Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp hướng dẫn giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị cho HS lớp 3 trường TH đông thịnh, huyện đông sơn, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.31 KB, 18 trang )

Mục lục
Số
TT
1

Nội dung

Trang

1. Mở đầu

2

2

1.1.Lí do chọn đề tài.

2

3

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

3


5

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

6

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.

3

7

2.1. Cơ sở lí luận của SKKN

3

8

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

4

9

2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

5


10

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
GD, với bản thân, với đồng nghiệp.

15

11

3. Kết luận – Kiến nghị

12

3.1. Kết luận

16

13

3.2 Kiến nghị

17

14

Tài liệu tham khảo

18

1



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong thời kì hội nhập quốc tế và phát triển đất nước giai đoạn hiện nay,
Đảng và nhà nước ta luôn đề cao và khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Một đất nước muốn giàu mạnh phải có một nền giáo dục vững chắc. Với
quan điểm như vậy trong những năm gần đây nền giáo dục nước nhà có một
bước tiến vượt bậc. Học sinh của chúng ta đã dành được rất nhiều giải thưởng
lớn trong các kì thi Olimpic quốc tế về môn Toán, Vật lí, Hóa học... Để đào tạo
những thế hệ tương lai là nhân tài cho đất nước thì đòi hỏi phải có những người
thầy vừa có tâm vừa có tài. Đáp ứng và phục vụ nhu cầu đó giáo dục phải có
những giải pháp mới nâng cao chất lượng dạy và học nhằm tạo một sản phẩm có
chất lượng tốt cả về trí thức lẫn năng lực lao động. Bậc Tiểu học là bậc học vô
cùng quan trọng đặt nền móng cho cả quá trình học tập của các em sau này, là cơ
sở ban đầu để hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Chương trình ở
Tiểu học bao gồm nhiều môn học. Trong đó môn Toán chiếm một vị trí rất quan
trọng. Toán học là môn học thiên về rèn luyện tư duy của học sinh, là môn thể
thao của trí tuệ. Học toán và giải toán là một trong những biểu hiện của sự phát
triển năng lực của học sinh. Đối với học sinh thì giải toán là hoạt động chủ yếu
của hoạt động toán học. Đặc biệt là “Giải bài toán liên quan đến rút về đơn
vị” của học sinh lớp 3, dạng toán này có nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi
hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế hàng ngày.
Sau khi dạy giải toán ở lớp 3 nhiều năm tôi thấy các em nắm được kĩ năng giải
toán của giáo viên tuyền đạt còn máy móc, thiên về lí thuyết còn nó ứng dụng và
có đúng với thực tế không thì các em không biết. Đó là điều băn khoăn trăn trở
của mỗi người giáo viên. Khi làm bài giải xong các em không cần thử lại xem
nó có đúng với thực tế không, vì vậy mới có tình trạng học sinh giải bài toán sai,
đó là tác hại khi học toán không ứng dụng với thực tế. Xuất phát từ tình hình
thực tế qua nhiều năm giảng dạy tôi đã nghiên cứu, rút ra “Một số biện pháp

hướng dẫn học sinh lớp 3 giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị.”
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của sáng kiến giúp giáo viên Tiểu học nắm được quy trình giảng
dạy bài toán liên quan đến rút về đơn vị, làm cho việc giảng dạy dạng bài toán
này đạt kết quả cao.
Giáo dục Tiểu học là nền tảng giúp các em có những kiến thức vững chắc
cho việc học tốt các lớp trên. Môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh có
những cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại
2


lượng thông dụng, một số yếu tố hình học đơn giản. Hình thành các kĩ năng tính,
đo lường,... Giải toán có nhiều ứng dụng trong thực tế.
Trong đó biết giải toán có lời văn đối với các em là rất quan trọng. Từ đó
các em có vốn kĩ năng tính toán chính xác đúng với thực tế cuộc sống. Tạo cho
các em có tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra,
có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó, cẩn thận kiên trì và
tự tin. Đặc biệt đối với HS lớp 3 việc giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị
giúp các em có kĩ năng học tốt dạng toán về đại lượng tỉ lệ thuận và tỉ lệ nghịch
sau này. Các em biết so sánh, đối chiếu sự giống và khác nhau giữa 2 kiểu bài,
từ đó các em tránh nhầm lẫn khi giải 2 kiểu bài này. Vậy nên mỗi người giáo
viên phải có phương pháp khéo léo, phù hợp với quá trình nhận thức của các em,
giúp các em nhẹ nhàng tiếp thu và nhớ được kĩ năng giải toán.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp hướng dẫn giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị cho
học sinh lớp 3 trường Tiểu học Đông Thịnh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu :
Khi tiến hành nghiên cứu tôi thường sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp lí luận:
Tìm hiểu SGK, SGV, chương trình bồi dưỡng giáo viên Tiểu học, sách

