Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT hồng quang” (cụ thể ở lớp chủ nhiệm 10a4 năm học 20 13 2014 và lớp 11a4 năm học 2014 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.86 KB, 19 trang )

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn SKKN
Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới,
mở ra cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những bước
phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục đã
được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo hơn. Trong nhà trường, các tổ chức
đoàn thể cũng có nhận thức đúng về tầm quan trọng của đạo đức và công tác
giáo dục đạo đức học sinh, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bên
cạnh những thành tựu của ngành Giáo dục và Đào tạo như: Số học sinh học
giỏi, khá, học sinh có hạnh kiểm tốt, khá ngày càng nâng lên,… đã góp phần tạo
nên những thành quả quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của Ngành:
"Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực - Bồi dưỡng nhân tài" cho đất nước. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, đây đó, còn có những
hiện tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống
thực dụng, thậm chí những hành động phạm pháp của “người lớn” đã tác động
xấu trực tiếp đến học sinh. Các tệ nạn xã hội có lúc, có nơi đã xâm nhập vào
trong trường học; tình trạng một số ít học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội, thậm
chí đánh thầy, gây án, giết người, cướp của, rượu chè bê tha, cờ bạc, có lối sống
tha hóa, buông thả,… số này tuy không phổ biến nhưng có xu hướng gia tăng,
làm băng hoại đạo đức, tha hoá nhân cách, tác động xấu tới các giá trị đạo đức
truyền thống, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục đạo đức học sinh,
đến an ninh trật tự xã hội, gây nỗi đau, và là vấn đề đáng lo ngại cho các bậc
cha mẹ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Người có tài mà không có
đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó". Nhân dân ta cũng có câu: "Tiên học lễ, hậu học văn"… Các câu nói trên
đều khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của phẩm chất đạo đức trong sự nhìn
nhận, đánh giá, sự tồn tại và phát triển của mỗi người nói riêng và xã hội nói
chung. Mục tiêu cơ bản của giáo dục là xây dựng một thế hệ trẻ có phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ học vấn cao, có thể chất cường tráng, có tâm hồn trong
sáng lành mạnh, có khả năng thích ứng và kỹ năng sống cao. Bởi vậy, bất kỳ cơ


sở giáo dục nào cũng rất quan tâm về giáo dục hạnh kiểm cho học sinh.
Ở nước ta, sự nghiệp giáo dục đào tạo đang được toàn Đảng toàn dân quan
tâm. Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ:
Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học
sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Hiện nay, trên các
phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình
học sinh cá biệt (HSCB). Vấn đề này đã trở thành mối quan ngại của dư luận,
nhất là với gia đình và nhà trường.


HSCB, trường nào cũng có. HSCB không nhiều, song lại là “lực cản” rất
lớn, thậm trí là thế lực đen” đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu
tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường.
Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trước những vụ bạo lực
học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục
trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả
là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và
đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là
ngành giáo dục nói riêng, trong đó có trường THPT Hồng Quang- Lục YênYên Bái.
Và điều này thì ai cũng biết: quá cứng thì dễ gãy, quá mềm thì khó uốn.
Trong sự nghiệp trồng người thì học sinh cá biệt giống như cái cây không mọc
thẳng. Đối với loại cây này người GVCN phải gia công nhiều hơn. Thàng công
trước mắt là học sinh ra trường với học lực khá giỏi, hạnh kiểm tốt. Nhưng lâu
dài, năm năm,mười năm hai mươi năm sau học sinh gặp mình còn biết gật đầu
chào, biết nói một lời thăm hỏi, biết nhắc lại những sai phạm xưa kia như những
gì nông nổi của một thời tuổi trẻ. Niềm vui thật sự của người GVCN là lúc đó.
Khi người học sinh chưa ngoan của mình biết nhận lỗi một cách thành khẩn thì
có nghĩa là biện pháp giáo dục của mình phần nào đó đã thành công.
Tóm lại góp phần hình thành nhân cách học sinh- đặc biệt là học sinh cá
biệt- là nhiệm vụ quan trọng của người GVCN đó không chỉ là nhiệm vụ trong

một năm học, một cấp học mà là thiên chức đối với một đời người - một thế
hệ.
Vậy làm sao để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả?
Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi
chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT
Hồng Quang” (Cụ thể ở lớp chủ nhiệm 10A4 năm học 20-13-2014 và lớp 11A4
năm học 2014-2015)
2. Thời gian thực hiện và triển khai SKKN
+ Đăng kí tên SKKN: tháng 8 năm 2014
+ Viết đề cương cơ bản của SKKN: Tháng 8- 2014
+ Viết đề cương chi tiết của SKKN: Tháng 9 10-2014
+ Điều tra khảo sát thực trạng của vấn đề nghiên cứu: Năm học 20132014 và học kì I năm học 2014-2015
+ Thống kê kết quả điều tra khảo sát thực trạng, phân tích nguyên nhân:
Năm học 2013-2014 và học kì I năm học 2014-2015
+ Viết SKKN: Tháng 11-2014 đến tháng 2-2015


PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
1.1. Một số khái niệm về đạo đức.
Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã
hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con
người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng
xã hội.
Đạo đức được xem là khái niệm về luân thường đạo lý của con người, nó
thuộc về vấn đề tốt- xấu, hơn nữa xem như là đúng- sai, được sử dụng trong ba
phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc
còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân
văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội là tập hợp những nguyên tắc, quy

tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
Đạo đức bao gồm các phẩm chất: Lịch sự, lòng biết ơn, lòng tự trọng, tính
thật thà, tính giản dị, tính tiết kiệm, tính trung thực, lòng tôn sư trọng đạo, lòng
tự tin, tinh thần đoàn kết, lòng dũng cảm, lòng khoan dung, tính siêng năng,
lòng tương trợ, tính liêm khiết, chí công vô tư, ý chí tự lập, biết giữ chữ tín, tính
tự chủ, lý tưởng, tinh thần năng động sáng tạo, tôn trọng danh dự, về lương tâm
con người.
Đạo đức có thể định nghĩa theo các khía cạnh sau:


Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình
sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội
trong quan hệ cá nhân với xã hội.
Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự
nhiên.
Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong
quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên
và với cả bản thân mình.
Hạnh kiểm là phẩm chất, đạo đức biểu hiện trong việc làm, trong đối xử
với mọi người, với xã hội và thiên nhiên.
Do đó, nói đến hạnh kiểm của học sinh trung học phổ thông (THPT) là
nói đến phẩm chất đạo đức của học sinh thể hiện qua ý thức tổ chức kỷ luật, là
sự chấp hành của học sinh về điều lệ trường trung học, và nội quy, quy chế của
nhà trường; về động cơ thái độ học tập; tinh thần tập thể, tinh thần xây dựng chi
đội, xây dựng lớp; tham gia các phong trào của lớp của nhà trường và các hoạt

động của đội.
Dù còn nhiều ý kiến khác nhau về tiêu chuẩn đánh giá xếp loại hạnh kiểm
học sinh trung học hiện nay của Bộ giáo dục (BGD). Tuy nhiên, chừng nào
BGD chưa thay đổi thì phải tuân thủ quy định sau:
1. Loại Tốt (T)
a) Thực hiện đầy đủ nhiệm vụ học sinh quy định tại Điều lệ trung học:
- Kính trọng thầy giáo, cô giáo, nhân viên nhà trường: đoàn kết giúp đỡ
bạn bè; phát huy truyền thống tôt đẹp của nhà trường; thực hiện đúng, đầy đủ,
nghiêm túc nội quy nhà trường; chấp hành tốt các quy tắc trật tự, an toàn xã hội.
- Hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo yêu cầu của thầy giáo, cô
giáo và của nhà trường.
- Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân, bảo vệ môi trường.
- Tham gia các hoạt động tập thể của nhà trường, của lớp, của Đội thiếu
niên tiền phong Hồ Chí Minh. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, giữ gìn,
bảo vệ tài sản của nhà trường, giúp đỡ gia đình, tham gia công tác xã hội.
b) Thực hiện đầy đủ, tích cực 4 hoạt động giáo dục quy định trong kế
hoạch dạy học và hoạt động chính trị, xã hội do nhà trường tổ chức, thực hiện
đúng những quy định về trật tự an toàn giao thông.
c) Không vi phạm những điều cấm đối với học sinh theo quy định tại
Điều lệ trường trung học:
- Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo
viên, nhân viên nhà trường.
- Gian lận trong học tập, kiểm tra và thi.
- Xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn, đánh nhau, gây rối trật tự, an
ninh trong nhà trường và ngoài xã hội.


- Đánh bạc, vận chuyển , tàng trữ và sử dụng ma tuý, vũ khí, chất nổ,
chất gây cháy, các loại chất độc hại: lưu hành văn hoá phẩm đồi truỵ.
- Hút thuốc lá, uống rượu, bia.

d) Có thái độ tích cực đấu tranh ngăn chặn hành vi bị cấm ở trong trường
và giúp bạn cùng tiến bộ.
2. Loại khá (K).
a) Thực hiện đầy đủ nhiệm vụ học sinh quy định tại điểm a khoản 1 của
Điều này: có những vi phạm nhưng chưa đến mức bị xử lý kỷ luật, không tái
phạm sau khi được giáo dục.
b) Không vi phạm những điều cấm đối với học sinh quy định tại điểm c
khoản 1 của Điều này, nhưng chưa có thái độ rõ ràng trước những vi phạm của
bạn.
3. Loại trung bình (TB).
a) Thực hiện chưa đầy đủ nhiệm vụ học sinh quy định tại điểm a khoản 1
của Điều này, được nhắc nhở và giáo dục thì có tiếp thu sửa chữa nhưng tiến bộ
chậm, đôi khi còn tái phạm.
b) Không vi phạm những điều cấm đối với học sinh nhưng chưa có thái
độ tích cực phê phán, ngăn cản sự vi phạm, đôi khi còn đồng tình với vi phạm
của bạn.

