Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI DẠY “HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA QUỐC GIA”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.83 KB, 21 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ BÀI DẠY “HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA QUỐC
GIA”
A . MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ yêu cầu, mục đích, nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy
học: “Lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ thể của học sinh”, “Dạy
học là dạy học sinh cách học”, “Quá trình học là quá trình kiến tạo, chiếm lĩnh
tri thức một cách chủ động sáng tạo”. Thực hiện được hướng đi đó cùng với yêu
cầu đổi mới về mọi mặt để nâng cao chất lượng giáo dục trong trường THPT,
vai trò định hướng của người thầy quyết định đến việc tiếp thu, nắm vững kiến
thức của từng học sinh. Vì vậy người thầy cần có phương pháp đúng đắn, phù
hợp với từng phân môn, từng bài dạy, từng đối tượng cụ thể để giúp học sinh đạt
kết quả tốt nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Hơn nữa, đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng trong cơ chế thị trường và
hội nhật quốc tế là vấn đề cần thiết. Do đó, vấn đề dạy học theo hướng hiện đại
đang đòi hỏi người dạy học phải tìm tòi sáng tạo để định hướng tri thức cho
người học, giúp người học đáp ứng nhu cầu xã hội. Vậy những biện pháp nâng
cao chất lượng, hiệu quả cho bài dạy là việc làm cần thiết, nhưng để có được
điều đó người giáo viên phải tìm hiểu đối tượng, lựa chọn các biện pháp phù
hợp với từng đối tượng học sinh. Muốn vậy người giáo viên phải có lòng nhiệt
tình, say mê nghề nghiệp và hơn nữa cần tìm hiểu lựa chọn những biện pháp để
áp dụng cho từng bài dạy của mình từ đó phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh như: tự học, tự bồi dưỡng rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú trong môn học, từ đó nâng cao chất
lượng giờ học. Bởi trong thực tế, do hệ lụy của xã hội phần lớn học sinh chưa
hứng thú với môn ngữ văn, đặc biệt là các văn bản đọc thêm. Mặt khác, tôi thiết
nghĩ mỗi bài dạy đều có vị trí, vai trò quan trọng của nó song những văn bản
nghị luận trung đại mới đưa vào chương trình lại khá khó đối với học sinh, thậm
chí giáo viên cũng không dễ tiếp cận, giải mã. Trong khi đó kinh nghiệm giảng


dạy tích lũy chưa nhiều, tư liệu tham khảo cũng hạn chế. Vấn đề đặt ra như một
thách thức với người giáo viên là tiến hành dạy kiểu bài này như thế nào? Tổ
chức các hoạt động dạy học ra sao để đúng với mục đích, tính chất một giờ “đọc
thêm”?
Trước thực trạng trên, qua quá trình giảng dạy tôi thiết nghĩ mình phải
tìm ra các biện pháp áp dụng cho từng bài dạy cụ thể là một việc làm cần thiết
để góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. Vì vậy, với kinh nghiệm giảng dạy
của mình tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến: Một số biện pháp nhằm nâng cao


hiệu quả bài dạy “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia”(Thân Nhân
Trung). Mục đích cuối cùng của việc dạy tốt bài này là tác động trực tiếp đến
việc rèn đức, luyện tài, nâng cao kĩ năng lập luận diễn đạt của học sinh, từ đó
hình thành ở các em ý thức về vai trò của hiền tài, của bản thân trong công cuộc
xây dựng đất nước. Mong rằng đề tài sẽ góp một phần nhỏ cho việc đổi mới
phương pháp dạy học đem lại hiệu quả thiết thực cho bản thân và đồng nghiệp.
Tuy nhiên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực
hiện, rất mong nhận được sự góp ý từ đồng nghiệp để đề tài tôi lựa chọn được
hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh và sự hứng thú trong tiết
học.
- Góp phần bồi dưỡng năng lực tư duy, năng lực diễn đạt và cách thức lập luận
trong bài văn nghị luận của học sinh.
- Giáo dục bồi dưỡng học sinh trau dồi đức và tài để sống tốt, sống đẹp, sống có
ý nghĩa.
- Cung cấp những tri thức cơ bản về văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc
gia”(Thân Nhân trung).
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng trực tiếp nghiên cứu của tôi là văn bản “Hiền tài là nguyên khí của

Quốc gia” (Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ
ba).
- Để thử nghiệm đề tài tôi chọn 2 lớp 10: lớp 10A3 và lớp 10A2 Trường THPT
Đặng Thai Mai, Năm học 2015-2016.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tổng kết lí luận, thực tiễn.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại.
B. NỘI DUNG