tham khảo.
Học hỏi đúc rút kinh nghiệm từ các đồng nghiệp.
Điều tra học sinh, các loại vở bài tập
+ Phương pháp thống kê, tổng kết rút kinh nghiệm:
Kiểm tra chất lượng học sinh ở từng giai đoạn.
GV rút kinh nghiệm cho mình, tổng kết thành các bài học cơ bản.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM
2.1. Cơ sở lí luận:
Trong mỗi hoạt động nhận thức của học sinh Tiểu học khi học các bài toán
giải liên quan đến nhiều phép tính các em rất khó tiếp thu và hay nhầm lẫn dễ
dẫn đến làm sai. Để giải một bài toán có lời văn phải đòi hỏi trí thông minh, óc
tư duy phân tích tổng hợp: Phân biệt những gì thuộc về bản chất của đề toán,
những gì không thuộc về bản chất của đề toán. Đối với học sinh lớp 3 việc “Giải
bài toán liên quan đến rút về đơn vị” là một trong các dạng toán các em thường
nhầm lẫn khi giải các bước: các em nhầm lẫn giữa 2 kiểu bài, nhầm lẫn đơn vị
và hay viết sai câu lời giải. Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3 thực chất
là những bài toán thực tế. Nội dung bài toán liên quan đến những vấn đề cuộc
3


sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán này là phải làm rõ được các
yếu tố đã cho, bắt phải tìm cái gì để nêu ra phép tính thích hợp và đáp số của bài
toán đúng và sát với thực tế. Vì vậy khi dạy dạng toán này người giáo viên phải
đầu tư suy nghĩ tìm ra phương pháp giảng dạy giúp các em dễ hiểu và dễ nhớ
nhất, giúp các em nắm chắc phương pháp giải và nắm chắc dạng toán này.
2.2. Thực trạng chung của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
1. Thuận lợi:
Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện, chỉ đạo nâng cao chất lượng giảng
dạy, nâng cao tay nghề cho giáo viên.
- Giáo viên nhiệt tình trong công tác giảng dạy đều được trang bị đầy đủ

các thiết bị dạy học: SGK, SGV, các sách tham khảo và các buổi học chuyên đề.
2. Khó khăn:
- Đối với giáo viên: Giáo viên khi dạy học môn Toán còn thiếu linh hoạt
trong việc sử dụng các các hình thức dạy học, chưa sáng tạo trong các hoạt động
dạy học diễn ra trên lớp.
- Đông Thịnh là một xã thuần nông, nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng, đời
sống kinh tế còn nhiều nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến điều kiện và chất lượng
học tập của học sinh.
- Nhiều gia đình bố mẹ đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, gửi con ở nhà
cho ông bà già yếu nên không quán xuyến được việc học tập của các em.
- Học sinh: Lứa tuổi các em còn ham chơi khả năng tập trung chú ý còn hạn
chế. Các em chưa cẩn thận trong khi làm bài, có em khi đọc đề bài xong là làm
ngay không tìm hiểu kĩ đề bài, làm xong không kiểm tra kết quả bài làm.
Có em hiểu nhầm đề bài, không chú ý đến dữ liệu của bài toán đưa ra, đặt
lời giải chưa chính xác với phép tính.
- Qua thực tế giảng dạy tôi thấy:
+ Các em chưa nắm được bản chất của dạng toán nên giải sai hoặc dập
khuôn theo bài mẫu.
+ Học sinh chưa tham gia tích cực vào các hoạt động học tập và kĩ năng
trình bày bài chưa tốt.
+ Học sinh chưa có tính cẩn thận khi làm bài và chưa có kĩ năng kiểm tra
kết quả bài giải.
Từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành ra đề bài khảo sát, từ đó biết những lỗi
mà học sinh thường mắc để có biện pháp giúp đỡ.
Đối tượng: Học sinh lớp 3A trường Tiểu học Đông Thịnh.
Số học sinh tham gia khảo sát: 32 em.
4


Tổng

số
HS
32

Hoàn thành tốt (T)

Hoàn thành (H)

Chưa hoàn thành (C)

SL

TL

SL

TL

SL

TL

10

31,2%

17

53,1%


5

15,7%

Qua việc khảo sát tôi thấy học sinh (HS) chưa giải tốt dạng toán này do các
nguyên nhân:
- Các em không đọc kĩ đề bài trước khi giải.
- Chưa hiểu được mối quan hệ giữa các đại lượng của bài toán.
- HS chưa nắm được quy trình giải. Khi giải trình bày lời giải và tên đơn vị
thường nhầm lẫn, quên mất phương pháp thử lại kết quả.
2.3. Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Để học sinh làm tốt dạng toán giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị
người giáo viên phải cho các em thấy được mối quan hệ giữa dạng toán với các
kiến thức liên quan: Tìm một phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều
lần... Dạng toán liên quan đến rút về đơn vị được đề cập ở SGK Toán qua một
tiết hình thành kiến thức mới tiết 122 (SGK tr.128) sau đó là hai tiết luyện tập
123, 124 (SGK tr. 129) và tiết 157, 158 (SGK tr. 166, 167).
Giúp HS làm tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị trong chương trình
toán lớp 3 tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
2.3.1. Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán:
Muốn HS làm bài toán giải tốt tôi cho HS nắm vững qui trình chung để làm
một bài toán giải.
Bước 1: Đọc bài toán (đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc bằng mắt).
Tìm hiểu một số từ ngữ quan trọng để hiểu nội dung, nắm bắt bài toán cho
biết gì và bắt tìm gì, mối liên hệ giữa các dữ kiện, cần suy nghĩ kĩ không được
vội vàng.
Bước 2: Tóm tắt bài toán (tóm tắt bằng lời, bằng hình vẽ, tóm tắt bằng sơ
đồ).
Cho học sinh diễn đạt bài toán thông qua tóm tắt. Với học sinh lớp 3 tôi chỉ
hướng tới cách tóm tắt dễ hiểu nhất: Tóm tắt bằng chữ, tóm tắt bằng chữ và dấu.

Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, tóm tắt bằng hình vẽ.
Bước 3: Lập kế hoạch giải bài toán.
Xác định trình tự giải bài toán, thông thường xuất phát từ câu hỏi của bài
toán đi đến các yếu tố đã cho. Xác lập mối quan hệ giữa các điều kiện đã cho với
yêu cầu bài toán phải tìm được đúng phép tính số học thích hợp. Bước này là
5


bước quan trọng trong giải toán, lưu ý học sinh cách tập phân tích: cho biết gì?
Hỏi gì, muốn tìm ra ta cần biết gì, yêu cầu học sinh lập luận theo nhiều chiều.
Bước 4: Thực hiện cách giải.
- Viết câu lời giải
- Viết phép tính tương ứng
- Viết đáp số.
Bước 5 : Kiểm tra bài giải.
Kiểm tra số liệu, kiểm tra tóm tắt, kiểm tra phép tính, kiểm tra câu lời giải,
kiểm tra kết quả cuối cùng có đúng với yêu cầu bài toán. Thử lại kết quả đáp số
đã phù hợp với yêu cầu của bài chưa.
Sau khi học sinh đã nắm được các bước giải bài toán tôi hướng dẫn tỉ mỉ
từng bước để các em nắm được kiến thức một cách tốt nhất.
a. Tìm hiểu đề bài
Ví dụ: Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị đối với tiết hình thành kiến
thức mới tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài như sau:
Bài toán 1: (trang 128 SGK Toán 3)
Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?
Đây là bài toán đơn học sinh đã biết làm ở các tiết học trước nên khi học
sinh đã đọc đề bài nhiều lần, tôi nêu câu hỏi.
+ Em hiểu “chia đều” ở bài toán này là chia như thế nào?
+ Bài toán yêu cầu tìm “mỗi can” tức là tìm mấy can?
Tôi giải thích để các em rõ “chia đều” ở bài toán này là chia vào các can

mà mỗi can có số lượng mật ong như nhau, “mỗi can” ở đây tức là một can.
Bµi to¸n 2: Cã 35 lÝt mËt ong chia ®Òu vµo 7 can. Hái 2
can nh thÕ cã mÊy lÝt mËt ong?
Bài toán cho ta biết gì?
GV giảng: 35l mật ong là số lít mật ong của 7 can đựng được, là giá trị của
7 phần bằng nhau.
Bài toán yêu cầu ta tìm gì ? (2 can có mấy lít mật ong)
GV: 2 can là giá trị của 2 phần bằng nhau.
Ở các bài tập phần luyện tập trang 128 của tiết hình thành kiến thức mới:
Bài 1: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc có bao nhiêu
viên thuốc?
Bài 2: Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó bao nhiêu kg gạo?
Đối với dạng toán liên quan đến rút về đơn vị đều có những khái niệm
“chứa đều”, “đựng đều” “chia đều”… tất cả các khái niệm này cho ta biết số
lượng thuốc ở mỗi vỉ, số kg gạo ở mỗi bao đều bằng nhau.
6


b. Tóm tắt bài toán
Với dạng toán liên quan đến rút về đơn vị thì việc tóm tắt đề toán là việc
làm bắt buộc vì khi HS tóm tắt đề bài tức là các em đã hiểu rõ dạng toán và tóm
tắt bài toán đã giúp các em định hình trong đầu các bước giải bài toán đây là
dạng toán 1 hay là dạng toán 2.
Có nhiều cách tóm tắt nội dung bài toán: Tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng
hình vẽ, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng,… Đối với dạng toán liên quan đến việc
rút về đơn vị, chủ yếu tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng lời.
Ở bài toán 1 phần hình thành kiến thức mới tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt:
Bài 1: (tr.128 SGK):
Tóm tắt
7 can: 35 l mật ong

