Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

SKKN tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học các bài học pháp luật chương trình giáo dục công dân 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.08 KB, 51 trang )

PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học các bài học Pháp
luật chương trình Giáo dục công dân 12.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Khoa học xã hội
3. Tác giả:
Họ và tên: Hoàng Thị Kim Anh Nữ
Ngày tháng năm sinh: 16/05/1980
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Giáo dục chính trị
Chức vụ, đơn vị công tác: Chủ tịch công đoàn, trường THPT Kinh Môn II
Điện thoại: 01665856214
4. Đồng tác giả ( Không có)
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: (Không có)
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THPT Kinh Môn II; Xã Hiệp Sơn,
Huyện Kinh Môn , Tỉnh Hải Dương; Điện Thoại 03203826755
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Học sinh có lực học từ trung bình trở lên.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:
Từ tháng 01 năm 2013 đến tháng 02 năm 2014

HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN) XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
1
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Tạo hứng thú cho học sinh trong các bài học về pháp luật của chương trình
GDCD lớp 12 là biện pháp mà bất kỳ giáo viên nào dạy môn GDCD cũng
đang trăn trở. Với phạm vi đề tài nhỏ này, tôi đã:
Cung cấp được cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn để tạo hứng thú cho học sinh
trong các bài học về giáo dục pháp luật của chương trình GDCD lớp 12.
Đưa ra được ba biện pháp giáo dục cơ bản để tạo hứng thú cho học sinh
trong chương trình GDCD lớp 12: Sử dụng biện pháp nêu tình huống và
phân tích tình huống nhằm thu hút các em trong việc tìm tòi, nghiên cứu tài


liệu và suy nghĩ để có những cách giải quyết tình huống hay nhất, được các
bạn chú ý nhất; Bên cạnh đó, sáng kiến còn đưa ra được cách sử dụng hệ
thống câu hỏi mở giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với giáo viên
và giữa học sinh với học sinh để các em có thể đưa ra nhiều cách trả lời
khác nhau với những suy nghĩ riêng của các em, từ đó giáo viên nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng của các em rồi định hướng cho các em cách thực
hiện pháp luật và sử dụng pháp luật có hiệu quả; Ngoài ra, sáng kiến cũng
đã nêu được biện pháp rất hiệu quả để tạo hứng thú cho học sinh đó là sử
dụng các đồ dùng trực quan như tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu…. sinh động
giúp các em thấy được thực tế cuộc sống đã và đang diễn ra như thế nào để
rồi các em tự rút ra những kinh nghiệm sống cho bản thân thông qua những
kênh hình, kênh chữ mà giáo viên đã cung cấp.
Đánh giá kết quả áp dụng sáng kiến bằng định tính, định lượng, kiểm tra
được độ tin cậy và nêu ra được những hướng phát triển của sáng kiến.
2
PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Pháp luật là gì?
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và được
bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước, nhằm điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.2. Thế nào là giáo dục pháp luật?
Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và
thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình
độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng
và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật.
1.1.3. Khái quát cơ sở lí luận hứng thú học tập môn GDCD của học sinh
- Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về hứng thú nhưng đa số các tác giả
đều thống nhất: Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào

đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá
nhân trong quá trình hoạt động.
- Tùy vào từng góc độ và khía cạnh khác nhau, hứng thú được phân chia
thành nhiều loại khác nhau.
- Hứng thú học tập môn GDCD là thái độ lựa chọn đặc biệt của người học
đối với kết quả, quá trình của sự lĩnh hội và vận dụng những tri thức cũng như kỹ
năng của môn học GDCD, do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn
học đối với bản thân.
3
Hứng thú có vai trò quan trọng trong quá trình nghiên cứu học tập của học
sinh nói riêng và các nhà khoa học nói chung. Nó là động lực thúc đẩy chủ thể tạo
ra những sản phẩm góp phần vào sự phát triển của xã hội. Nếu không có hứng thú
thì hoạt động khó đạt được kết quả cao. Hiện nay, có nhiều người cho rằng môn
GDCD chỉ là môn học phụ. Ủng hộ cho quan niệm này, nhiều người còn cho rằng
môn GDCD đơn thuần chỉ là môn học chính trị thuần túy hay chỉ là môn bổ trợ
thêm kiến thức. Bởi vậy, việc tạo ra hứng thú trong giảng dạy và học tập ở giáo
viên và học sinh đã không được chú trọng nhiều trong những năm qua.Thực trạng
này đã gây ra những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới kết quả học tập của học
sinh. Do đó, cần tập trung nghiên cứu để tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hứng thú
học tập của môn GDCD.
Tuy nhiên, hứng thú học tập của học sinh đối với môn GDCD chỉ dừng lại ở
mức độ hứng thú thụ động, hời hợt bên ngoài và không bền vững, điều đó cũng
một phần là do đặc thù của môn học vốn là môn có kiến thức khô khan và trừu
tượng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Ở trường THPT môn GDCD là môn học thay thế cho môn Chính trị - Đạo
đức trước đây. Đặc điểm chương trình là kết cấu đồng tâm với các môn của các
cấp học cao hơn; trong đó, chương trình lớp 12 lại là chương trình trọng tâm về
kiến thức pháp luật, giáo dục cho các em những kiến thức pháp luật cơ bản nhất
khi các em đến tuổi trưởng thành. Vì vậy, làm thế nào để người học hứng thú học