4. Loại yếu:
Chưa đạt tiêu chuẩn xếp loại trung bình hoặc có một trong các khuyết
điểm sau đây:
a) Có sai phạm với tính chất nghiêm trọng hoặc lặp lại nhiều lần trong
việc thực hiện quy định tại Khoản 1 Điều này, được giáo dục nhưng chưa sửa
chữa;
b) Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo
viên, nhân viên nhà trường; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn hoặc của
người khác;
c) Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi;
d) Đánh nhau, gây rối trật tự, trị an trong nhà trường hoặc ngoài xã hội;
vi phạm an toàn giao thông; gây thiệt hại tài sản công, tài sản của người khác.
5. Đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh dựa vào kết quả của quá trình

tiếp thu giáo dục và hành động thực tế theo hướng tiến bộ của học sinh.
1.2. Thế nào là học sinh cá biệt?
Trước hết, cần hiểu đúng khái niệm “học sinh cá biệt”. Đó là những học
sinh có cá tính khác biệt so với số đông học sinh bình thường (không có nghĩa
học sinh cá biệt là bất bình thường).
1.2.1.Phân loại:
Có nhiều đối tượng học sinh cá biệt, tuy nhiên trong khuôn khổ của bài
viết, SKKN chỉ tập trung vào các trường hợp học sinh cá biệt về học tập và học
sinh cá biệt về đạo đức, lối sống.


1.2.2. Những biểu hiện của HSCB:
Học sinh cá biệt: là những học sinh thường có sự bất thường về tính cách,
không có động cơ học tập, tâm lý không ổn định. Chẳng hạn khi ở lớp học đang
yên lặng làm bài tập thì em đó bỗng la lớn lên khi làm bài được, thích học thì
học, không thích thì đùa giỡn, quậy phá các bạn kế bên, chọc cho bạn giỡn, nói
chuyện với mình, tâm trạng thì "mưa nắng thất thường” hoặc thầy cô đang
giảng về vấn đề này lại hỏi vấn đề khác.
Chúng ta biết rằng những học sinh được gọi là “cá biệt” thường có hoàn
cảnh đặc biệt. Môi trường sống bất ổn đã làm lòng tự trọng của các em có vấn
đề. Học sinh cá biệt (HSCB) là học sinh hư về đạo đức, lười nhác học tập,
những trẻ loại này thường rất lười biếng, hay quay cóp trong học tập; lừa dối
cha mẹ, thầy cô; dọa nạt bạn bè; lảng tránh các hoạt động tập thể; tiêu sài các
khoản phí của bố mẹ cho để đóng góp với nhà trường; giả tạo chữ kí của bố mẹ
trong sổ liên lạc hoặc giấy xin phép; càn quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích
“chơi trội” theo kiểu con nhà đại gia giàu có tụm lại với nhau đối lập với tập
thể lớp. Họ thích ăn chơi phá phách hơn là học hành tử tế; khéo léo, nhanh trí
trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cố, bạn bè; hay xem thường, trêu
ngươi, khiêu khích trước thầy cô, bạn bè nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh
nghịch được xắp sẵn trong đầu óc chúng. Có cách nói năng, ăn mặc, đi đứng

hành động khác thường để gây sự chú ý. Kết quả học tập thất thường, sút kém,
luôn xếp “đội sổ”, dẫn đến chán học.
Ở những học sinh này, uy tín của bố mẹ, thầy cô có thể bị thay thế bởi
những kẻ cầm đầu, côn đồ hung hãn, liều lĩnh, những anh chị “Đại ca” nên rất
dễ dàng rơi vào những cạm bẫy, sai khiến súi giục của các “đàn anh, đàn chị”.
* Những biểu hiện cá biệt cụ thể của HS thường gặp:
Những đối tượng cá biệt về học lực (có ba loại):
+ Một là những em có trí tuệ và khả năng nhận thức bình thường nhưng
rất lười biếng, lêu lổng, học kiểu “tài tử” dẫn đến hổng kiến thức, hay quay cóp
trong học tập. Kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “đội sổ”, dẫn đến
chán học.
+ Hai là những em thiểu năng về trí tuệ: Là những trẻ trông hình thức bề
ngoài bình thường, hơi có vẻ như chậm chạp, có những biểu hiện thiểu năng,
trong học tập thì dạy mãi, học mãi chẳng nhập tâm được gì (hay nói cách khác
là thuộc diện “chậm hiểu”).
+ Ba là những em thuộc diện khuyết tật (nói ngọng hoặc không nói được,
khiếm thị, khiếm thính, khiếm vận động…) dẫn dến không đủ giác quan,
phương tiện để học tập bình thường như những bạn khác.
Những đối tượng cá biệt về hạnh kiểm thường có những biểu hiện như:
+ Hay chốn học đi chơi điện tử, lừa dối cha mẹ, thầy cô, giả tạo chữ kí
của bố mẹ trong sổ liên lạc hoặc giấy xin phép;
+ Dọa nạt bạn bè thậm chí đánh nhau; lảng tránh các hoạt động tập thể;
+ Tiêu sài các khoản phí của bố mẹ cho để đóng góp với nhà trường; càn
quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích “chơi trội” theo kiểu con nhà đại gia


giàu có. Thích ăn chơi phá phách hơn là học hành tử tế thậm chí còn có cả ăn
cắp, ăn trộm, “cắm quán” tài sản không chỉ của mình mà còn lừa “mượn” của
bạn;
+ Khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô,

