợi ra cho trẻ một sự định hướng mạnh mẽ vào học tập và
hứng thú với toàn bộ cuộc sống nhà trường. Hứng thú nhận thức ở lứa tuổi
này được khơi sâu.

15


Trẻ mới tới trường dễ dàng làm quen với những gì gây ấn tượng mạnh,
thích hứng thú trước hết với những gì gắn liền với học tập, với cuộc sống của
trẻ và bạn bè cùng lớp, với những cái gắn với vận động và hoạt động một
cách trực tiếp mang màu sắc xúc cảm. Điều đáng lưu ý là ở lứa tuổi HSTH,
hứng thú của trẻ gắn bó với người lớn, đặc biệt với nhân cách người GV.
Chính sự phụ thuộc của người GV có ảnh hưởng lớn đến chiều hướng hứng
thú của trẻ. GV phải biết tận dụng vị trí thuận lợi này để ngay từ những ngày
đầu trẻ mới bước chân tới trường có thể khích lệ, điều khiển tính ham hiểu
biết vốn có ở mỗi trẻ, trở thành nhu cầu nhận thức chính đáng. Nếu GV thực
sự say mê với nội dung bài học, biết tổ chức hoạt động học tập cho trẻ sao cho
đáp ứng được nhu cầu đó thì hứng thú học tập, hứng thú nhận thức của HS sẽ
được phát triển.
1.1.2.2.Đặc điểm hứng thú trong môn Kể chuyện của học sinh lớp 5
Hứng thú học môn Kể chuyện của HS được biểu hiện thông qua các dấu
hiệu, các chỉ số cụ thể trong hoạt động học tập, trong cuộc sống của các em.
Nhà giáo dục có thể quan sát, nhận biết được chúng. Những biểu hiện này khá
phong phú, đa dạng. Đó là:
* Biểu hiện về mặt nhận thức: HS nhận thức được vị trí, vai trò hay tầm
quan trọng của phân môn Kể chuyện, xác định được mức độ hứng thú học
Kể chuyện so với các môn học khác. Hứng thú học Kể chuyện thể hiện qua
sự mong muốn tìm hiểu, khám phá của các em đối với môn học hay nói cách

khác, nó thể hiện sự nhận thức tích cực của người học đối với môn học. Sự
nhận thức này là cơ sở để người học có sự yêu thích cũng như có hành động
tích cực đối với môn học.
* Biểu hiện ở mặt thái độ: HS có xúc cảm tích cực đối với môn Tiếng
Việt đặc biệt là phân môn Kể chuyện và hoạt động của môn học. Cụ thể là:
- Có tâm trạng háo hức, chờ đón giờ học Kể chuyện.

16


- Có niềm vui nhận thức cùng với sự thích thú khi tiếp nhận các câu
chuyện được nghe giáo viên kể hay được đọc từ sách báo, truyện,..
- Thích thú thực hiện các nhiệm vụ học tập.
- Vui sướng với những thành công trong học tập
+ Biểu hiện thái độ trong các tiết học Kể chuyện:
- Chăm chú nghe giáo viên kể chuyện.
- Ghi chép bài đầy đủ, cẩn thận.
- Tích cực suy nghĩ, hang hái phát biểu xây dựng bài.
- Thực hiện đầy đủ các việc làm, làm bài tập GV giao trong giờ một cách
vui vẻ, tự nguyện.
- Thích đặt câu hỏi để hiểu kĩ nội dung câu chuyện trong bài học.
- Mong đến tiết học Kể chuyện, không muốn vắng mặt trong những buổi
học môn này, không cảm thấy mệt mỏi khi học môn học này.
- Thích thú với kiến thức thu được sau mỗi tiết học kể chuyện.
+ Biểu hiện thái độ ngoài các tiết học Kể chuyện
- Thích đọc bài mới trước khi đến lớp.
- Luôn vận dụng kiến thức đã học được từ các câu chuyện kể đã được
học, được đọc vào cuộc sống hàng ngày và để tìm hiểu các tác phẩm khác.
- Thích đọc thêm nhiều sách báo, tài liệu bổ sung kiến thức trong giờ Kể
chuyện

- Thích được nghe kể chuyện, nghe những bài văn, bài thơ hay. Thích kể
hoặc đọc lại các bài văn, thơ hay cho người thân, bạn bè, thầy cô,…
- Thường ghi lại những câu văn hay, hệ thống lại kiến thức được học trên
lớp vào sổ tay riêng.
* Biểu hiện về mặt hành vi: HS biểu hiện bằng các hành động học tạp
tích cực, chủ động, sáng tạo không chỉ trong các tiết học Kể chuyện mà còn ở
ngoài các tiết học hàng ngày như:

17


+ Trong các tiết học Kể chuyện:
- Say mê học tập, chăm chú nghe cô giáo kể chuyện.
- Ghi chép bài đầy đủ, cẩn thận.
- Tích cực suy nghĩ, hăng hái phát biểu xây dựng bài.
- Đặt câu hỏi với thầy cô giáo, với bạn bè để hiểu kĩ nội dung câu
chuyện.
- Thực hiện đầy đủ các việc làm, bài tập giáo viên giao trong giờ một
cách vui vẻ, tự nguyện.
+ Ngoài các tiết học Kể chuyện:
- Học và làm bài đầy đủ.
- Sưu tầm, đọc thêm nhiều tài liệu, sách tham khảo có liên quan tới môn
Kể chuyện.
- Có sổ tay riêng để ghi chép lại những câu văn, câu thơ, hay những chi
tiết hay đặc sắc có trong các câu chuyện.
1.1.3. Trò chơi và trò chơi học tập
1.1.3.1. Trò chơi
a) Khái niệm trò chơi
Trò chơi là một hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội dung nhất
định và có những quy định mà người tham gia cần phải tuân thủ.

Trò chơi còn là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên
và chủ yếu là vui chơi giải trí, thư giãn sau giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Qua trò chơi, người chơi còn được rèn luyện trí tuệ, thể lực, tạo cơ hội giao
lưu với mội người cùng hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, tổ,...
Đặc trưng cơ bản của trò chơi:
- Trò chơi là một loại hình hoạt động sống của con người.
- Trò chơi có chủ đề, nội dung, quy tắc nhất định.

18


×