1 can: .. l mật ong?
Bài 2: ( tr.128 SGK)
Tóm tắt
7 can: 35l mật ong
2 can: .. l mật ong ?
Lưu ý học sinh khi tóm tắt thì các giá trị của cùng một đại lượng phải trình
bày thẳng cột.
Ở bài 1, 2 phần luyện tập, các bài toán này không có tóm tắt mẫu nên sau
khi tìm hiểu đề bài xong tôi yêu cầu học sinh tự tóm tắt bài toán. Đa số các em
tự tóm tắt được bài toán trước khi giải, xong cũng có một số học sinh tóm tắt
như sau:
Bài 1: (Tr.128 )
Tóm tắt
7 bao có: 28 kg
? kg: 5 bao
Với những trường hợp học sinh tóm tắt sai giáo viên phải hướng dẫn học
sinh lưu ý đến tên của mỗi đơn vị ( đại lượng ) có mấy đơn vị , mối quan hệ giữa
các đơn vị đó và yêu cầu học sinh sửa lại.
Bài 1: (Tr.128)
Tóm tắt
7 bao gạo: 28 kg
5 bao gạo: .. kg?
Đối với học sinh chưa hoàn thành tôi luôn quan tâm theo dõi hướng dẫn tỉ
mỉ và yêu cầu các em khi tóm tắt xong dựa vào tóm tắt nêu lại nội dung bài toán.
c.Hướng dẫn học sinh giải bài toán:
Sau khi học sinh đã tìm hiểu đề bài, tóm tắt được bài toán tôi cho học sinh
nối tiếp nhau trình bày bài giải bằng lời, giáo viên và học sinh nhận xét, tôi sửa
7



trực tiếp cho từng em. Với việc cho học sinh trình bày bài giải bằng miệng giúp
học sinh phát huy tính tích cực, phải động não và nắm bắt được kiến thức của
giáo viên truyền thụ và làm chủ được kiến thức của bài học, với cách học này tôi
sẽ biết những em chưa hiểu bài. Đối với học sinh tiểu học các em nhiều khi chưa
tự tin, không dám nói những gì mình chưa hiểu. Nắm bắt được tâm lí này tôi
luôn động viên các em và giúp các em khắc phục những vấn đề mình chưa hiểu
ngay tại lớp. Tôi gọi 2 em lên bảng trình bày (HS ở mức độ hoàn thành). Cả lớp
trình bày bài vào vở.
Bài 1: (tr.128 SGK)
Bài giải:
Số lít mật ong trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 ( l )
Đáp số: 5 l mật ong
Học sinh dưới lớp đổi vở kiểm tra kết quả của nhau. Đây là một hình thức
day học phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh khi kiểm tra bài của bạn
học sinh một lần nữa nắm bắt được kiến thức bài học và làm chủ được kiến thức
ấy, đồng thời giáo dục các em kĩ năng tự tin trong giao tiếp. Khi HS được trao
đổi kiểm tra bài của nhau giúp HS có ý thức tự giác hơn, tự nắm bắt được vấn đề
và tự giải quyết được vấn đề trong học tập đảm bảo mục tiêu của giáo dục trong
giai đoạn hiện nay.
Tôi luôn lưu ý học sinh viết đúng tên đơn vị vào kết quả phép tính vì nhiều
khi học sinh xác định sai tên đơn vị.
Khi học sinh giải xong tôi hỏi lại để củng cố cách giải:
+ Muốn tìm mỗi can hay một can có mấy lít mật ong ta làm gì? (ta làm tính
chia: lấy số lít mật ong chia cho số can).
Bµi 2: Tr. 128. SGK
Bài 2 tôi hướng dẫn các em thông qua các câu hỏi:
+ Muốn tìm hai can có mấy lít mật ong ta phải biết gì? (Phải biết số lít mật
ong ở một can)
+ Số lít mật ong ở một can đã cho biết chưa? (chưa cho biết).

+ Vậy ta phải tìm số lít mật ong ở một can. Sau đó ta mới tìm số lít mật ong
trong 2 can.
Giáo viên nêu các bước giải:
1. Tìm số lít mật ong ở một can.
2. Tìm số lít mật ong ở 2 can.
1 HS lên giải bài toán.

8


Bài giải:
1 can đựng số lít mật ong là:
35 : 7 = 5 (l )
2 can đựng được số lít mật ong là:
5 x 2 = 10 (l )
Đáp số: 10 l mật ong
Khi ta tìm được số lít mật ong trong 1 can thì ta có thể tìm được số lít mật
ong trong 3, 4, 5, 6, 7,8, .... can một cách dễ dàng. (Ta áp dụng quy tắc gấp một
số lên nhiều lần để tính).
GV cần nhấn mạnh phép tính ở lời giải 2 bao giờ số lần gấp cũng phải đứng
sau.
Tôi lưu ý cho học sinh trong một bài toán không chỉ có một câu lời giải mà
có thể có nhiều câu lời giải khác nhau miễn sao ta chọn câu lời giải ngắn gọn,
phù hợp với yêu cầu của bài toán.
Ví dụ cũng với bài toán trên tôi phát huy tính tích cực của HS bằng cách
cho HS thi đua tìm các câu lời giải khác mà vẫn phù hợp với yêu cầu bài toán.
HS lớp tôi đưa ra được 1 số lời giải khác (Số lít mật ong chứa trong 1 can là;
Mỗi can có số lít mật ong là; 1 can chứa số lít mật ong là; Số lít mật ong có
trong mỗi can là). Với phương pháp này tôi đã thành công trong việc phát huy
sự sáng tạo, tư duy toán học của mỗi học sinh, không gò bó hoặc áp đặt giúp cho