bạn bè; Hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước thầy cô, bạn bè nhằm
thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được xắp sẵn trong đầu óc chúng. Có cách
nói năng, ăn mặc, đi đứng hành động khác thường để gây sự chú ý;
+ Có biểu hiện thích yêu đương, phân tán tư tưởng, thích diện, hay cãi lí
với bố mẹ và thầy cô; sẵn sàng bỏ học đi chơi cùng bạn…
+ Nghiện chơi game, điện tử, facebook đến mức quên cả giờ học, trốn
học, quên ăn…
1.2.3. Nguyên nhân
- Từ gia đình: Thiếu sự quan tâm hay quá tin tưởng, chiều chuộng của
gia đình; những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến sự hư đốn,
hay nói một cách khác là đạo đức học sinh yếu kém.
- Từ xã hội: Thực trạng những mặt xấu của xã hội; Trong điều kiện xã
hội hiện nay từng giờ từng ngày những cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực của xã hội
dội vào nhà trường và tác động đến học sinh.
- Từ nhà trường:
+ Nhà trường chưa có biện pháp phù hợp trong việc quản lí giáo dục
học sinh; chưa quan tâm đúng mức tới những HS có hoàn cảnh đặc biệt (những
em quá đầy đủ về vật chất, được chiều chuộng; ngược lại những em quá khó
khăn thiếu thốn về vật chất hoặc những em có hoàn cảnh éo le, những em có cá
tính khác thường…);
+ Chưa tạo ra môi trường thân thiện thức sự khi các em đến trường,
làm cho các em thấy nhàm chán khi đến trường, có nhu cầu muốn tự thay đổi và
làm mới môi trường sống;
+ Từng giáo viên chưa trở thành chỗ dựa về tinh thần cho các em mỗi
lúc gặp khó khăn, giáo viên còn ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, sợ bị súc
phạm khi đối diện với HS hư, thiếu tâm huyết với nghề, chưa quan tâm phát
hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của HS…
- Từ bản thân học sinh:
+ Giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi từ tuổi thiếu niên chuyển
sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình bằng sự hiểu biết chưa

hoàn thiện của mình;
+ Do bản năng hoặc bệnh a dua hay bệnh lấy lệ. Thậm chí các em
còn nghĩ làm như vậy là không sai! Khi đạo đức yếu kém thì học lực cũng tỉ lệ
thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả kiến thức của các em bị hổng dẫn đến
mất căn bản, điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp làm các em mặc cảm
đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học và cuối cùng nảy sinh
bỏ học.
2. Thực trạng đạo đức học sinh trường THPT Hồng Quang


Nằm trên địa bàn thôn 7- xã Động Quan- Huyện Lục Yên- Tỉnh Yên Bái
(Ven quốc lộ 70), trường THPT Hồng Quang đón nhận các em học sinh đa số là
con em các dân tộc thiểu số đóng trên địa bàn xã và các xã ven sông trong
huyện Lục Yên. Năm học 2013-2014, theo thống kê đầu năm, nhà trường có số
học sinh cá biệt là 16 em, thậm chí có nhiều học sinh nữ cá biệt. Những năm
gần đây số HS vi phạm pháp luật, thiếu lễ độ với người lớn, nói tục, gây gổ
đánh nhau, không trung thực, ích kỷ, ham chơi, đua đòi ngày càng nhiều. Công
tác giáo dục đạo đức HS nói chung ngày càng khó khăn và phức tạp. Chuyện
HS cầm cắm xe đạp, trộm cắp, xin đểu bạn bè lấy tiền đi chơi Internet, cầm đồ,
trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu xài ngày càng nhiều và có xu hướng ngày càng gia
tăng. Một số em đến trường, đến lớp chỉ do sức ép của gia đình, thiếu động cơ
học tập dẫn đến thái độ lơ là trong học tập, ồn ào gây mất trật tự lớp học. Nhiều
học sinh bỏ trốn tiết, một số em ngồi trong lớp nhưng thiếu tập trung, không chú
ý đến bài học… Theo xu hướng hiện nay, do ảnh hưởng của phim ảnh, các văn
hóa phẩm đồi trụy đã tác động đến các em, nên đa số giữa các em có xuất hiện
tình cảm đầu đời mà được gọi là tình yêu từ rất sớm. Một số em đã vượt quá
giới hạn trong tình yêu nhưng thiếu hiểu biết đã dẫn đến có thai, phải nạo phá
thai. Việc này đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và việc học của các em. Thậm
chí các em phải bỏ học giữa chừng, kết hôn sớm, trở thành những người cha,
người mẹ từ khi tuổi còn rất trẻ. Đây quả là một vấn đề hết sức nhức nhối cho

nhà trường, gia đình và xã hội.
Việc giáo dục đạo đức học sinh phụ thuộc phần lớn vào Giáo viên chủ
nhiệm. Lớp nào gặp giáo viên chủ nhiệm có tâm huyết, có kinh nghiệm, có "tay
thước” thì ổn định. Lớp nào gặp giáo viên chủ nhiệm thiếu nhiệt tình, thiếu kinh
nghiệm, dễ tính, thì học sinh mặc sức tung hoành nhưng cuối năm hạnh kiểm
cũng xếp khá, xếp tốt như ai, tạo nên sự thiếu đồng bộ, thiếu công bằng trong
sự đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh.
Là một thành viên trong nhà trường, tập thể 11A4 với 38 học sinh gồm
các dân tộc Tày, Nùng, Dao là chủ yếu. Có 3 em dân tộc Kinh. Năm học lớp 10,
do mới nhập học, là lớp đầu cấp nên các em còn nhiều bỡ ngỡ, lạ lẫm trong học
tập và các mối quan hệ với thầy cô, bạn bè. Nhiều học sinh còn vi phạm nội
quy, nề nếp của nhà trường, đoàn thanh niên và của tập thể lớp. Nhiều em có
biểu hiện học yếu, nhận thức chậm, không theo kịp các bạn trong lớp nên có
biểu hiện chán học, lười học, chểnh mảng, kết quả học tập chưa cao, thậm chí
có em còn gây gổ đánh nhau gây mất đoàn kết với bạn bè trong và ngoài nhà
trường.
Kết quả các mặt giáo dục và trí dục của lớp 10A4 trong học kỳ I- Năm
học 2013-2014 như sau:
SL Học lực