1. Cơ sở lý luận
Trong những năm gần đây cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo
khoa đã dấy lên phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong các trường phổ
thông. Hướng đi mới có nhiều hứa hẹn, vừa đảm bảo tính cơ bản, tinh giản và
hiện đại, sát thực tiễn Việt Nam, phù hợp với xu thế tiên tiến của thế giới; vừa
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tích cực của học sinh vừa đổi mới phương
pháp dạy học của giáo viên. Đặc biệt trong chương trình Ngữ văn lớp 10, phần
Văn học trung đại.
Văn học trung đại là khái niệm chỉ nền văn học viết từ thế kỷ X đến hết
thế kỷ XIX, với những phương thức nhận thức, phản ánh và đặc điểm nghệ
thuật đặc thù. Văn học Trung đại Việt Nam chia làm 4 giai đoạn và nổi bật nhất
là giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, được đánh dấu bằng cuộc chiến
thắng quân Minh xâm lược và xây dựng quốc gia Đại Việt thịnh trị. Ở giai đoạn
này, nghệ thuật chính luận tiếp tục phát triển, tạo nên những bài văn hùng biện
xuất sắc như “Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ
ba”. Đây là những tiết văn bia, hơn nữa những văn bản này đa số là khô khan,
khó tạo cảm xúc ở học sinh. Vậy làm thế nào để có một giờ dạy hay, học sinh
tích cực, chủ động và hứng thú trong tiết học, đặc biệt là học sinh hiểu và cảm

nhận được giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản? Đó là những băn khoăn,
trăn trở không chỉ riêng tôi mà ở mỗi một giáo viên dạy môn Ngữ văn.
Dạy văn là dạy cho học sinh nhận ra trong tác phẩm văn học nguồn tri
thức vô cùng phong phú, đa dạng, hấp dẫn và bổ ích để bồi dưỡng tâm hồn, trí
tuệ giúp HS sống có ý nghĩa hơn, tinh tế hơn, hoàn thiện bản thân.
Trong quá tình dạy văn cần xác định học sinh là trung tâm, là chủ thể cảm
thụ, sáng tạo. Giáo viên không được cảm nhận thay mà chỉ là người định hướng,
chỉ đường cho các em khám phá văn bản. Con đường đó bao giờ cũng bắt đầu
từ công việc tri giác ngôn ngữ, trải qua nhiều chặng đường, người giáo viên
đóng vai trò khơi nguồn, tạo cảm hứng để học sinh tích cực tự giác trong việc
cảm thụ, chiếm lĩnh tri thức và chủ động thưởng thức tác phẩm văn chương.
Như vậy, yêu cầu phát huy chủ thể học sinh gắn liền với tài năng sáng tạo của
người giáo viên. Hay nói đúng hơn đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính nghệ
thuật và tính sư phạm trong quá trình dạy văn.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1. Thuận lợi
- Về phía văn bản : “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân
Trung)


+ Đây là một trong 82 bài văn bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) Trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Nhiều học sinh đã đến thăm quan nơi
này và đã có được ấn tượng ban đầu về những bài văn bia.
+ Văn bản thuộc thể loại nghị luận - dạng văn bia - một dạng văn bản học
sinh thường gặp trong cuộc sống hàng ngày ở các nghĩa trang, chùa chiền, bảo
tàng, một số con đường có các tượng đài tưởng niệm … Do vậy, học sinh phần
nào đã hiểu được vai trò, tác dụng của việc dựng văn bia.
- Về phía học sinh: Học sinh đều được trang bị một phần kiến thức nhất
định về văn bản nhật dụng và đọc - hiểu một số văn bản nhật dụng viết bằng
phương thức lập luận ở THCS.
- Về phía giáo viên: Bản thân tôi luôn yêu thích, say mê, tâm huyết với