bộ môn là một vấn đề mà không phải giáo viên nào cũng có thể làm được. Trong
những năm giảng dạy môn GDCD tại trường THPT tôi nhận thấy rằng nhu cầu mở
rộng kiến thức pháp luật của học sinh ngày càng tăng. Vậy làm thế nào để các em
có thể lĩnh hội, vận dụng được những kiến thức pháp luật một cách có hệ thống,
bài bản mà không bị đơn điệu, khô khan, nhàm chán trong mỗi bài học, tiết học.
Điều đó đòi hỏi những giáo viên dạy môn GDCD phải biết lựa chọn kiến thức,
4
phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp với từng bài, từng chủ đề, từng đối tượng
học sinh.
Trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường thì
đội ngũ thầy cô giáo cũng đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ tận tình của tổ bộ môn:
cung cấp tài liệu, góp ý cho việc vận dụng phương pháp cụ thể vào bài dạy cụ
thể đã giúp cho quá trình giáo dục pháp luật vào dạy học trong bộ môn ngày
càng có hiệu quả. Việc đổi mới nội dung sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn cũng
giúp cho tổ, nhóm chuyên môn có thời gian đầu tư tích cực vào phương pháp
giảng dạy. Sự đầu tư, thảo luận thường xuyên đã tạo điều kiện cho việc dạy và học
có hiệu quả tốt nhất. Cùng với sự hỗ trợ, giúp đỡ của tổ bộ môn thì Ban giám hiệu
nhà trường cũng đã tạo điều kiện rất nhiều. Chính nhờ sự chỉ đạo sát sao, kịp thời
của Ban giám hiệu về các mặt đã giúp cho giáo viên và học sinh có điều kiện tốt
nhất để đổi mới phương pháp dạy học trong đó có bộ môn Giáo dục công dân.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, trong quá trình giáo dục pháp luật cũng còn
gặp một số khó khăn nhất định. Để vận dụng có hiệu quả các phương pháp vào
quá trình giáo dục pháp luật trong giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân lớp 12
yêu cầu người dạy và người học phải sưu tầm được nguồn tài liệu. Nội dung
chương trình rất rộng nên việc sưu tầm tài liệu cần phải chọn lọc. Việc chọn lọc
các kiến thức pháp luật cũng rất mất thời gian đối với cả giáo viên và học sinh.
Nếu sưu tầm không có chọn lọc thì tài liệu đôi khi không sử dụng được do không
đúng trọng tâm bài học hoặc quá dài. Song, nội dung rất rộng của môn học cũng
ảnh hưởng đến việc dành thời gian để thu thập tài liệu và cập nhật thông tin hàng
ngày. Giáo viên phải đầu tư thời gian để cập nhật các câu chuyện pháp luật mới

nhất, có tính thời sự và liên quan đến nội dung bài học. Do đó việc đầu tư thời
gian không thường xuyên hoặc không sắp xếp được thời gian là một khó khăn của
việc sử dụng phương pháp này. Mặt khác, do môn Giáo dục công dân không phải
là môn thi tốt nghiệp hay đại học nên tâm lí học sinh ít quan tâm sâu sắc như
những môn học khác. Chính vì học sinh có thái độ thờ ơ với môn học nên giáo
5
viên gặp trở ngại rất lớn trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Để gây
hứng thú và kích thích cho các em học tập tích cực bằng phương pháp này thì đòi
hỏi giáo viên phải nỗ lực hết mình trong giờ dạy, đây cũng là khó khăn chung cho
bộ môn. Những câu chuyện pháp luật, những nội dung pháp luật, điều luật cũng
cần phải được cập nhật thường xuyên chính là phương tiện dạy học. Để phương
tiện dạy học này góp phần đắc lực cho việc đổi mới phương pháp thì đòi hỏi phải
có nguồn cung cấp. Ở đây nguồn cung cấp tiện lợi nhất là tài liệu tham khảo trong
nhà trường. Nhưng thực tế nguồn tài liệu này ở trường còn thiếu thốn và đây cũng
là một khó khăn cho việc giảng dạy môn Giáo dục công dân. Đã vậy, thời lượng
dành cho môn học quá khiêm tốn (1tiết/tuần). Trong khi những kiến thức khoa
học, những thuật ngữ, những khái niệm, quan điểm rất cần nhiều thời gian để đưa
vào bộ óc gần như "trống rỗng" của các em.
Tìm ra phương pháp dạy dễ hiểu, gây hứng thú cho học sinh là nhiệm vụ đặt
ra đối với những giáo viên dạy môn Giáo dục công dân .
1.3. Lí do chọn sáng kiến
Giáo dục Pháp luật cho công dân nói chung và cho học sinh Trung học phổ
thông nói riêng là một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia vì được coi là một
phương thức để xây dựng, phát triển nền văn hoá pháp lí, đảm bảo sự ổn định và
bền vững của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, ngày nay trên thế giới, chúng ta dễ dàng
nhận thấy rằng, một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát
triển . Nghiên cứu nền giáo dục của một số nước như: Anh, Mĩ, Hung-ga-ri, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Sin-ga-po tôi thấy rằng nền giáo dục được họ đặc
biệt quan tâm. Có thể nói rằng sự quan tâm đó là khá toàn diện: Giáo viên, hệ
thống nhà trường, phương tiện giảng dạy Nội dung chương trình thường xuyên

