Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số biện pháp giúp HS lớp 2 học tốt phân môn tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.7 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Tên
mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3

Nội dung
Mở đầu ………………………………………………………
Lí do chọn đề tài……………………………………………..
Mục đích nghiên cứu..............................................................
Đối tượng nghiên cứu.............................................................
Phương pháp nghiên cứu.........................................................
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.............................................
Cơ sở lí luận.............................................................................
Thực trạng và các vấn đề cần giải quyết..................................
Các giải pháp nhằm giúp HS học tốt phân môn Tập đọc.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục với bản thân, với học sinh. ...............................................
Kết luận, kiến nghị .................................................................
Một số hình ảnh minh hoạ tiết dạy thực nghiệm
Tài liệu tham khảo..................................................................
Danh mục các đề tài SKKN đã được Hội đồng đánh giá XL


cấp Phòng GD & ĐT, cấp Sở GD & ĐT.

Trang
2
2
3
3
3
3
3
6
8
16
17
20
21

1. Mở đầu
1


1.1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỉ 21. Thế kỉ của khoa học, công nghệ, đặc
biệt là thời kì bùng nổ công nghệ thông tin. Đòi hỏi con người phải có trình độ
nhận thức, hiểu biết cao hơn để đáp ứng với sự phát triển đó.
Tại Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 đã khẳng định:
“ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [3]
Nghị quyết 29 khoá 11 của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phải phát triển toàn

diện giáo dục và đào tạo” [3]
Vậy nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo ra những con người mới có kiến
thức, kĩ năng, phẩm chất đạo đức, năng động, sáng tạo để đáp ứng với yêu cầu
phát triển của xã hội.
Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tiếng Việt là môn học
giữ vị trí vô cùng quan trọng. Thông qua học môn Tiếng Việt, học sinh có được
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, giúp các em có khả năng giao tiếp và
phát triển ngôn ngữ. Làm tiền đề cho việc học các môn học khác.
Môn Tiếng Việt có nhiều phân môn. Trong đó, phân môn Tập đọc có nhiệm
vụ rất quan trọng là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Nếu học tốt phân
môn Tập đọc, nó sẽ giúp cho các em học tốt hơn các phân môn của bộ môn
Tiếng Việt. Thông qua việc dạy và học phân môn Tập đọc còn góp phần rèn
luyện các thao tác tư duy, cung cấp cho những học sinh những kiến thức và
những hiểu biết sơ giản về xã hội, thiên nhiên và con người. Như vậy phân môn
Tập đọc được coi như môn khởi đầu để học tiếp các môn học khác và để tiếp thu
các tri thức của nhân loại.
Trong khi đó ở trường Tiểu học việc dạy phân môn Tập đọc cho học sinh ở
một số nơi hiện nay chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bậc
học theo quy định trong công văn số 896/BGD & ĐT –GDTH ngày 13/02/2006
của Bộ Giáo dục và Đào tạo như kỹ năng: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát,
trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay
còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. [4]
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2 một vùng nông thôn của huyện
Quảng Xương, tôi thấy vẫn còn nhiềư học sinh đọc còn chậm, ảnh hưởng
phương ngữ rất lớn, phát âm sai các vần khó. Bản thân tôi luôn băn khoăn cần
phải làm thế nào để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục qua việc dạy Tập
đọc, cần phải có biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 như thế nào để đạt được
hiệu quả như mong muốn, nhất là học sinh lớp 2C là lớp mà có nhiều học sinh
có điều kiện gia đình khó khăn hơn so với 3 lớp còn lại của khối 2, nên các em ít
được sự quan tâm của bố mẹ về học tập. Bởi vậy giáo viên phải cố gắng rất

nhiều để đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường. Và thực hiện có hiệu quả
kế hoạch 04 về khắc phục nói, viết Tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông trong
các trường tiểu học, mầm non, TH CS trên địa bàn huyện Quảng Xương giai

2


đoạn 2018-2020 tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “ Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập đọc”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Về phía giáo viên: tìm ra biện pháp giúp học sinh lớp2 có kĩ năng đọc đúng
trong giờ Tập đọc, qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc
diễn cảm ở mỗi học sinh, nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy Tập đọc cho học
sinh lớp 2.
Về phía học sinh: các em có kĩ năng đọc đúng, làm chủ được tốc độ đọc;
học sinh say mê, hứng thú khi học Tập đọc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các giải pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập đọc ở
trường Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các văn bản, sách báo, tạp chí giáo
dục có liên quan đến đề tài, sách giáo khoa, sách giáo viên; hệ thống hoá những
vấn đề có liên quan đến phân môn Tập đọc.
-Phương pháp điều tra, khảo sát : Thực trạng dạy tập đọc ở Tiểu học; khảo sát
chất lượng học sinh; trao đổi với giáo viên, trực tiếp đôí thoại với học sinh lớp
2.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Trực tiếp dạy và dự giờ, trao đổi ý kiến
với đồng nghiệp về các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Tập đọc.