nghề. Trong mỗi bài giảng văn bản nhật dụng nói riêng và môn Ngữ văn nói
chung, tôi luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để có được những phương pháp dạy
học đem lại hiệu quả cao cho học sinh.
2.2. Khó khăn
- Về văn bản: văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân
Trung) là văn bản viết bằng chữ Hán, thuộc thời kỳ văn học trung đại, được xếp
vào phần đọc thêm trong chương trình Ngữ văn 10. Chính vì vậy, học sinh
thường mang tư tưởng học để biết, ít có sự tìm tòi nghiên cứu sâu sắc .
- Về phía nhà trường: chưa có phòng chức năng, quá trình dạy - học kết hợp
các phương tiện hiện đại còn gặp nhiều khó khăn: Trong một tiết dạy việc kết
hợp cả máy chiếu hắt và máy chiếu đa năng để phát huy tính tích cực ở học sinh
còn hạn chế.
2.3. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên
Năm học 2015 – 2016, tôi dạy lớp 10A3 (Sĩ số lớp 43 học sinh) Trường
THTP Đặng Thai Mai. Sau khi dạy văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc
gia” (Thân Nhân Trung), tôi tiến hành kiểm tra 15 phút. Kết quả cho thấy việc
vận dụng của học sinh từ bài học vào thực tiễn chưa cao, số lượng bài điểm
kém, yếu, điểm trung còn nhiều, điểm khá và giỏi còn khiêm tốn.
Kết quả cụ thể như sau :
Lớp

Hứng thú học tập

Kết quả bài kiểm tra


Sĩ số

Hứng
thú


Không hứng thú

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

10A3/43

35%

65%

3%

22%

55%

16%

4%

Từ thực trạng trên, để quá trình giảng dạy đạt hiệu quả hơn, tôi đã tìm tòi

nghiên cứu, mạnh dạn đổi mới phương pháp Dạy - học văn bản “Hiền tài là
nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung) theo đặc trưng thể loại để tạo
hứng thú trong quá trình học tập, khơi gợi tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở
học sinh.
3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả bài dạy “Hiền tài là nguyên khí của
Quốc gia” (Thân Nhân Trung)
Căn cứ vào thực trạng trên, để việc đọc - hiểu văn bản “Hiền tài là nguyên
khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung) đạt hiệu quả. Tôi xin nêu ra một số biện
pháp sau:
3.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà.
Xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ với sự bùng nổ của thông tin khoa học,
kĩ thuật và công nghệ, lượng kiến thức cần cập nhật ngày càng nhiều. Do vậy,
chúng ta cần phải dạy học sinh phương pháp học và chủ động lĩnh hội kiến
thức. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Khi học
sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen tự học thì sẽ tạo cho các em lòng
ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được
nâng lên.
Vấn đề phát triển ý thức tự học cho HS ở trường THPT là một quá trình liên
tục từ việc tự học bài đã học trên lớp, tự học cả bài mới trước khi đến lớp, tự
học cả trong tiết học có hướng dẫn của giáo viên .
Vì vậy đối với mỗi văn bản đọc thêm nói riêng, môn Ngữ văn nói chung,
giáo viên cần hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà. Cách soạn có thể theo trình tự
SGK kết hợp với mục đích dạy học của người thầy, chất lượng giờ dạy sẽ được
nâng lên.
Trong mỗi tiết học về đọc văn, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh soạn bài
theo các bước sau :


Bước 1: Yêu cầu học sinh chuẩn bị một quyển vở ghi chung cả phần soạn bài
và phần kiến thức học trên lớp .

Bước 2: Hướng dẫn cho học sinh cách soạn bài: chia đôi vở, phần bên trái
(hoặc bên phải) chuẩn bị bài soạn ở nhà theo câu hỏi sách giáo khoa (SGK),
phần vở còn lại để bổ sung những thông tin cần thiết khi học trên lớp .
Ví dụ:
Đọc thêm. Tiết 62: Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia
(Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, Niên hiệu Đại Bảo thứ
ba)
Thân Nhân Trung

Phần soạn bài

Phần ghi bổ sung

Câu 1: Hiền tài có vai trò quan ......................................................................
trọng đối với đất nước như thế
......................................................................
nào?
Câu 2: Ý nghĩa, tác dụng của việc .......................................................................
khắc bia ghi tên tiến sĩ đối với
.......................................................................
đương thời và các thế hệ sau?
Câu 3: Bài học lịch sử rút ra từ .......................................................................
việc khắc bia ghi tên tiến sĩ là gì?
.......................................................................
Câu 4: Sơ đồ kết cấu của bài văn
.......................................................................
bia ?
.......................................................................