được cập nhật, bổ sung, đổi mới theo tiến độ phát triển của xã hội. Phương pháp
nghiên cứu, giảng dạy cũng thường xuyên được đổi mới ngay từ các tiết học ở các
cấp học theo đặc thù riêng của từng bộ môn và nội dung chương trình. Tính tích
6
cực, chủ động của người học không ngừng được phát huy. Nhờ có sự đổi mới và
tiến bộ nêu trên mà học sinh các quốc gia đó có mặt bằng kiến thức rất cao, sát với
thực tiễn, họ tự tin, làm chủ và phát huy tốt chính chất xám của họ, nhờ vậy mà
đất nước của họ rất phát triển.
Ở nước ta, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thì vấn
đề trật tự pháp luật trong xã hội càng trở nên bức xúc. Theo thống kê tội phạm học
vừa qua cho thấy cả nước có khoảng 2.617 học sinh, sinh viên nghiện ma tuý. Địa
bàn Hà Nội có tới khoảng 30% trẻ em nghiện ngập, theo bạn bè hút thuốc lá, uống
bia rược từ khi mới lên 10- 11 tuổi. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo
phát hiện được 1002 trường hợp sử dụng ma tuý trong đó có 695 học sinh phổ
thông và 307 sinh viên. 70-80% số học sinh phạm pháp là những học sinh chậm
tiến, học lực kém, do lười học hoặc do hoàn cảnh gia đình.
Nguyên nhân của những con số trên là do ý thức của các em về pháp luật rất
thấp. Có nhiều giải pháp đưa ra để làm giảm các tệ nạn xã hội nhưng những giải
pháp đó chỉ được coi là giải pháp tình thế. Do đó cần phải hình thành cho mọi
người có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh "pháp luật" đặc biệt là đối tượng học
sinh, ngay từ khi các em chưa phải là người tham gia pháp luật thường xuyên. Vì
thế, xây dựng chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường là giải pháp mang
tính lâu dài.
Đối với môn Giáo dục công dân trong nhà trường THPT, đây là môn học
trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản, phù hợp với lứa tuổi học
sinh về thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ, về các giá trị đạo đức,
pháp luật, lối sống. Đặc biệt, đây còn là môn học giáo dục cho các em những kiến
thức cơ bản về pháp luật, để các em hình thành ý thức pháp luật và hành vi pháp
luật, luôn sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn sáng kiến " Tạo hứng thú cho học

sinh trong giờ học các bài học Pháp luật chương trình GDCD 12" nhằm đề xuất
một số biện pháp để giáo dục Pháp luật cho các em một cách hiệu quả nhất.
7
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH ĐỂ GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CÓ HIỆU QUẢ .
2.1. Sử dụng các tình huống pháp luật.
Đối với phương pháp sử dụng tình huống, các tình huống được sử dụng một
cách sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm tôi phát huy tính
tự giác, chủ động, sáng tạo từ phía học trò bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài
trước khi đến lớp.Chẳng hạn, trước khi dạy bài 6 - Công dân với các quyền tự do
cơ bản - tôi chia lớp thành 5 nhóm nhỏ với các yêu cầu ứng với mỗi đơn vị kiến
thức của bài học.
Nhóm 1: Tìm ví dụ về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 2: Tìm ví dụ về hành vi vi phạm quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe,danh dự và nhân phẩm của công dân. Giải thích vì sao em cho là
vi phạm?
Nhóm 3: Tìm ví dụ về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của
công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 4: Tìm ví dụ về hành vi vi phạm quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư
tín, điện thoại, điện tín của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 5: Tìm ví dụ về hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân. Giải
thích vì sao em cho là vi phạm ?
Như vậy với yêu cầu trên học sinh sẽ phải dành thời gian chuẩn bị trước ở
nhà. Tư liệu tham khảo có thể là sách báo, internet, thậm chí cũng có thể lấy ví dụ
là những tình huống mà các em đã bắt gặp trong cuộc sống. Học sinh sẽ chủ động
làm việc theo nhóm. Kết quả chuẩn bị bài của mỗi nhóm sẽ được giáo viên phân
tích, đánh giá và cộng vào điểm miệng nhằm động viên khích lệ tinh thần học tập
của các em. Khi giảng tới mỗi phần kiến thức đó, học sinh đại diện cho nhóm
mình trình bày trước lớp kết quả chuẩn bị bài của nhóm mình. Sau đó giáo viên sẽ

phân tích, giảng giải và yêu cầu học sinh rút ra nội dung chính của bài học.
8
Với phương pháp này tôi đã dạy thử nghiệm ở ba lớp đó là lớp 12D,12E và
lớp 12I, kết quả thu được rất khả quan. Nhìn chung cả ba lớp đều chuẩn bị bài rất
tốt. Đặc biệt ở lớp 12 E những tình huống các em đưa ra không phải do hư cấu mà
đây là những tình huống hoàn toàn có thật, được các em chọn lọc từ các báo đăng.
Tên của các nhân vật trong tình huống được các em thay bằng tên của các bạn
trong nhóm. Điều này chứng tỏ các em đã chuẩn bị bài rất nghiêm túc, tinh thần
tích cực trong học tập. Hơn nữa, thể hiện sự lém lỉnh, vui nhộn phù hợp với tính
cách của học trò, tạo sự tò mò, sự chú ý, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
cả lớp.
Tôi chỉ xin đơn cử một vài tình huống:
Nhóm 2 đã đưa ra được tình huống sau:
Uyên và Dũng cưới nhau đã 2 năm. Nhưng Dũng vốn là người hay nhậu
nhẹt. Nay tuy đã có con nhưng Dũng hầu như không làm gì để phụ vợ nuôi con
mà vẫn thói nào tật ấy, say xỉn tối ngày. Đã thế, rượu vào là Dũng chửi vợ, chửi
rất thậm tệ, có khi Dũng còn đánh đập vợ và đuổi vợ ra khỏi nhà. Nhiều lần Dũng
còn đe dọa giết vợ - “mụ vợ đáng ghét không đưa tiền cho ông đi giải khuây”.
Như vậy, Dũng đã xúc phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của vợ mình.
Đây là những hành vi trái với quy định của pháp luật về quyền được pháp
luật bảo hộ và tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Điều 71
Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ và quy định thành nguyên tắc trong Bộ luật hình sự
nước ta.Quyền này có nghĩa là: Công dân có quyền được pháp luật bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm mà không ai được xâm phạm
tới.
- Không ai được đánh người, đặc biệt nghiêm cấm những hành vi hung hãn,
côn đồ, đánh người gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác…
9
- Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác như