cá em hiểu bài hơn và làm chủ được kiến thức của mình. Qua nhiều năm áp
dụng tôi thấy học sinh làm bài rất tốt và rất tự tin.
Bài giải
Số lít mật ong đựng trong một can là:
35: 7 = 5 (l )
Số lít mật ong trong 2 can là:
5 x 2 = 10 ( l )
Đáp số: 10 l mật ong
Sau khi hướng dẫn học sinh giải xong bài toán 2 giáo viên củng cố cho học
sinh về dạng toán và rút ra cách giải.
* Giáo viên nhấn mạnh:
+ Đây là bài toán thuộc dạng toán “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn
vị”, ta giải qua 2 bước.
- Bước 1: Tìm giá trị của 1 phần. (thùc hiÖn phÐp chia)
- Bước 2: Tìm giá trị của nhiều phần. (thùc hiÖn phÐp nh©n)
+ Trong 2 bước giải trên bước 1 là bước rút về đơn vị

9


Ở phần luyện tập. Tôi yêu cầu HS làm bài 1, 2 để học sinh được luyện tập
và củng cố cách giải.
Bài 1: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao
nhiêu viên thuốc?
Bài 2: Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu kg
gạo?
Tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài tự tóm tắt bài toán và giải vào vở. Tôi
cho một em lên bảng trình bày bài làm của mình, học sinh dưới lớp đổi vở cho
nhau nhận xét kết quả.
Tôi luôn tìm ra những học sinh làm sai gọi em lên bảng kiểm tra xem học

sinh sai vì cái gì: có thể em chưa hiểu dạng toán, sai lời giải, sai tên đơn vị hoặc
sai kết quả phép tính, các em sai phần nào tôi giảng lại cho em hiểu và tôi ra một
bài toán tương tự yêu cầu em làm lại. Với cách làm này tôi thấy học sinh tiến bộ
rất nhanh, các em không dấu dốt, phần nào chưa hiểu các em đề nghị tôi giảng
lại khi nào hiểu mới thôi.
Để HS hiểu và làm thành thạo dạng toán này giáo viên cần lưu ý HS: Bước
tìm một can mật ong chứa bao nhiêu lít, một vỉ thuốc có bao nhiêu viên thuốc,
một bao gạo đựng được mấy kg (tức là tìm giá trị của 1 phần) là bước rút về đơn
vị. Khi giải dạng toán này bao giờ ta cũng phải thực hiện bước tìm giá trị của 1
phần. Sau đó tôi yêu cầu các em tự tóm tắt và giải bài toán có lời văn mà các em
vẫn thường làm.
* GV hướng dẫn HS giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng
nhiều cách:
Tôi hướng dẫn HS hoàn thành tốt nêu nhiều cách giải, và biết cách so
sánh lựa chọn cách giải hay nhất .
Ví dụ: Bài 2 trang 128
Cách 1:
Bài giải
Mỗi bao gạo đựng được là:
28 : 7 = 4 (kg)
Năm bao gạo đựng được là:
4 x 5 = 20 (kg)
Đáp số: 20 kg gạo
Cách 2:
Bài giải
Năm bao gạo đựng được là:
( 28 : 7) x 5 = 20 (kg)
Đáp số: 20 Kg gạo

10



Tụi gii thớch cho cỏc em thy cỏch 2 trỡnh by ngn gn hn nhng cn
phi t duy nhiu hn nờn tụi khuyn khớch HS hon thnh tt nờn ỏp dng theo
cỏch 2 lm bi .
* Phng phỏp gii bi toỏn liờn quan n rỳt v n v gii bng 2
phộp tớnh chia.
õy l kiu bi 2 (tr. 166 SGK) tin trỡnh dy hc tng t nh kiu bi
1. Song hc sinh nhn dng v phõn bit 2 kiu bi tụi cho 2 bi:
Kiu bi 1: Cú 35 lớt mt ong rút u vo 7 can. Hi 2 can cú bao nhiờu lớt
mt ong ?
Kiu bi 2: Cú 35 lớt mt ong ng u vo 7 can. Nu cú 10 lớt mt ong
thỡ ng u vo my can nh th ?
Bài toán 1 tôi yêu cầu học sinh tự giải vì các em đợc học
rồi.
Bài toán 2: Học sinh thảo luận nhóm đôi phân tích bài
toán.
i vi HS trong lp tụi luụn hỡnh thnh cho cỏc em thúi quen v k nng
suy lun khi c bt kỡ bi toỏn no cng phi hiu bi toỏn cho ta bit gỡ? Bt
ta tỡm gỡ?
HS t túm tt bi toỏn ( nu cú HS túm tt cha ỳng tụi s giỳp )
Tóm tắt:
35 l : 7 can
10 l: ...can?
- Lập kế hoạch giải bài toán:
+ Tìm số l mật ong trong mỗi can:
35 : 7 = 5 (l)
+ Tìm số can chứa 10 l mật ong:
10 : 5 = 2 (can)
+ Học sinh tự trình bày bài giải

Qua nhiu nm dy lp 3 tụi nhn thy HS rt hay nhm ln cỏch gii ca
2 kiu bi ny. Vỡ vy tụi ó hng dn HS cỏch phõn bit v so sỏnh cỏch gii
ca 2 kiu bi trờn.
Tôi hớng dẫn học sinh so sánh tóm tắt của 2 bài toán;
Bài toán 1
Tóm tắt:
7 can: 35 l
2 can: ...l ?