Cách làm này có nhiều ưu điểm: Học sinh đã nắm được phần nào nội dung

cơ bản của bài học mới, tiết kiệm thời gian trên lớp bằng việc chỉ bổ sung


những kiến thức cần thiết từ phía giáo viên và bạn bè, cùng một lúc kết hợp cả
kiến thức ở nhà với kiến thức trên lớp, tiện ích cho việc học bài mới hay bài cũ,
phát huy được tính tự học, tính tích tực của học sinh .
3. 2. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản theo hướng sáng tạo
Trước khi tìm hiểu văn bản bao giờ giáo viên cũng cho học sinh đọc một vài
lần nhưng chỉ với mức độ yêu cầu đơn giản: rõ ràng lưu loát là đủ. Trong quá
trình nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, chúng ta nhận thấy bản thân
việc đọc có nhiều cấp độ: cấp độ thứ nhất là đọc thông thường (đọc trôi chảy
không vấp về ngữ âm, ngữ nghĩa, biết ngừng giọng đúng chỗ). Cấp độ thứ hai là
đọc kĩ, đọc sâu, biết đọc các hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt
câu. Cấp độ thứ ba là đọc - hiểu được thông điệp mà văn bản gửi đến người
đọc. Nhưng quan trọng hơn là đọc văn còn là để cảm, để thưởng thức để tự phát
triển bản thân. Trong quá trình đọc học sinh phải tìm được ý nghĩa mà tác giả
thể hiện kín đáo trong văn bản, tiến thêm một bước, tìm thấy điều mà người đọc
trước chưa thấy, đó mới thực sự là đọc sáng tạo. Do đó, cần rèn luyện cho học
sinh phương pháp đọc theo từng cấp độ nhận thức từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp thì mới có kết quả.
Từ việc nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của khâu đọc văn bản, chúng ta
cần giúp học sinh đọc hiểu văn bản “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia”
(Thân Nhân Trung) theo đúng đặc trưng thể loại, nhận thấy được tính chất nhật
dụng của nó để có những định hướng tốt cho bản thân và xã hội.
*Yêu cầu chung
- Cần định hướng ngay từ đầu cho học sinh về việc tìm hiểu văn bản
“Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” (Thân Nhân Trung): chỉ tìm hiểu những
nét đặc trưng nhất trên cơ sở của SGK vì đây là tiết đọc thêm.
- Trong phần tiểu dẫn học sinh phải nắm được những nét chính về tác giả
và văn bản (vị trí, thời gian sáng tác, thể loại).

- Học sinh không chỉ đọc đúng từ ngữ, giọng điệu mà còn phải làm toát
lên được cảm xúc, tâm tư tình cảm của tác giả thể hiện qua văn bản, phải nghiền
ngẫm để bước đầu nắm được ý nghĩa của văn bản.
* Yêu cầu cụ thể
Bước 1: Tạo tâm thế, tình huống cho học sinh ngay từ lời dẫn vào bài mới


Đây là văn bản mang tính nhật dụng nên giáo viên cần có lời dẫn vào bài
sao cho khơi gợi được những tri thức mà học sinh đã lĩnh hội từ đời sống thực
tế.
Ví dụ : Giáo viên có thể dẫn vào bài mới như sau:
Câu hỏi: Ở nơi em đang sinh sống, em đã từng quan sát những địa điểm
nào có đặt bia đá? Em hiểu văn bia (bia kí) là gì?
Định hướng trả lời: Những địa điểm có đặt bia đá như Nghã ba bia, nghĩa
trang liệt sĩ, nghĩa trang nhân dân ... văn bia (bia kí) là văn kí khắc trên bia đá
nhằm ghi chép những công việc trọng đại hoặc tên tuổi, cuộc đời của những
người có công đức lớn để lưu truyền đời sau.
Giáo viên dẫn cụ thể vào bài mới: Văn bia có ba loại chính: Bia ghi công
đức, bia ghi việc xây dựng các công trình kiến trúc, bia lăng mộ. Bài học hôm
nay không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hoá mà còn mang giá trị văn học: “Hiền tài
là nguyên khí của Quốc gia” (Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên
hiệu Đại Bảo thứ ba) của Thân Nhân Trung.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh đọc - tìm hiểu chung về văn bản
Các bước tiến hành:

Hoạt động của giáo viên

Nội dung cần đạt

Câu hỏi 1: Trường Đại học đầu tiên I/ Đọc tìm hiểu chung

của nước ta có tên gọi là gì, đặt ở đâu ?
- GV cho học sinh xem hình ảnh Văn 1. Tác giả
Miếu Quốc Tử Giám, hàng văn bia tiến
- Thân Nhân Trung (1418-1499), Tự là Hậu
sĩ .
Phủ.
- Quê làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng, Tỉnh
- GV gọi học sinh đọc phần tiểu dẫn Bắc Giang.
SGK trang 31.
- Đỗ tiến sĩ năm 1469, nổi tiếng về văn
Câu hỏi 2: Trình bày nội dung chính chương.
trong phần tiểu dẫn?
- Là phó nguyên soái trong hội Tao đàn do Lê
GV: nhấn mạnh, mở rộng một số từ


ngữ: văn chương, thời Hồng Đức …và Thánh Tông sáng lập .
khẳng định đây là văn bản mang tính
nhật dụng cao (hay còn gọi là văn bản 2. Văn bản
nhật dụng)
- Vị trí: thuộc phần thứ hai của Bài kí đề
GV mở rộng kiến thức: Bia ghi công danh tiến sĩ Khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại
Bảo thứ ba(1442), là một trong 82 bài văn bia
đức thường có 3 phần :
ở ở Văn Miếu (Hà Nội)
+ Tự (kể): nêu lí do, quá trình làm bia,
sự tích nhân vật được khắc bia (phần (Trước phần trích: có một đoạn văn dài kể
việc từ khi Lê Thái Tổ dựng nước (1428) đến
quan trọng nhất)
năm 1484, các vua Lê tuy đều chú ý bồi

+ Minh (phần ghi nhớ): viết bằng văn dưỡng hiền tài nhưng chưa có điều kiện dựng
vần tóm lược nội dung tự sự ở trên để bia tiến sĩ .
người đọc dễ ghi nhớ.
(Cuối phần trích: là danh sách 33 vị đỗ tiến
+ Phần ghi ngày tháng, họ tên người khoa Nhâm Tuất 1442)
làm bia được viết bằng văn xuôi.
- Thời gian sáng tác: năm 1484 thời Hồng
Câu hỏi 3: Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Đức.
Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ
ba thuộc loại bia ghi công đức, theo - Thể loại : nghị luận -> bia kí (văn bia), một
em đoạn trích trong SGK thuộc phần thể loại văn học trung đại.
thứ mấy của tác phẩm?
GV gọi hs đọc
Câu hỏi 4: Văn bản cần đọc với giọng
như thế nào ?
Giọng bình tĩnh, đĩnh đạc, trang trọng .
- GV hướng dẫn học sinh xem chú
thích từ khó. Bài kí đề danh tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo
thứ ba viết bằng chữ Hán, đây là bản
dịch.
- Chú ý một số từ cần ghi nhớ như : Hiền tài ,
Câu hỏi 5: xác định hệ thống luận điểm
nguyên khí, thánh đế, minh vương, khoa danh
trong văn bản? Luận điểm nào quan

trọng nhất? Vì sao?


- Hệ thống luận điểm :

+ Hiền tài là nhuyên khí của quốc gia ( tầm
quan trọng và ý nghĩa của hiền tài đối với đất
nước )
+ Những việc làm thể hiện sự quan tâm của
các thánh đế minh vương đối với hiền tài .
+ Ý nghĩa việc khắc bia tiến sĩ. Trong đó,
luận điểm 1 là gốc, là cơ sở, luận điểm 3 có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng nhất .

3. 3 . Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học
Theo chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, SGK Ngữ văn THPT
biên soạn trên nguyên tắc dạy học tích hợp và phát huy tính chủ động, sáng tạo
trong hoạt động học tập. Như vậy trong quá trình dạy học, giáo viên phải lấy
học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò định hướng học sinh chiếm
lĩnh các đơn vị kiến thức. Để giờ dạy trên lớp thực sự có hiệu quả, trước hết
giáo viên gợi cho học sinh có thể vận dụng những hiểu biết, những kiến thức đã
được trang bị ở cấp dưới để làm cơ sở cần thiết trong việc tìm hiểu tác phẩm.
Thứ hai, là sử dụng phương pháp đàm thoại, nêu câu hỏi có tính chất gợi mở,
đặt học sinh vào các tình huống có vấn đề để phát huy tính sáng tạo và khả năng
phát hiện của học sinh vừa nhằm phát triển năng lực tư duy,vừa tạo hứng thú
trong học tập cho học sinh. Thứ ba, cần có sự liên hệ giữa bài học với thực tế để
học sinh thấy được tính nhật dụng của văn bản và vai trò quan trọng của nó đối
với cuộc sống.
Giáo viên tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh kiến thức thông qua việc tăng
cường kết hợp hình thức học tập cá thể với học tập hợp tác.
Tùy từng đơn vị kiến thức và mục đích dạy học, giáo viên tổ chức học
sinh hoạt động độc lập hay hoạt động hợp tác (theo tổ, nhóm). Hoạt động độc
lập giúp học sinh được bộc lộ, khẳng định ý kiến, qua đó người đọc nâng mình
lên một trình độ mới. Hoạt động hợp tác (mỗi tổ, nhóm từ 6 đến 8 người) làm



tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất
hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Với các
hoạt động này giúp học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong hoạt động
xã hội.
*Yêu cầu chung
- Với tinh thần “lấy học sinh làm trung tâm”, người thầy đóng vai trò tổ
chức cho học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức đồng thời tạo không khí học
tập sôi nổi, thoải mái, khơi dậy tính tích cực chủ động học tập của học sinh
trong quá trình đọc - hiểu văn bản.
- Tổ chức hệ thống câu hỏi đi từ nhận biết đến vận dụng mức độ cao, vừa
đảm bảo kiểm tra được kiến thức cơ bản của học sinh vừa kích thích được tính
sáng tạo và khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh .
* Yêu cầu cụ thể
Các bước tiến hành
Đây là một văn bản nghị luận thuộc thời kì văn học trung đại, vì vậy ta
có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản theo hệ thống luận điểm đã nêu,
không nên chia theo bố cục từng phần để tìm hiểu. Dựa theo hệ thống câu hỏi
cho học sinh thảo luận và trả lời .
Hoạt động của giáo viên và học sinh

Nội dung cần đạt
II/ Đọc- hiểu văn bản

Câu hỏi 1: Vai trò của hiền tài được 1. Luận điểm 1: Vai trò của hiền tài đối với
tác giả khẳng định như thế nào ?
quốc gia
Câu hỏi 2: Hãy giải thích câu - Hiền tài là nguyên khí của quốc gia :
nói Hiền tài là nguyên khí của Quốc
+ Hiền tài: người có tài cao, học rộng và có

gia?
đạo đức.
+ Nguyên khí: khí chất ban đầu làm nên sự
sống còn và phát triển của sự vật.
" Người tài cao, học rộng, có đức độ là khí
chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát


triển của đất nước, xã hội.
" Hiền tài có quan hệ mật thiết với sự thịnh suy của đất nước.
- Phương pháp lập luận: diễn dịch.
Luận điểm được triển khai qua cách so sánh
đối lập:
Câu hỏi 3: Tác giả đã phát triển luận
điểm ra sao bằng phương pháp lập
luận nào? Nhận xét về nghệ thuật ?

Nguyên khí thịnh îí Nguyên khi suy
Đ/n nhiều hiền tài
Thế nước mạnh

Đ/n hiếm hiền tài
Thế nước suy

" Khẳng định tính chất rõ ràng, hiển nhiên của
chân lí.
2. Luận điểm 2: Chính sách của thánh đế
minh vương đối với các hiền tài
* Việc đã làm: các triều đại phong kiến Việt
Nam như Lí, Trần, Lê đã có chính sách quý

Câu hỏi 4: Các thánh đế minh vương trọng hiền tài, khuyến khích hiền tài, đề cao
đã làm gì để khuyến khích hiền tài? kẻ sĩ, quý chuộng không biết thế nào là cùng,
Em có nhận xét gì về những việc làm ban ơn lớn mà vẫn không cho là đủ :
này?
+ Đề cao danh tiếng.
+ Ban chức tước, cấp bậc (trạng nguyên, thái
học sinh, tiến sĩ)
+ Bảng vàng, ban yến tiệc, mũ áo, vinh quy
bái tổ về làng (võng anh đi trước võng nàng
theo sau)...
" Đây là những việc làm đúng, tốt... " Nhưng
như thế vẫn chưa đủ vì chỉ mang danh ngắn
ngủi một thời lừng lẫy, mà không lưu truyền
được lâu dài.
* Việc tiếp tục làm: Khắc bia tiến sĩ đề danh,


lưu truyền mãi mãi.
3. Luận điểm 3: ý nghĩa, tác dụng của việc
khắc bia ghi tên tiến sĩ.
+ Khuyến khích hiền tài: kẻ sĩ trông mà phấn
Câu hỏi 5: Tại sao làm thế “mà vẫn chấn, hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức
chưa cho là đủ” ?
giúp vua.
+ Ngăn ngừa điều ác kẻ ác: ý xấu bị ngăn
chặn, lòng thiện tràn đầy, kẻ ác thấy đó làm
Câu hỏi 6: Vậy việc phải tiếp tục làm răn, người thiện xem đó mà cố gắng.
là gì?