39

Hạnh kiểm

Khá

TB

Yếu


Tốt

SL %

SL %

SL %

SL

9

27 69,2 3

23

7,8 18

Khá
%

SL

46,1 17

TB

Yếu

%


SL

%

SL %

43,
5

3

7,8

1

2,6


Trong đó:
- 03 học sinh có lực học yếu đều thuộc đối tượng HSCB về học tập.
- 03 học sinh có Hạnh kiểm TB và 1 em hạnh kiểm Yếu đều thuộc đối
tượng học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống.
Trước thực trạng đó, tôi đã áp dụng một số biện pháp giáo dục học sinh cá
biệt tại lớp chủ nhiệm.
3. Một số biện pháp giáo dục HSCB trong nhà trường.
3.1. Đối với GVCN lớp có học sinh cá biệt.
- Bản thân người GVCN phải là tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm
chất, nhân cách của mình. Người GVCN hơn ai hết cần phải có trí tuệ, có lương
tâm, có uy tín, sống mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ tín.

- Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh mình chủ nhiệm vì cuộc sống nội
tâm của học sinh ở lứa tuổi này còn nhiều mặt dễ biến đổi do các quá trình tâm
lý chưa ổn định và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn cảnh sống ....
- Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao yêu nghề, yêu thương
học sinh và luôn luôn xác định phương châm “Vì sự nghiệp trăm năm trồng
người” và “Tất cả vì học sinh thân yêu”.
- Biết tự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện
thiên chức của người kỹ sư tâm hồn.
- Có sự nhạy cảm sư phạm, biết dùng yếu tố tình cảm như một nghệ
thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt.
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục HSCB, chúng ta cần làm
những việc như là:
+ Xác định đúng đối tượng thông qua phản ảnh của lớp, của GV bộ môn
và của dư luận.
+ Phân loại: Học sinh cá biệt về học tập hay học sinh cá biệt về đạo đức,
lối sống
+ Tìm hiểu nguyên nhân. Tìm hiểu sở trường, tính cách, hoàn cảnh của
HS. Chúng ta nên tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh đó như: thu nhập hàng
ngày của gia đình, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như thế nào? Có
êm ấm hạnh phúc hay không? Có nhiều ý kiến bất đồng hay không... mục đích
là để hiểu rõ học sinh này.
+ Lựa chọn phương pháp, lên kế hoạch thực hiện mục tiêu giúp HS từ cá
biệt trở về bình thường thậm chí là tốt.
+ Thực hiện kế hoạch, rút kinh nghiệm.
3.1.1. Những điều nên tránh
- Không cô lập học sinh cá biệt đối với tập thể.
- Không xúc phạm và làm tổn thương danh dự của học sinh trước tập
thể.Một lời nói cũng cần phải thận trọng.



- Không quá khắt khe xử lý mạnh tay bằng những hình thức kỷ luật nặng
nề, đe dọa, thành kiến. Không dùng lời lẽ nặng nề dao to búa lớn, nói như một
nhà sư phạm “không cần dùng búa để mổ một con gà”.
- Một điều tối kỵ đối với học sinh cá biệt, đó là không được đánh học
sinh- dù chỉ là một cái tát tay. Bởi theo lời giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, thì “Quả
đấm không phải là khoa học”.
- Không bỏ mặc và phủ nhận những chuyển biến của học sinh cá biệt.
Những thay đổi theo chiều hướng tích cực của học sinh- dù nhỏ cũng đáng trân
trọng và phải ghi nhận.
3.1.2. Những điều nên làm
3.1.2.1. Dùng tình cảm để cảm hóa các em
Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng nhân cách của
các em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết người
tốt chung quanh ta, nhiều lắm! các em cần được đối xử tử tế, cần được yêu
thương và tôn trọng. Không ai được ngược đãi các em vì các em học chậm. Các
em có quyền được đặt câu hỏi và yêu cầu thầy cô giáo giải thích cho em hiểu.
Chính vì vậy mới cần có trường học. Và đó là lý do tại sao cần có thầy cô giáo...
Để hiểu học sinh “cá biệt”, trước hết phải biết chấp nhận các em vô điều
kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn về những đề
tài các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng “thuật ngữ” của các em. Đó là cách
mang các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm tin đủ
lớn, người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư duy, định
hướng nhận thức...
Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt này, nếu
không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở lại về
phía học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong
vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông".
Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy
trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, nhưng không nên xử lí một cách cứng
nhắc. Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì chúng ta hãy

tạo cho học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn
lên. Còn đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm
thường xuyên thì ta không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng
đối tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ, cũng cần xử lí trên cơ
sở giáo dục các em, để các em biết nhận lỗi và tạo những việc làm cụ thể, giao
cho em đó thời gian thử thách, cho em đó có cơ hội chuộc lỗi, làm một việc tốt.
3.1.2.2. Kiên trì tạo niềm tin
Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các em! Để điều
hành được học sinh “cá biệt”, người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì nhà mô
phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi thì nhà tâm
lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn...
Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi.