Bài toán 2
Tóm tắt:
35 l: 7 can
10 l: ...can?
11


Nhìn vào tóm tắt của 2 bài toán học sinh đã phân biệt đợc sự khác nhau giữa 2 bài toán này và cũng thấy đợc cách giải
của 2 bài là khác nhau.
Bi toỏn 1:
Bi gii
1can ng s lớt mt ong l:
35 : 7 = 5 ( l )
2 can ng s lớt mt ong l:
2 x 5 = 10 ( l )
ỏp s: 10 lớt
Bi toỏn 2:
Bi gii
1 can ng s lớt mt ong l:
35 : 7 = 5 ( l )
10 lớt mt ong ng vo s can l:

10 : 5 = 2 (can)
ỏp s: 2 can
Tụi hng dn HS cỏch gii v rỳt ra cỏch gii ca kiu bi 2:
Bc 1: Tỡm giỏ tr 1 phn. õy l bc rỳt v n v (thc hin phộp
chia)
Bc 2: Tỡm s phn (phộp chia).
c bit khi hc xong kiu bi 2 ny tụi thy HS rt d nhm vi cỏch gii
kiu bi 1 nờn tụi ó hng dn HS cỏch kim tra kt qu bi gii.
Qua quỏ trỡnh gii toỏn tụi thy HS khi gii xong thng khụng kim tra li
bi gii, khi cụ giỏo hi Em cú chc chn kt qu ca mỡnh ỳng khụng nhiu
em cũn lỳng tỳng khụng dỏm khng nh. Vỡ vy vic kim tra kt qu l khụng
th thiu khi gii toỏn v nú phi thnh k nng i vi HS. Tụi thng hng
dn cỏc em kim tra li bi nh sau:
- c li li gii xem phự hp v ỳng vi ni dung bi toỏn cha.
- Kim tra phộp tớnh, tờn n v, ỏp s ỳng cha.
- Th li kt qu ỏp s xem ó phự hp vi yờu cu ca bi cha.
VD: Cỏc em t kt qu tỡm c vo phn túm tt ca bi em s thy
c cỏi vụ lý khi thc hin sai phộp tớnh ca bi gii:
35l: 7 can
35 l: 7 can
10 l: 2can (ỳng)
10 l: 50 can (sai)

12


(GV gii thớch cho HS thy 1 can ng 5 lớt nc mm, vy 10 lớt nc mm
phi ng trong 2 can l ỳng. 1 can ng 5 lớt nc mm vy 10 lớt nc mm
m ng trong 50 can l sai v nú khụng ỳng vi thc t, vỡ bi toỏn liờn quan
n rỳt v n v thng gn lin vi thc t trong cuc sng).

+ Hớng dẫn học sinh so sánh cách giải 2 kiểu bài
( kiểu 1 và kiểu 2)
Kiểu bài 1: (Tìm giá trị của các phần)
Bớc 1: Tìm giá trị của 1 phần (phép chia)
Đây là bớc rút về đơn vị
Bớc 2: Tìm giá trị của nhiều phần (phép nhân )
Kiểu bài 2: Tìm số phần
Bớc 1: Tìm giá trị của 1 phần (phép chia)
Đây cũng là bớc rút về đơn vị
Bớc 2: Tìm số phần (phép chia)
Sau ú, tụi yờu cu hc sinh viết vào sổ tay toán học, hc thuc
ỏp dng nhn dng kiu bi v gii cỏc bi toỏn ú. Khi luyn tp, tụi tin hnh
cho hc sinh luyn lm 2 bi tp song song vi nhau, mc ớch l cỏc em va
lm, va nhn dng, so sỏnh. Sau mi ln luyn tp nh vy nhm cng c kin
thc mt ln na cho cỏc em, tụi thy vi cỏch lm ny HS lp tụi khụng cũn
nhm ln na v hc sinh lm bi rt tt.
2.3.2. Cỏc phng phỏp hng dn hc sinh gii toỏn theo hng phỏt
huy tớnh tớch cc.
Mc ớch ca dy hc gii toỏn Tiu hc l giỳp hc sinh t mỡnh tỡm
hiu c mi quan h gia cỏi ó cho v cỏi phi tỡm, mụ t quan h ú bng
cu trỳc phộp tớnh c th. Vỡ th khi dy dng toỏn ny ngi giỏo viờn phi cú
kinh nghim, nm chc c cỏc dng toỏn t ú a ra nhng cõu hi gi m
giỳp HS d hiu, d nh. Giỏo viờn phi cú phng phỏp ging dy phự hp vi
tng i tng hc sinh. i vi hc sinh hon thnh tt GV cn phỏt huy tớnh
tớch cc ca cỏc em, i vi nhng HS cha hon thnh GV phi ging gii
chm, tng bc cỏc em hiu bi.
Qua thc t tng tit dy trờn lp tụi ó s dng rt nhiu phng phỏp vo
vic hng dn HS gii bi toỏn. Vi gi hc toỏn cỏc hỡnh thc m tụi thng
s dng l hc cỏ nhõn, nhúm, trũ chi,... Cỏc hỡnh thc t chc dy hc linh
hot phự hp trong tng tit hc giỳp cỏc em cm thy t tin hn trong hc tp.