Câu hỏi 7: Ý nghĩa của việc khắc bia

đá đề danh tiên sĩ ? Có phải chỉ
chuộng văn suông, ham tiếng hão
không?

+ Dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, góp
phần làm cho hiền tài nảy nở, đất nước hưng
thịnh, phát triển: rèn giũa danh tiếng cho kẻ sĩ
phu, cũng cố mệnh mạch (huyết mạch quan
trọng) cho nhà nước.
4. Bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia
nghi tên tiến sĩ
- Thời nào thì hiền tài cũng là nguyên khí của
quốc gia, phải biết quý trọng nhân tài .
- Hiền tài có mối quan hệ sống còn đối với sự
thịnh suy của đất nước (cần lưu ý là triều đại
Lê Thánh Tông rất quý trọng hiền tài, biết
dùng nhân tài nên cũng là triều đại hoàng kim
nhất trong lịch sử chế chộ phong kiến Việt
Nam .

- GV cho học sinh thảo luận câu hỏi . - Thấm nhuần quan điểm của nhà nước ta:
giáo dục là quốc sách hàng đầu, trọng dụng
(Mỗi nhóm là một bàn).
nhân tài, phát triển con người thế kỉ XXI .
Câu hỏi 8: Theo em bài học lịch sử rút
ra từ việc khắc bia ghi tên tiến sĩ là gì? - Thấm nhuần quan điểm của chủ Chủ tịch Hồ
Chí Minh: một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu .



Sau khi tìm hiểu văn bản, GV cần hướng dẫn học sinh tổng kết giá trị của
văn bản và làm bài luyện tập nhỏ.
Câu hỏi tổng kết :
Em hãy cho biết giá trị của văn bản trên hai phương diện nội dung và
nghệ thuật?
Định hướng trả lời :
- Giá trị nội dung : Hiền tài là nguyên khí quốc gia, có tầm quan trọng bậc
nhất đối với vận mệnh hiện tại và tương lai của đất nước .
- Giá trị nghệ thuật : Kết cấu chặt chẽ, lập luận khúc chiết, mạch lạc, giàu
sức thuyết phục, dẫn chứng xác thực .
Câu hỏi luyện tập:
Hiện nay nhà nước ta đã có những chính sách nào để tôn vinh, ưu đãi nhân
tài ?
Định hướng trả lời:
- Vinh danh các thủ khoa đỗ đầu các trường Đại học ở Văn Miếu hằng
năm, thành lập các hội khuyến học, trao giải Hoa trạng nguyên, tạo điều kiện
cho học sinh, sinh viên du học nước ngoài …
- Tuy nhiên còn có những hạn chế, bất cập, hiện tượng chảy máu chất
xám, hiện tượng lớp chọn, trường chuyên, luyện gà nòi trong các kì thi học sinh
giỏi các cấp.
3.4. Sử dụng phù hợp các phương tiện dạy - học truyền thống kết hợp với
hiện đại
Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu trong chương trình SGK nói
chung và đặc biệt là triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt
động tích cực, chủ động của học sinh.


Trong mỗi giờ dạy về phân môn đọc văn nói riêng và môn Ngữ văn nói
chung, việc kết hợp linh hoạt giữa phương tiện dạy học truyền thống (SGK,
giáo án, bảng phụ, tranh ảnh...) và phương tiện nghe nhìn như băng hình, các

CD, máy chiếu hắt, máy chiếu đa năng, máy vi tính, các thiết bị hiện đại sẽ tăng
hiệu quả giờ dạy - học. Đặc biệt các phương tiện dạy - học hiện đại, cùng với sự
hỗ trợ của công nghệ thông tin góp phần đổi mới cách dạy, cách học, đổi mới
phương pháp dạy học, gây hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh.
Cụ thể như sau :
Bước 1: GV sử dụng máy chiếu đa năng soạn thảo trên phần mềm Power Point
cho học sinh xem ba bức ảnh: Văn Miếu Quốc Tử Giám, hàng văn bia tiến sĩ và
bút tích trên văn bia nhằm tạo hứng thú cho học sinh trước khi tìm hiểu phần
tiểu dẫn :
- Hình ảnh 1:

Văn miếu Quốc Tử Giám
-Hàng bia tiến sĩ


Bút tích trên văn bia


Bước 2: Giáo viên dùng bảng phụ (hoặc máy chiếu hắt) cụ thể hóa luận điểm
bằng sơ đồ văn bản “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”

SƠ ĐỒ HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM CỦA VĂN BẢN

Ý nghĩa của việc khắc bia tiến sĩ


Bước 3: GV dùng phiếu học tập cho học sinh thảo luận nhóm trong câu hỏi:
“Theo anh (chị), bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia ghi tên tiến sĩ là
gì?”