Từ cảm giác được thầy cô không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen
ngợi, động viên và tặng trái tim, ghi điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra giá
trị của bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần học tập
được nhân lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng đối với tập thể lớp, từng bước
hòa mình vào tập thể, góp phần đưa tập thể lớp tyheem nhiều tiến bộ.
Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở,
động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh
nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng
khiến cho học sinh sẽ có tâm lý bất cần "Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta”. Ta phải
làm sao tạo cho học sinh có cảm giác giáo viên như là một người bạn thân, bạn
tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể
chia sẻ với thầy cô, thầy cô sẵn sàng khích lệ, động viên mình khi mình gặp khó
khăn trong gia đình, cuộc sống cũng như những bế tắc trong học tập.
GVCN cần giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng
hạn ban đầu là phải thức dậy sớm hơn một chút để không phải đi học muộn,
mình học yếu thì nên chịu khó, chăm chỉ làm bài tập hơn các bạn. Khi học, nếu

mệt hoặc không thấy vào đầu thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi học tiếp,
không nên cố gắng quá sức. Như vậy, giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa
hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ,
như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình
ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không
quan trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương” hàng ngày, không
phải làm những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà.
3.1.2.3. Biết chấp nhận và yêu thương
Frank McCourt, một thầy giáo người Mỹ trong hồi ức “Người thầy” đã
kể: Trường hướng nghiệp nơi thầy dạy được xem là “bãi rác” cho những học
sinh không đủ trình độ vào trường trung học bình thường. Ngày nhận lớp cũng
là ngày thầy đứng quan sát chúng quậy phá, la ó... đủ kiểu. Cao điểm là lấy
bánh mì ném nhau và một học sinh lên tiếng: “Để xem tay thầy giáo mới này sẽ
làm gì?”.
Frank McCourt nói ông cố nghĩ về những kiến thức được học ở Trường
ĐH Sư phạm New York để tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ có những triết lý giáo
dục, các mệnh lệnh đạo đức và luân lý, mà không có cách giải quyết tình
huống... “ném bánh mì”. Cuối cùng, ông quyết định... ăn chiếc bánh. Ông viết:
“Đó là hành xử đầu tiên của tôi trong lớp. Cái miệng đầy bánh của tôi thu hút
sự chú ý của cả lớp. Chúng trố mắt nhìn tôi đầy nét thán phục... Tôi nghĩ, tôi đã
nắm được chúng trong tay...”.
3.1.2.4. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình
Giáo dục HSCB còn một yêu cầu quan trọng, thầy, cô phải giỏi nghề.
Thầy, cô luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau “mới” hơn tiết
trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam mê
học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình.
Thầy, cô biết hỏi “gợi mở” mang tính “phát động”, nhất định sẽ nhận
được câu trả lời độc đáo. Thầy hỏi: “Theo em cô Tấm có mặt nào tốt, mặt nào



chưa tốt. Em thích Tấm ở đức tính gì?”. Trò mạnh dạn trả lời: “Em không thích
nhân vật Tấm. Tấm chỉ sống dựa vào người khác. Tấm cũng ác không kém gì
mụ dì ghẻ. Tấm lừa giết Cám để trả thù. Tấm thật đáng sợ”. Ta khoan bình luận
đúng sai. Em học sinh dám đưa ra một đánh giá riêng của mình. Cũng giống
Phùng Quán phê phán câu ca dao cổ: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Hoa sen đẹp, lại có hương thơm, nhờ có “bùn”. Tại sao sen lại vô tình “không
tanh mùi bùn”.
Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, việc làm đó sẽ “lấp
đầy” khoảng thời gian “chết”, trò không “nhàn cư…” nghịch, đánh cờ ca rô,
nhắn tin… ngay trong tiết học.
Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những yêu cầu về bài tập ở nhà. Hoặc trả
lời tỉ mỉ, cụ thể những câu hỏi hay những thắc mắc của các em, tránh để học
sinh cảm thấy mình lạc lõng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm,
ai cũng khinh rẻ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình, Cả thầy cô giáo cũng
ghét mình, coi mình là người thừa trong tập thể lớp.
Giáo dục HSCB là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô đứng trên
bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cả khán
giả- tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng phải hiểu trò đang
nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món ăn”, nếu nhàm chán, học
trò sẽ bỏ ăn- bỏ học.
3.1.2.5. Phải biết tác động vào động cơ học tập
Tác động vào động cơ học tập để các em thấy rõ tầm quan trọng của việc
học. Có thể đưa ra một số tranh ảnh về nạn thất học- chỉ mới mấy tuổi đầu
không được đến trường, phải làm những việc nặng nhọc của người lớn rồi lại bị
bạn bè khinh thường, xa lánh, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Ngược lại
những em có học thì làm việc thuận lợi dễ dàng, càng ngày càng tiến thân, bạn
bè ngưỡng mộ phải trầm trồ khen ngợi, cha mẹ được nở mày, nở mặt.
3.1.2.6. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng
Giáo viên phải biết trân trọng những gì là tốt dù rất nhỏ của HS. Một lời
động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất nhỏ cũng đủ