a, i vi bi hỡnh thnh kin thc mi:
Tụi ó la chn cỏc hỡnh thc dy hc khỏc nhau nh cỏ nhõn, nhúm.
13


Bài toán 1: Có 35 lít mật ong đựng đều trong 7 can. Hỏi mỗi can có mấy
lít mật ong?
Đối với ạng bài này tôi cho HS làm bài cá nhân.
Bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật
ong?
Bài toán này là bài toán hợp nên sau khi cho học sinh tìm hiểu đề bài tôi tổ
chức cho học sinh thảo luận theo nhóm đôi và tìm cách giải nhanh nhất.
b, Đối với tiết luyện tập
Bài 1: Trong vườn ươm, người ta đã ươm 2032 cây giống trên 4 lô đất, các
lô đều có số cây như nhau. Hỏi mỗi lô đất có bao nhiêu cây giống?
Bài 2: Có 2135 quyển vở được xếp đều vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng có bao
nhiêu quyển vở?
Bài 3: Lập đề toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó:
Tóm tắt:
4 xe: 8520 viên gạch
3 xe: ………viên gạch?
Bài 2 tôi cho HS làm bài cá nhân, 2 em làm vào bảng nhóm sau đó HS lên
bảng chữa bài (trên bảng nhóm) HS dưới lớp đổi vở kiểm tra kết quả của nhau.
Còn với bài 3, tôi chia lớp thành các nhóm mỗi nhóm khoảng 6 em tổ chức
cho các nhóm thi đặt đề toán theo tóm tắt, thi giải nhanh giải đúng bài toán.. Với
hình thức này các em sẽ cùng phối hợp thi đua nhau làm việc, tất cả đều tham gia
hoạt động học tập, không khí lớp học sẽ sôi nổi, đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo viên lưu ý học sinh khi tự lập đề toán dựa vào tóm tắt phải gắn với
thực tế và phù hợp với nội dung.
Ngoài các phương pháp trên GV lưu ý HS phải tự giác tích cực tiếp thu

kiến thức ngay tại lớp, phải tự giác làm bài không nên có tính ỷ lại chờ bạn
chữa bài để chép.
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn cố gắng giúp tất cả các đối tượng học
sinh trong lớp nắm được kiến thức bài học theo năng lực của mình: lớp tôi chủ
nhiệm có nhiều đối tượng học sinh, tôi phân loại học sinh và có biện pháp kèm
cặp giúp đỡ.
Đối với học sinh hoàn thành tốt tôi tổ chức cho học sinh giải toán nâng dần
mức độ cao hơn.
Yêu cầu giải bài toán có nhiều cách giải khác nhau.
Giải bài toán trong đó phải xét tới nhiều khả năng xảy ra để lựa chọn được
khả năng thích hợp với bài toán.
Tôi có thể giao thêm bài toán cho HS hoàn thành tốt (nếu còn thời gian)
14


Bài toán: Hùng có 9 túi kẹo, Hùng cho bạn 27 viên kẹo thì còn lại 6 túi.
Hỏi Hùng có tất cả bao nhiêu viên kẹo?
- HS đọc kĩ đề bài, xác định dạng toán.
- HS nêu các bước giải và tự giải vào vở.
- GV giúp đỡ nếu các em làm sai.
- 1 HS lên bảng giải.
Bài giải
Số túi kẹo Hùng cho bạn là:
9 - 6 = 3 (túi )
Số viên kẹo có trong 1 túi là:
27 : 3 = 9 (viên kẹo)
Số kẹo Hùng có là:
9 x 9 = 81 (viên kẹo)
Đáp số: 81 viên kẹo
Đối với HS chưa hoàn thành tôi có thể kèm thêm cho các em ngoài các tiết

học trên lớp, trong giờ ra chơi cho các em làm quen với nhiều kiểu bài về bài
toán liên quan đến rút về đơn vị, dần dần các em đã hiểu bài và biết cách giải.
Phối kết hợp với phụ huynh học sinh để cha mẹ có thể kèm cặp thêm cho các
cháu ở nhà.
Tích hợp với các môn học khác để nâng cao hiệu quả:
Khi tích hợp các môn học trong Tiếng việt như: Tập đọc, Tập làm văn,
Luyện từ và câu giúp HS rèn kĩ năng viết lời giải đúng hợp lý với bài toán, viết
đúng chính tả.
Ngoài các hình thức dạy học nêu trên thì người giáo viên cần phải động
viên khuyến khích học sinh học tập tự giác, chủ động sáng tạo theo năng lực.
Bằng việc áp dụng các phương pháp tích cực nêu trên vào quá trình giảng
dạy tôi nhận thấy học sinh có nhiều hứng thú và tiến bộ hơn trong việc học toán,
các em tích cực tham gia vào quá trình học tập trên lớp, thi đua nhau lên bảng
tóm tắt và giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Nhiều em có trình độ H
(hoàn thành) trước đây rất ít xung phong lên giải toán, nhưng thông qua việc
được học dạng toán này các em tự tin hơn, tích cực học tập hơn. Đối với tôi đó
là một động lực rất lớn để tôi có thể tìm tòi, áp dụng những phương pháp dạy
học ngày càng phù hợp hơn và tích cực hơn đối với các thế hệ học sinh, nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục hiện
nay.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hội đồng giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
15