giết người, đe dọa giết người, làm chết người.
- Không ai,dù ở bất cứ cương vị nào có quyền xâm phạm tới danh dự và
nhân phẩm của người khác.Trong xã hội ta, danh dự và nhân phẩm của cá nhân
được tôn trọng và bảo vệ.
Mọi hành vi xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng, danh dự, và nhân phẩm của
công dân đều vừa trái với đạo đức xã hội,vừa vi phạm pháp luật, phải bị xử lí theo
pháp luật.
Nhóm 4 đưa ra tình huống mang tính thời sự hơn, bằng cách sưu tầm trên
báo lao động số 199 ngày 5 tháng 9 năm 2007 về: sự việc Ông Giám đốc công ty
cổ phần S. Group đã vi phạm bí mật thư tín và xâm phạm đời tư của nhân viên.
Sau khi chị H xin nghỉ phép thì ông đã truy cập trái phép vào email của chị và tự
ý gửi thư cho các địa chỉ mà chị đã lưu trong email.
Như vậy ở tình huống trên, Giám đốc Công ty S.Group là người lãnh đạo,
quản lí công ty mà chị H đang làm. Ông không có thẩm quyền được kiểm soát thư
tín của nhân viên. Ngược lại, ông đã tự ý truy cập vào email của chị H mà không
được sự đồng ý của chị H. Điều này cũng có nghĩa là giám đốc công ty này đã
xâm phạm đến bí mật riêng tư của nhân viên. Hành vi này của giám đốc công ty
đã vi phạm quyền được bảo đảm an toàn, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
công dân. Hành vi đó trái với quy định của pháp luật.Thư tín, điện thoại, điện tín
của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.Việc kiểm soát thư tín, điện thoại,
điện tín của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và
phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là điều kiện cần
thiết để bảo đảm đời sống riêng tư của cá nhân trong xã hội.
Vậy, qua việc tự tạo ra các tình huống ta thấy rõ sự hứng thú của học sinh
trong việc vận dụng kiến thức vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn. Đây là một
phương pháp rất hiệu quả trong quá trình giảng dạy. Qua đó, học sinh không
10
những tìm ra được mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn mà còn tăng thêm tính chủ
động, sự tìm tòi, khám phá nhằm lĩnh hội tri thức một cách tốt nhất.
Cũng có những bài học tôi lại chuẩn bị tình huống cho sẵn để các em phân

tích tình huống đó và có những nhận xét cá nhân, chẳng hạn:
Đối với bài 2-Thực hiện pháp luật: Tôi đã vận dụng tình huống pháp luật
vào mục 2 -Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí.
Nội dung tình huống pháp luật:
Chu Văn Đức (sinh năm 1963) và Trịnh Thị Hạnh Phương (Sinh năm 1962)
trú tại 241/108 Nguyễn Trãi, phường Tân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội làm nghề bán phở. Theo cáo trạng của Viện kiểm soát, từ năm 1993 vợ chồng
Đức - Phương nuôi một em nhỏ giúp việc tên là Nguyễn Thị Thông (tức Bình -
sinh năm 1983). Trong quá trình giúp việc tại gia đình này, em Bình không chỉ bị
vắt kiệt sức lao động mà còn bị vợ chồng Đức - Phương đánh đập, chửi bới và
hành hạ rất dã man. Hành vi xâm phạm đến thân thể em Bình của vợ chồng Đức -
Phương thể hiện ở việc: Dùng muôi múc phở hắt nước nóng vào người, dùng
thanh tre, thanh gỗ đánh vào người, vào vùng kín, dùng dao nhọn đâm vào ống
đồng chân trái gây thương tích, dùng kìm kẹp thịt hai bên mạng sườn Do không
chịu được việc hành hạ, ngày 20/10/2007 em Bình đã bỏ trốn và tố cáo hành vi
của vợ chồng Đức - Phương với công an. Trong khoảng 10 năm giúp việc cho vợ
chồng Đức - Phương, em Bình chỉ được nuôi ăn, không được đi học và trả lương.
Việc em Bình bị đánh đập hành hạ đã để lại trên khắp cơ thể em 424 vết
sẹo, gây tổn hại sức khoẻ 34%.
Sáng 21/1/2008, Toà án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội đã
mở phiên toà sơ thẩm, xét xử vợ chồng Đức - Phương về tội: “Hành hạ người
khác” và “Gây tổn hại sức khoẻ cho người khác” theo khoản 1 Điều 110 và
khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự. Cụ thể Chu Văn Đức 36 tháng tù cho hưởng án
treo, Trịnh Thị Hạnh Phương 45 tháng tù giam, buộc 2 bị cáo bồi thường thiệt
hại, về vật chất cho nạn nhân theo quy định của pháp luật.
11
* Cách tiến hành: Giáo viên phôtô và phát tình huống pháp luật cho cả lớp
làm tài liệu tham khảo. Học sinh cùng suy nghĩ các câu hỏi giáo viên đưa ra:
1. Phân tích hành vi trái pháp luật của vợ chồng Đức - Phương?
2. Hành động của vợ chồng Đức - Phương có vi phạm pháp luật không?