làm cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích.
Hãy mạnh dạn giao việc cho chúng, hướng dẫn các em để chúng làm theo
định hướng của mình nhưng vẫn phải để “đất” cho các em thể hiện tính sáng
tạo, tuyệt đối không được áp đặt.
3.1.2.7. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội
Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy hợp lí giá trị, tác dụng của dư luận
xã hội.
Phát huy vai trò của ban đại diện hội cha mẹ HS.
Tổ chức các buổi ngoại khóa tuyên truyền giáo dục học sinh trong các giờ
sinh hoạt lớp hoặc các giờ học tự chọn.


Thường xuyên thăm gia đình HS để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần gũi
giữa giáo viên, HS và PHHS. Không nên chỉ khi các em có khuyết điểm mới
đến thăm gia đình.
3.2. Đối với giáo viên bộ môn
Mỗi một giáo viên bộ môn, hãy cố gắng dạy tốt môn học của mình, hãy
chú ý đến mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt, học sinh yếu,
kém, học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn để tận tình giúp đỡ các em, giúp
cho các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mà mình đã truyền đạt. Tích cực nâng cao
chất lượng tiết dạy, chú ý ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả
để kích thích sự ham học, hứng thú của học sinh đối với tiết học, chú trọng việc
lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức học sinh thông qua các môn học như: Văn
học, Lịch sử, Địa lý, Sinh học và đặc biệt là môn Giáo dục công dân có vị trí
quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm
chất, đạo đức, về quyền và nghĩa vụ công dân, sẽ giúp học sinh có thái độ tích
cực và thực hiện những hành vi đúng đắn phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức xã hội.
3.3. Đối với Đoàn thanh niên
Tăng cường công tác quản lý nề nếp học sinh trong các buổi đầu giờ, giữa

giờ và tan ca.
Có mặt ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm có thể xảy ra đối với học
sinh.
Thành lập các đội Thanh niên cờ đỏ nhằm đôn đốc nhắc nhở các trường
hợp hoạc sinh vi phạm, theo dõi các lượt vi phạm của học sinh các lớp trừ điểm,
đánh vào thi đua…
Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt
tập thể, các hoạt động phong trào nhân dịp chào mừng các ngày lễ lớn trong
năm. Từ đó, lôi kéo các em tham gia để các em nhận thấy“Mỗi ngày đến trường
là một ngày vui” từ đó tạo niềm hứng khởi cho các em trong hoạt động và học
tập.
3.4. Đối với Ban đại diện cha mẹ học sinh
Cần quan tâm thường xuyên đến việc học tập của con cái cả ở trường và ở
nhà.
Thường xuyên giữ mối lien lạc với GVCN hoặc qua các kênh thong tin để
nắm tình hình học tập của con, từ đó có biện pháp nhắc nhở, uốn nắn, xử lý cho
kịp thời, phù hợp.
Có thể thấy, việc giáo dục HSCB không phải chỉ là trách nhiệm của một
người mà cần có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
4. Hiệu quả của SKKN
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên trong công tác chủ nhiệm (Từ
tháng 12 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015) tôi đã thu được nhiều kết quả đáng
mừng từ công tác chủ nhiệm:
- Tập thể lớp liên tục đạt được tuần học tốt, xếp thứ 1,2,3 trong khối đại trà.


- Được tuyên dương và nhận thưởng trong các đợt tổng kết phong trào thi đua
chào mừng các ngày lễ lớn trong năm do Đoàn Thanh niên và Nhà trường phát
động.
- Đạt giải trong Hội chợ Ẩm thực chào mừng ngày Thành lập Đoàn TNCS Hồ

Chí Minh, làm tập san chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11.
- Nhiều em tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao. Trong đó
có cả những HSCB.
- Trong số các học sinh cá biệt, đã có nhiều em vươn lên đạt nhiều thành tích
trong học tập và rèn luyện. Có em đã đạt học sinh tiên tiến và mạnh dạn đăng ký
tham gia ôn đội tuyển HSG.
- Tập thể lớp không còn hiện tượng học sinh đi học muôn, vi phạm các nội quy
của nhà trường, của Đoàn thanh niên và của tập thể lớp đề ra.
- Không còn hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức, tham gia đánh nhau, không
có học sinh bị ra Hội đồng kỷ luật của nhà trường.
Kết quả cụ thể như sau:
* Kết quả đối chứng:
Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 10A4- Học kỳ I- Năm học 2013- 2014:
SL Học lực

39

Hạnh kiểm

Khá

TB

Yếu

Tốt

SL %

SL %


SL %

SL

9

27 69,2 3

23

7,8 18

Khá
%

SL

46,1 17

TB

Yếu

%

SL

%


SL %

43,
5

3

7,8

1

2,6

* Kết quả thể nghiệm:
Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 10A4- Năm học 2013- 2014.
SL Học lực