Sau thời gian thực hiện các phương pháp đã nêu ở trên tôi thấy HS lớp tôi
có rất nhiều tiến bộ, nhiều em đã có kĩ năng tóm tắt và giải bài toán thành thạo,
các em biết phân biệt được dạng toán khi đọc kĩ đề bài và dữ liệu đã cho. HS
nắm vững các bước giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị (Kiểu 1 và kiểu 2)
Tôi đã tiến hành khảo sát kết quả:

Tổng
số
HS
32

Hoàn thành tốt (T)

Hoàn thành (H)

Chưa hoàn thành (C)

SL

TL

SL

TL

SL

TL

25

78,1%

7

21,9%


0

0

Qua các bài kiểm tra và việc học tập trên lớp tôi thấy việc áp dụng các
phương pháp trên vào dạy học giải toán liên quan đến rút về đơn vị đã góp phần
nâng cao chất lượng môn Toán. Học sinh lớp tôi rất thích thú và có kĩ năng giải
các bài toán dạng này. Các em nắm được bản chất dạng toán, biết tóm tắt bài
toán và trình bày bài giải một cách thành thạo. Chất lượng HS hoàn thành tốt
nâng cao và không còn học sinh chưa hoàn thành.
3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận:
Bằng thực tế quá trình giảng dạy tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau:
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ SGK, nội dung và yêu cầu trọng tâm của bài
dạy. Từ đó vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt và phù hợp với đối
tượng học sinh. Việc kiểm tra đánh giá thường xuyên giúp GV tìm ra lỗi sai của
các em kịp thời bổ xung, sửa lỗi sai cho học sinh.
Đối với giờ học toán giáo viên nên đưa ra các câu lệnh ngắn gọn, dễ hiểu.
Thiết kế hệ thống câu hỏi hợp lý khi đàm thoại, khi vấn đáp, gắn với thực tế
cuộc sống xung quanh các em.
Giáo viên lưu ý phát huy tính tích cực của các em, động viên khuyến khích
khích lệ các em khi em có sự tiến bộ (khen thưởng những em có nhiều cố gắng
có thể là một cái bút, quyển vở ...).
Giáo viên luôn quan tâ, gần gũi các em để nắm bắt tư tưởng, tâm lý các em
uốn nắn kịp thời nếu em có thái độ lười học, không hiểu bài. Làm sao để học
sinh yêu thích môn toán và xem mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
GV cần có sự phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong việc kèm cặp
thêm cho các em có ý thức tự giác trong học tập, tạo cho các em thói quen yêu


16


thích và có hứng thú với môn toán, tạo tâm lý thoải mái cho các em trong việc
học toán dẫn tới việc các em say mê và yêu thích môn toán.
Giáo viên phải nhiệt tình, chịu khó học hỏi kiến thức qua sách báo, qua
công nghệ thông tin, học tập kinh nghiệm ở đồng nghiệp để kết quả giảng dạy
ngày càng tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ thực tế giảng
dạy. Mặc dù sáng kiến còn nhiều hạn chế và tôi cần phải cố gắng nhiều hơn nữa.
Tôi rất mong được sự đóng góp, bổ sung của các đồng nghiệp, Hội đồng sáng
kiến kinh nghiệm nhà trường để sáng kiến được hoàn chỉnh mang lại hiệu quả
cao hơn về chất lượng giảng dạy của mình.
3.2. Kiến nghị:
Đối với giáo viên: Mỗi người giáo viên phải tích cực tự học, tự tích lũy
kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy và tiếp cận với các phương pháp mới,
để làm sao cho giờ học sinh động, học sinh tích cực hoạt động và hiểu bài, có
hứng thú và yêu thích môn Toán .
Đối với tổ 1, 2, 3: Thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương
pháp dạy học, những sáng kiến hay về dạy học môn Toán, chia sẻ kinh nghiệm
giảng dạy giữa các đồng nghiệp để cho giờ dạy phong phú và hấp dẫn hơn.
Thanh Hóa, ngày 26 tháng 2 năm 2018
X¸c nhận của Thủ trưởng đơn
vị

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến do
tôi viết, không sao chép của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị BÝch Thuû


Nhận xét, đánh giá của Hội đồng SKKN cấp trường

17


.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Toán tiểu học (2001). Hà Sĩ Hồ - Đỗ Đình Hoan Đỗ Trung Hiếu.
2. Bồi dưỡng thường xuyên module TH15: Một số phương pháp dạy học
tích cực ở Tiểu học.
3. Tạp chí giáo dục Tiểu học.
4. Sách Giáo viên Toán lớp 3.
5. Sách Giáo khoa Toán lớp 3.

18



×