Hành động đó dẫn đến hậu quả gì? Hành động cố ý hay vô ý?
3. Vợ chồng Đức - Phương chịu trách nhiệm pháp luật như thế nào?
Học sinh: Trả lời lần lượt từng nội dung câu hỏi.
Giáo viên: Tổng hợp, nhận xét và bổ sung những nội dung còn thiếu.
Học sinh: - Rút ra những dấu hiệu của vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
(khái niệm và ý nghĩa).
Hay trong bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Giáo viên đưa câu chuyện pháp luật "Mẹ ăn thịt con" đăng trên báo Tuổi trẻ
(Thứ 5 ngày 25/9/2008) vào giảng dạy ở mục 1b: Nội dung bình đẳng trong hôn
nhân và gia đình (Bình đẳng giữa cha mẹ và con cái)
Học sinh: Đọc câu chuyện pháp luật và thảo luận theo nhóm với nội dung:
1. Phân tích những hành vi ngược đãi, hành hạ dã man bé Nguyễn Thị Hảo
của bà Nguyễn Thị Mỳ?
2. Em có nhận xét gì về hành vi của bà Mỳ và ý kiến của em như thế nào?
Học sinh thảo luận theo nhóm và trình bày ý kiến.
Giáo viên: Tổng hợp ý kiến và bổ sung
Kết luận: Hành vi của bà Mỳ là vi phạm pháp luật (vi phạm quyền bình đẳng giữa
cha mẹ và con cái).
Học sinh: Bày tỏ được thái độ lên án, tố cáo hành vi dã man, ngược đãi con cái
của bày Mỳ nói riêng và những gia đình khác mà các em biết trong cuộc sống.
Việc đưa các tình huống vào dạy học là rất cần thiết và phù hợp mang lại
hiệu quả cao. Học sinh học theo cách lồng ghép các tình huống pháp luật vào
12
từng mục, từng bài sẽ cảm thấy hứng thú và tăng tính liên hệ thực tiễn. Hầu
hết học sinh ở các lớp đã cảm thấy hứng thú và thích học bộ môn vì nó giảm đi
tính khô khan. Những tình huống pháp luật có thật đã tạo cơ hội cho các em
nắm bắt thực tế vào nội dung bài học dễ dàng hơn rất nhiều. Đa số học sinh
chịu khó tìm tòi tình huống pháp luật làm tư liệu, phân loại theo nội dung bài
học và nắm kiến thức vững vàng hơn. Các em có cơ hội trao đổi với nhau về

nội dung các tình huống pháp luật do giáo viên cung cấp hoặc mình tự tìm
được. Thông qua việc trao đổi, thảo luận nhóm, các em đã đưa ra những thắc
mắc, câu hỏi với giáo viên hoặc bạn bè mình. Các em đã mở rộng tầm nhận
thức là tự học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ những tình huống thực tế đó.
Như vậy tình huống pháp luật đã phát huy tác dụng, góp phần giáo dục ý thức
pháp luật cho các em.
2.2. Sử dụng hệ thống câu hỏi mở.
2.2.1. Sử dụng hệ thống câu hỏi giữa giáo viên với học sinh.
Chẳng hạn, khi học đến bài 8 - Pháp luật với sự phát triển của công dân,
giáo viên đặt câu hỏi:
? Hiện nay, Nhà nước ta có những chính sách hỗ trợ nào đối với những học
sinh gặp nhiều khó khăn trong học tập như: học sinh nghèo, học sinh là con
thương binh, bệnh binh, học sinh là người khuyết tật, học sinh là người dân tộc
thiểu số, học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn?
Học sinh trả lời:
Học tập là quyền cơ bản của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về cơ
hội học tập. Đất nước ta còn nghèo, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, vì vậy,
còn rất nhiều học sinh gặp nhiều trở ngại trong học tập. Nhằm bảo đảm cho mọi
công dân đều được tiếp cận với những cơ hội học tập như nhau.
13
Điều 59, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em
khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học
nghề phù hợp."
Cụ thể hóa quy định trên, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, biện
pháp hỗ trợ những học sinh nghèo gặp khó khăn, nhằm bảo đảm cho mọi học sinh
đều được học tập. Đó là :
- Chính sách cấp học bổng cho học sinh nghèo vượt khó, học sinh là người tàn
tật, học sinh là người dân tộc thiểu số.
- Chính sách trợ cấp và miễn giảm học phí cho người học là đối tượng được
hưởng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã

hội đặc biệt khó khăn, người mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật, khuyết tật
có khó khăn về kinh tế, người có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn vượt khó
trong học tập.
- Chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong xã hội cấp học bổng và
trợ cấp cho người học.
- Nhà nước thành lập trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân
tộc bán trú, trường dự bị đại học cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các
dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị
đại học được ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách.
- Chính sách cử tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp đối với học sinh các
dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, điều kiện và thời hạn vay tiền để
người học thuộc gia đình có thu nhập thấp có điều kiện học tập.
- Chính sách ưu tiên trong tuyển sinh đại học, cao đẳng đối với học sinh ở
miền núi, vùng cao, vùng sâu, hải đảo, trong đó có các xã thuộc vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội, con thương binh, con bệnh binh.
14
- Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành
riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn
ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc
gia.
Các chính sách hỗ trợ đã phát huy hiệu quả trên thực tế, giảm bớt khó khăn
cho nhiều gia đình học sinh, tạo điều kiện để các em được hưởng sự bình đẳng về
cơ hội học tập, động viên khích lệ học sinh tiếp tục cố gắng học tập.
? Hiện nay, Nhà nước ta có những chính sách gì để khuyến khích, bồi
dưỡng những học sinh tài năng, có thành tích cao trong học tập?
Trả lời:
"Hiền tài là nguyên khí quốc gia.” Nhà nước ta luôn luôn có chính sách ưu
đãi, khuyến khích bồi dưỡng nhân tài. Điều 59, Hiến pháp 1992 quy định rằng:

“Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát
triển tài năng”.Hiện nay, Nhà nước ta có rất nhiều chính sách để khuyến khích bồi
dưỡng các học sinh tài năng, có thành tích cao trong học tập:
- Nhà nước thành lập các trường chuyên, trường năng khiếu, ưu tiên bố trí giáo
viên, cơ sở vật chất, thiết bị, ngân sách cho các trường năng khiếu; khuyến khích
các tổ chức cá nhân thành lập các trường chuyên, năng khiếu, có chính sách ưu đãi
đối với trường chuyên, năng khiếu do các tổ chức, cá nhân thành lập;
- Nhà nước có chính sách cấp học bổng khuyến khích học tập cho học sinh đạt
kết quả học tập xuất sắc ở trường chuyên, trường năng khiếu; người học có kết
quả học tập, rèn luyện từ loại khá trở lên ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học. Ngoài ra, nhà nước khuyến khích các tổ chức cá nhân trong xã hội
cấp học bổng cho người học có thành tích tốt.
- Nhà nước quy định chế độ ưu tiên xét tuyển vào đại học, cao đẳng đối với
học sinh có năng khiếu, có thành tích học tập xuất sắc
15
- Nhà nước tạo mọi điều kiện để người có tài được phát triển, cống hiến tài
năng cho Tổ quốc.
Hoặc khi học đến bài 9 - Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước,
tôi lại đặt câu hỏi:
? Em hãy cho biết, hiện nay Nhà nước ta có những chính sách gì để bảo
đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của nhân dân?
Học sinh trả lời:
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền quan trọng trong nhóm quyền
được phát triển của công dân. Trong nhiều năm qua, Nhà nước ta luôn quan tâm
đến bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
Điều 39, Hiến pháp 1992 quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với
quyền được bảo vệ sức khỏe của nhân dân như sau:
“Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức
khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát
triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa

bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp
phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện
để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ.
Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào
miền núi và dân tộc thiểu số.
Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc chữa
bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân.”
Nhằm cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về quyền được hưởng các chế độ
chăm sóc y tế, quyền được khám bệnh, chữa bệnh của công dân đồng thời quy
định trách nhiệm của các cơ sở y tế trong việc khám, chữa bệnh cho công dân.
Ngoài ra, Nhà nước còn thực hiện các chính sách sau:
16
- Ưu tiên bố trí ngân sách nhằm đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh cơ
bản của nhân dân. Quan tâm dành ngân sách cho việc chăm sóc sức khỏe đối với
người có công với cách mạng, trẻ em, người nghèo, nông dân, đồng bào dân tộc
thiểu số, nhân dân ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Tăng cường phát triển nguồn nhân lực y tế, đặc biệt là nguồn nhân lực y tế
ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn.
- Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh; khuyến khích
tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.
- Khuyến khích việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong khám
bệnh, chữa bệnh.
- Nhà nước có chính sách ưu tiên về chăm sóc sức khỏe đối với một số đối
tượng đặc thù như: miễn phí khám, chữa bệnh đối với trẻ em dưới 6 tuổi tại các cơ
sở y tế công lập, các ưu đãi chăm sóc sức khỏe đối với người cao tuổi, người
khuyết tật; người có công với cách mạng…


? Tại sao pháp luật lại quan tâm đến việc kiềm chế gia tăng dân số? Việc
quy định mô hình gia đình ít con nhằm mục đích gì?
Trả lời:
Hiện nay, vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới đã trở thành vấn đề toàn cầu
và là sự quan tâm của nhiều quốc gia, nhất là ở những nước nghèo, đang phát
triển. Ở nước ta có tốc độ tăng dân số nhanh và quy mô dân số lớn. Dân số tăng
nhanh là một áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm. Trước đây, do chính
sách dân số nước ta tập trung chủ yếu vào việc giảm tỉ lệ tăng dân số nên chưa thể
tập trung vào việc nâng cao chất lượng dân số. Hiện nay, nước ta cần có nguồn
nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước nên phải tập trung giải quyết một cách đồng bộ vấn đề dân số.
17
Dân số tăng nhanh sẽ ảnh hưởng đến vấn đề xã hội, là một trong các nguyên
nhân dẫn đến nạn đói nghèo, bệnh tật, tệ nạn xã hội. Nội dung cơ bản của pháp
luật về dân số ở nước ta là nhằm mục đích giảm tỉ lệ tăng dân số, xây dựng quy
mô gia đình ít con, no ấm, tiến bộ, bền vững. Gia đình là tế bào của xã hội, gia
đình được xây dựng bền vững là tiền đề xây dựng đất nước bền vững.
Việc quy định về nghĩa vụ của công dân xây dựng quy mô gia đình ít con
chính là nhằm mục đích tạo điều kiện cho cha mẹ được chăm sóc, giáo dục con
chu đáo, để con được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
Quy mô gia đình ít con sẽ là cơ sở, là điều kiện để khắc phục và hạn chế tới
mức tối đa các vấn đề xã hội này, là một trong các yêu cầu, điều kiện góp phần
phát triển bền vững đất nước.
Để học sinh trả lời được các câu hỏi trên, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà
chuẩn bị tài liệu trước cho bài mới, như vậy cũng kích thích được sự tò mò, tính tự
giác, chủ động của học sinh.
18
2.2.2. Sử dụng hệ thống câu hỏi giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với
học sinh.
Để có những câu hỏi hay, đòi hỏi học sinh phải tư duy, nghiên cứu kỹ kiến