39

Hạnh kiểm

Khá

TB

Yếu

Tốt

SL %


SL %

SL %

SL

10

28 71,8 1

25,
6

2,6 20

Khá

TB

Yếu

%

SL

%

SL


%

SL %

51,
3

17

43,
5

2

5,3

0

0

Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 11A4- Học kỳ I- Năm học 2014- 2015.
SL Học lực
Khá

Hạnh kiểm
TB

Yếu

Tốt


Khá

TB

Yếu


SL %
38

12

SL %

SL %

31,6 24 63,2 2

SL

5,2 18

%

SL

%

SL


%

SL %

47,4 19

50

1

2,6

0

0

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Như chúng ta đã biết, giáo dục học sinh cá biệt là một nhiệm vụ vô cùng
khó khăn, phức tạp và rất khó thành công trong một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi
một quá trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự trách nhiệm của các giáo viên chủ
nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên, cùng sự quan tâm chia sẻ thường xuyên từ phía
phụ huynh, gia đình.


Có thể nói, giáo dục đạo đức cho học sinh là một bộ phận của quá trình
giáo dục tổng thể nên phải đảm bảo chặt chẽ của quy trình quản lý giáo dục.
Quy trình giáodục đạo đức học sinh là một quy trình mang tính toàn vẹn và
thống nhất từ: Lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện; chỉ đạo; kiểm tra, đánh giá

kết quả. Tuy rằng mỗi chức năng có vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ, đan xen và bổ sung cho nhau; thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo cơ
sở, điều kiện cho các chức năng tiếp theo. Để thực hiện hiệu quả công tác giáo
dục đạo đức học sinh thì bên cạnh việc xây dựng những nội quy kỷ luật học
sinh, cần phải xây dựng nội quy kỷ luật lao động của giáo viên, cần tạo ra bầu
không khí tâm lý tích cực trong nhà trường, giáo viên có quan hệ đồng nghiệp
thân thiết, tương trợ, đoàn kết lẫn nhau, có môi trường sống lành mạnh, sự mẫu
mực trong sinh hoạt, lối sống của giáo viên sẽ là tấm gương soi sáng và có tác
dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh. Công tác giáo dục đạo đức học sinh
trong giai đoạn hiện nay càng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, cần thiết hơn
khi toàn Đảng, toàn dân ta đang tích cực tham gia cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ ChíMinh”. Nó sẽ là nguồn lực tinh thần to lớn
để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục đạo đức học sinh là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó giáo
dục ở nhà trường có vai trò định hướng. Đó là sứ mệnh lịch sử, là vinh dự và
trách nhiệm mà xã hội giao cho nhà trường và mỗi chúng ta nói riêng, ngành
giáo dục và đào tạo nói chung.

KIẾN NGHỊ
Để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi có hiệu quả tôi xin có một
vài ý kiến đề xuất với các cấp lãnh đạo như sau:
Thứ nhất, về phía Nhà trường:
- Đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi trường thân thiện,
xây dựng CSVC, khu vui chơi giải trí, thể thao. Tổ chức các buổi hoạt động
tham quan dã ngoại để lôi cuốn các em đến trường, làm cho các em thực sự thấy
“ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
- Xây dựng chuyên đề về giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường.
- Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Sưu tầm và đưa các trò chơi
dân gian, có thể sáng tạo các trò chơi dân gian cho phù hợp với thời đại ngày
nay vào trong nhà trường.

- Tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe vị
thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các em có đủ hành trang
bước vào cuộc sống, không bị bỡ ngỡ, bất ngờ. Khi gặp phải những tình huống
bất ngờ các em biết bình tĩnh xử lí hiệu quả nhất.
Thứ hai, về phía Giáo viên chủ nhiệm:


- Cần thực hiện hết chức năng và nhiệm vụ của mình.
- Phải có lòng vị tha và hết lòng yêu thương học sinh như người cha đối với con
cái. Cố gắng xây dựng tập thể lớp tự quản tốt.
Thứ ba, về phía Đoàn thanh niên: cần phát động nhiều phong trào để thu
hút học sinh tham gia và phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong việc
giáo dục đạo đức học sinh.
Thứ tư, về phía Gia đình học sinh:
- Cha mẹ, ông bà nên sống mẫu mực để làm gương cho con cháu.
- Cha mẹ, ông bà cần phải quan tâm đến con cháu nhiều hơn từ tâm tư, nguyện
vọng đến việc học và hãy bỏ tư tưởng phó mặc con mình cho nhà trường.

Trên đây là Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục học sinh
cá biệt ở trường THPT Hồng Quang” của tôi. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình TCLLCT-HC.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc cáckhóa VIII,
XI.
3. Tài liệu bồi dưỡng công tác chủ nhiệm trường trung học, tác giả TS.Phan Thị
Tố Oanh, trường Cán bộ quản lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh- năm 2012.

4. Hướng dẫn số 30/HD-SGDĐT của Sở giáo dục và đào tạo Yên Bái.
5. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá
trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trunghọc phổ
thông có nhiều cấp học.
6. Thông tư số: 08/TT ngày 21/03/1988 của Bộ giáo dục hướng dẫn về việc
khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh.
7. Thông tư số: 58/2011/TT-BGDĐT, thông tư ban hành Quy chế đánh giá, xếp
loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông.


ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………



×