Mẫu phiếu học tập có thể làm như sau :

Trường THPT Đặng Thai Mai

Phiếu học tập

1023
Tiết 62- Đọc thêm

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia

(Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba)
Thân Nhân Trung
Họ và tên học sinh ( hoặc nhóm ) ……………………………………………….........
Lớp
……………………………………………………………………………….................
Câu hỏi thảo luận: Theo anh (chị ), bài học lịch sử rút ra từ việc khắc bia ghi tên tiến
sĩ là gì ?
Học sinh trả lời: ..............................................................................................................
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….....................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
...

C. KẾT LUẬN



1. Kết quả nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học Đọc văn kết hợp với quá trình thử nghiệm trong giảng dạy trực tiếp từ 2 lớp
10A3 và 10A2 trường THPT Đặng Thai Mai, đây là hai lớp cùng một đối tượng
học sinh. Một lớp khi chưa áp dụng các biện pháp trên và một lớp đã tiến hành
áp dung những biện pháp trên, tôi đã thu được kết quả sau đây để làm bài học
rút kinh nghiệm:
* Đối với Lớp 10A3 khi chưa áp dụng .
Sau tiết học, tôi nhận thấy học sinh chưa hứng thú, chưa tích cực, nhiều
em còn rất mơ mồ, chưa hiểu kĩ về văn bản. Đặc biệt chưa có thói quen tự học,
giờ học chưa được sôi nổi. Tôi tiến hành kiểm tra 15 phút vào kiến thức đã học
trong bài. Kết quả khảo sát chất lượng của học sinh như sau:

Lớp

Sĩ số
10A3/43

Hứng thú học tập

Kết quả bài kiểm tra

Hứng thú

Không hứng
thú

Giỏi

Khá


TB

Yếu

Kém

35%

65%

3%

22%

55%

16%

4%

* Đối với lớp 10A2 khi đã áp dụng một số biện pháp trên.
Sau tiết học, tôi nhận thấy học sinh học rất hứng thú học tập, tích cực phát
biểu xây dựng bài, nắm nội dung bài học nhanh hơn, đầy đủ hơn. Học sinh hiểu
văn bản theo đúng đặc trưng của thể loại, kết hợp giữa kiến thức đã khai thác
trong văn bản và đời sống thực tế làm nổi bật được tính nhật dụng của văn bản.
Kết quả khảo sát bằng việc kiểm tra 15 phút như sau:

Lớp

Hứng thú học tập


Kết quả bài kiểm tra


Sĩ số
10A2/4
3

Hứng thú

Không hứng thú

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

70%

30%

15%

49%


36%

0

0

Căn cứ vào kết quả khảo sát chất lượng giữa hai lớp, tôi thấy đây là việc
làm khả quan trong việc áp dụng: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
bài dạy “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia”. Cụ thể trên bảng thống kê số
lượng điểm giỏi, khá tăng lên và điểm yếu, kém không còn, chất lượng giờ dạy
được nâng lên rõ rệt.
2. Kiến nghị, đề xuất
Căn cứ vào nội dung SGK và thực tế giảng dạy ở trường phổ thông hiện
nay, tôi xin đề xuất một số vấn đề sau :
- Đối với giáo viên: trong dạy phân môn Đọc văn, giáo viên cần chú
trọng đến những văn bản đọc thêm. Quá trình dạy - học cần giúp học sinh khai
thác văn bản dựa trên đặc trưng thể loại, giúp học sinh gắn tri thức của văn bản
với đời sống thực tế.
- Đối với nhà trường:
+ Tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, xây dựng phòng học đa năng, đảm
bảo về trang thiết bị cho việc dạy và học.
+ Cần tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ để học sinh
có điều kiện mở rộng tầm hiểu biết, đa dạng hóa các hình thức học tập, ví dụ tổ
chức cho học sinh đi tham quan, giao lưu học hỏi.
+ Tổ chức các chuyên đề, hội thảo, để giáo viên trau dồi chuyên môn.
+ Mở lớp bồi dưỡng chuyên môn để giáo viên có thể trao đổi phương
pháp giảng dạy .


XÁC NHẬN

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Nam



×