thức bài học, vận dụng vào các tình huống trong thực tiễn sau đó đưa ra câu hỏi
đối với giáo viên hoặc đối với các bạn trong lớp.
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi đã tập hợp được một số câu hỏi mà học sinh đã
đưa ra.
Ví dụ: Trong quá trình dạy bài 8- Pháp luật với sự phát triển của công dân,
học sinh đã hỏi:
? A là một thanh niên nông thôn 18 tuổi. Sau khi tốt nghiệp THPT, do
không có điều kiện thi đại học, A quyết định ở lại và làm giàu trên chính mảnh đất
quê hương mình. Được biết Ủy ban nhân dân xã có chính sách cho vay vốn để
làm giàu, A đã rất phấn khởi. Xin hỏi các chính sách giải quyết việc làm của Nhà
nước có ý nghĩa như thế nào?
Trả lời:
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng cơ bản của
mỗi quốc gia, có tác động không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn đối với
đời sống xã hội của quốc gia đó. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ có ý nghĩa to lớn đối
với mỗi công dân và toàn xã hội. Tăng trưởng kinh tế chỉ ổn định khi xã hội, cuộc
sống và việc làm của mỗi người dân nói chung ổn định. Giải quyết việc làm tốt sẽ
góp phần ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững. Vì vậy, xác định đúng
đắn chủ trương, đường lối với các chính sách, biện pháp giải quyết việc làm có
hiệu quả là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động. Điều đó thể hiện ở sự thay đổi về nhận thức, quan niệm và tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, phát triển thị trường sức lao
động, mở rộng quyền làm việc, quyền tự do lao động trong xã hội. Người lao động
được đặt vào vị trí trung tâm, được chủ động, tự do tìm kiếm, tạo việc làm cho
19
mình và cho người khác trong tất cả các thành phần kinh tế. Đi đôi với chính sách
giải quyết việc làm trong nước, Đảng và Nhà nước ta còn chủ trương xuất khẩu
lao động và coi đây là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại phù hợp với
xu thế toàn cầu hóa và hội nhập về kinh tế nhằm giải quyết yêu cầu trước mắt và

lâu dài, tăng thu nhập cho người dân, làm giàu cho đất nước.
Hoặc khi dạy đến bài 9 - Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước,
tôi để cho các tổ, nhóm tự hỏi nhau và giải đáp cho nhau về kiến thức bài học,
giáo viên chỉ định hướng và cung cấp thêm một số thông tin về các điều, khoản,
mục trong các bộ Luật, các em đã đặt ra câu hỏi là:
? Tại sao phải bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia? Nhiệm vụ của
quốc phòng và an ninh gồm những nội dung gì?
Các nhóm trả lời:
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc
ta. Kế thừa truyền thống của cha ông, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
xuất phát từ tình hình hiện nay, Đảng ta xác định hai nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy lẫn nhau; trong đó
nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta.
Hiện nay, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là
chỉ rõ những nguy cơ và thách thức đối với sự phát triển của đất nước, Đảng và
Nhà nước ta khẳng định sự cần thiết phải tăng cường quốc phòng, giữ vững an
ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là
lực lượng nòng cốt. Đây là nhiệm vụ rất to lớn và nặng nề của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc không chỉ đặt ra khi có chiến
tranh hay bạo loạn mà là nhiệm vụ thường xuyên.
20
Quốc phòng và an ninh gắn bó với nhau trong việc bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm
vụ của quốc phòng và an ninh rất rộng lớn, bao gồm các nội dung sau:
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn
diện;
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc;

- Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
- Bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa – tư tưởng;
- Duy trì trật tự kỉ cương, an toàn xã hội;
- Giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
- Bảo đảm an ninh chính trị nội bộ.
? Mặc dù cùng 19 tuổi và có tên trong danh sách khám tuyển nghĩa vụ quân
sự của địa phương, trong khi Quân hăng hái tham gia khám tuyển vì nghĩ rằng đi
nghĩa vụ quân sự là thể hiện yêu nước, thì Thịnh lại cho rằng việc khám tuyển
nghĩa vụ quân sự là tự nguyện, không bắt buộc nên không chịu đi khám. Hơn thế
nữa, mặc dù đã được nhắc nhở nhiều lần và đã bị xử lí hành chính, Thịnh vẫn lẫn
lữa không đi và bỏ trốn đi nơi khác. Xin hỏi, việc đi nghĩa vụ quân sự có phải bắt
buộc hay không? Việc làm của Thịnh có vi phạm pháp luật hay không?
Trả lời:
Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường, bảo
đảm quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là yếu tố không thể thiếu trong phát
triển bền vững đất nước.
Điều 77 - Hiến pháp năm 1992 quy định: ”Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ
thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Mọi công dân phải làm nghĩa vụ
quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân”.
21
Để mọi công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh
quốc gia, Nhà nước ban hành chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện giáo dục quốc
phòng trong các cơ quan, tổ chức và đối với mọi công dân; tuyên truyền, giáo dục
bảo vệ an ninh quốc gia.
Khoản 2 Điều 6 Luật quốc phòng quy định “Công dân phải trung thành với
Tổ quốc, làm nghĩa vụ quân sự, được giáo dục về quốc phòng và huấn luyện quân
sự…, chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp của Nhà nước và người có thẩm
quyền khi đất nước có tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc
phòng…”.

Việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là bắt buộc đối với mọi công dân. Theo
quy định tại Điều 12 Luật Nghĩa vụ quân sự, Thịnh và Quân đã 19 tuổi đủ tuổi gọi
nhập ngũ. Do vậy, việc Thịnh không chịu khám nghĩa vụ quân sự, trốn tránh việc
việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân đã vi phạm các quy định về
đăng ký nghĩa vụ quân sự, tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ theo quy định của
Luật Nghĩa vụ quân sự. Hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự của Thịnh đã bị nhắc
nhở nhiều lần, đã bị xử lí hành chính mà còn tái phạm, có thể coi là phạm tội theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.
Đối với mục 2c của Bài 9- Nội dung cơ bản của pháp luật về phát triển các
lĩnh vực xã hội, các em lại đặt ra vấn đề sau:
? Nhà chị Mến chỉ làm ruộng, thi thoảng chồng chị đi phụ xây thêm. Tháng
nào cả gia đình chắt chiu dành dụm thì cũng tiết kiệm được một vài trăm nghìn
đồng, song nhà có công, có việc thì lại hết, thiếu thốn quanh năm. Vì vậy, lấy
nhau đã được gần 2 năm, chị Mến vẫn chưa có ý định sinh con. Chị sợ ăn không
đủ, lấy đâu tiền mà khám thai, sinh con, nuôi con rồi chẳng may đau ốm, lấy tiền
đâu mà khám chữa bệnh. Đầu năm, chị nghe qua báo đài nói về thẻ bảo hiểm y tế
có thể hỗ trợ cho người bệnh rất nhiều. Điều đó có đúng không? Phạm vi được
hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế?
Trả lời:
22
Điều chị Mến nghe được là đúng, hiện Nhà nước có chính sách hỗ trợ người
dân trong việc khám chữa bệnh bằng việc vận động người dân tham gia bảo hiểm
y tế.
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận. Nhà nước ban hành Luật Bảo hiểm y tế,
hướng tới mục tiêu bảo hiểm toàn dân. Các đối tượng quy định trong Luật Bảo
hiểm y tế đều phải tham gia bảo hiểm y tế.
Điều 21- Luật Bảo hiểm y tế quy định về phạm vi được hưởng của người
tham gia bảo hiểm y tế:
1. Người tham gia bảo hiểm y tế được quỹ bảo hiểm y tế chi trả các chi phí sau

đây:
- Khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ, sinh con;
- Khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh;
- Vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên đối với đối tượng
theo quy định của Luật trong trường hợp cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú
phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật.
Điều 22 - Luật Bảo hiểm y tế quy định về mức hưởng bảo hiểm y tế. Cụ thể,
người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh theo quy định thì được
quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí trong phạm vi được hưởng như sau:
1. Đối với dịch vụ y tế thông thường Quỹ bảo hiểm y tế chi trả:
- 100% chi phí khám chữa bệnh đối với người có công với cách mạng và trẻ
em dưới 6 tuổi;
- 95% chi phí khám chữa bệnh đối với các đối tượng: người hưởng lương
hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng; người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ
xã hội hàng tháng; người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang
sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Phần còn lại do người
bệnh tự thanh toán.
23
- 80% chi phí đối với các đối tượng khác. Phần còn lại do người bệnh tự
thanh toàn với cơ sở khám chữa bệnh.
Các đối tượng quy định nêu trên, được chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh trong
trường hợp:
- Tổng chi phí của một lần khám chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương tối
thiểu (hiện nay là 97.500 đồng).
- Đăng ký và khám chữa bệnh đúng nơi đăng ký ban đầu tại trạm y tế xã.
2. Đối với dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn:
Trường hợp có sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao chi phí lớn quỹ bảo hiểm y tế
thanh toán theo 3 mức quy định (100%, 95%, 80%), nhưng không vượt quá 40
tháng lương tối thiểu cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật đó, người bệnh đồng
chi trả chi phí ngoài phần quỹ bảo hiểm y tế chi trả.

Riêng các đối tượng là: Trẻ em dưới 6 tuổi; Người hoạt động cách mạng
trước ngày 01/01/1945; Người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19/8/1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Thương binh, người
hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B, bệnh binh: những đối
tượng này bị mất sức lao động từ 81% trở lên; Thương binh, người hưởng chính
sách như thương binh, thương binh loại B, bệnh binh: khi những đối tượng này
điều trị vết thương, bệnh tật tái phát được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% theo
quy định.
Hoặc khi học bài 7 - Mục 3: Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, học sinh lại
có câu hỏi :
?Sau khi đã gửi đơn tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền, ông Cảnh liên tục
nhận được những tin nhắn đe dọa trả thù, khủng bố tinh thần vì dám tố cáo. Ông
rất lo lắng. Ông muốn biết pháp luật có quy định về việc bảo vệ người tố cáo
không?
Trả lời:
24
Luật Tố cáo năm 2011 quy định rõ cơ chế bảo vệ người tố cáo khi họ bị đe
dọa, trả thù, trù dập hoặc bị phân biệt đối xử, theo đó, việc bảo vệ người tố cáo
được thực hiện tại nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản của người
cần được bảo vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có thẩm quyền quy định. Đối
tượng bảo vệ gồm người tố cáo và người thân thích của người tố cáo. Thời hạn
bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền quyết định tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của
từng vụ việc, mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của đối tượng cần được bảo vệ. Luật Tố cáo năm 2011 quy định trách nhiệm
chính trong việc bảo vệ người tố cáo thuộc về người giải quyết tố cáo. Tuy nhiên,
người tố cáo được bảo vệ cũng phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ như sau:
- Quyền:
+ Yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng
biện pháp bảo vệ mình hoặc người thân thích của mình khi có căn cứ xác định việc
bị kỷ luật, buộc thôi việc, luân chuyển công tác hoặc bị các hình thức trù dập,

phân biệt đối xử khác, bị đe dọa xâm hại hoặc xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do việc tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật;
+ Được thông báo về biện pháp bảo vệ được áp dụng; đề nghị thay đổi biện
pháp bảo vệ nếu có căn cứ cho rằng biện pháp đó không bảo đảm an toàn; được từ
chối áp dụng biện pháp bảo vệ;
+ Yêu cầu gia hạn thời hạn bảo vệ; yêu cầu bảo vệ lại;
+ Được bồi thường theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước trong trường hợp người tố cáo yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để bảo vệ mình mà các cơ quan, tổ chức,
cá nhân đó không áp dụng hoặc áp dụng không kịp thời, không đúng quy định của
pháp luật, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản, tổn thất về tinh thần cho
người được bảo vệ.
- Nghĩa vụ:
25

×