- Phương pháp khảo sát thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận:
2.1.1. Đọc là gì ?
Đọc là quá trình chuyển chữ viết sang lời nói có âm thanh và có ngữ điệu.
[5]
Ứng với hình thức đọc thành tiếng là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ
viết thành các đơn nghĩa không có âm thanh - ứng với đọc thầm.[5] ( Sổ tay
thuật ngữ phương pháp dạy học Tiếng Nga của MR.Lô- vốp).
2.1.2. Ý nghĩa của việc đọc
Con người thật hạnh phúc khi biết đọc. Chúng ta biết phần lớn những tri
thức, khái niệm của đời sống và những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng,
tình cảm của thế hệ trước và cả của thời đương đại được ghi lại bằng chữ viết.
Nếu không biết đọc thì con người khó có thể tiếp thu được nền văn minh của
loài người, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc làm chủ xã hội đương đại.
Không biết đọc, con người không được hưởng thụ những thành tựu văn hoá,
khoa học, tư tưởng, tình cảm của nhân loại qua ngôn ngữ viết. Biết đọc con
3


người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần . Từ đây con người mới tìm hiểu
đánh giá cuộc sống, nhận thức mối quan hệ tự nhiên, xã hội. Biết đọc, con người
có khả năng giao tiếp được với thế giới bên trong của con người khác thông qua
tác phẩm văn thơ, bút kí ...của họ. Không biết đọc, con người sẽ khó có điều
kiện hưởng thụ giáo dục mà xã hội dành cho họ, khó có thể hình thành một nhân
cách toàn diện. Đọc giúp các em học sinh chiếm lính được ngôn ngữ để dùng
trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Đọc một
cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới trình dộ ngôn ngữ cũng như tư
duy của người đọc . Đọc là một kĩ năng quan trọng hàng đầu của con người.
Nhờ biết đọc con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Đó là một

yêu cầu không thể thiếu được của một con người trong thời đại hiện nay. Biết
đọc ngắt câu, đổi giọng cho đúng ngữ điệu vừa đảm bảo được diễn cảm, hấp dẫn
người nghe, vừa đảm bảo đúng ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn
truyền đạt cho người ghe hiểu, nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong
sáng ngôn ngữ Tiếng Việt. Chính vì vậy “đọc” có ý nghĩa to lớn ở bậc tiểu học.
Bước đầu trẻ học đọc, sau đó trẻ đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn
ngữ trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn học khác, đọc tốt
giúp các em có kĩ năng giao tiếp có giáo dục.
Môn Tâp đọc ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn
ngữ cho học sinh, thể hiện ở bốn chức năng: nghe, nói, đọc, viết. Đọc không
phải chỉ là công việc chuyển kí hiệu chữ viết thành âm thanh mà còn là quá trình
nhận thức để có kĩ năng thông hiểu những gì mà mình đọc được.
2.1.3. Nhiệm vụ của dạy tập đọc lớp 2: [2]
Phát triển kĩ năng đọc và nghe cho học sinh
* Rèn kĩ năng đọc thành tiếng
- Phát âm đúng
- Đọc rõ ràng, liền mạch từng câu, đoạn, cả bài, biết ngắt nghỉ hơi hợp lí sau
dấu câu, giữa các cụm từ, các phần trong bài tập đọc.
- Cường độ đọc, tốc độ đọc vừa phải
- Tốc độ đọc vừa phải, đạt yêu cầu khoảng 50 tiếng/phút
* Rèn kĩ năng đọc thầm và hiểu nội dung
Biết đọc không thành tiếng, mấp máy môi. Hiểu được nghĩa của các từ ngữ
trong văn cảnh, nắm được nội dung của câu, đoạn hoặc bài đã đọc, trả lời được
các câu hỏi ở cuối bài tập đọc, tập nhận xét một số nhân vật, hình ảnh, chi tiết
trong bài đọc.
* Rèn kĩ năng nghe nói
- Nghe giáo viên đọc mẫu và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn,
bài.
- Nghe - hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy cô.
- Nghe - hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn.

- Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm học tập về bài đọc .
- Biết cách trả lời các câu hỏi về bài đọc .
* Rèn tư thế đọc
4


Tư thế đứng đọc thoải mái, không gò ép, đứng thẳng, khoảng cách từ mắt
cách sách giáo khoa khoảng 25- 30 cm .
* Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu
biết của học sinh về cuộc sống: Làm giàu và tích cực hoá vốn từ ngữ, vốn diễn
đạt, bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống, hình
thành một số kĩ năng phục vụ cho cuộc sống và việc học tập cảu bản thân ( như
khai lí lịch đơn giản, đọc thời khóa biểu, ta và lập mục lục sách, nhận và gọi
điện thoại...), phát triển một số thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp)
*Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn trong sáng, lành mạnh, tình yêu
cái đẹp, cái thiện, cách ứng xử đúng trong cuộc sống, từ đó các em say mê, hứng
thú đọc sách và thêm yêu Tiếng Việt. Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng,
biết ơn và trách nhiệm đối với ông bà, cha mẹ, thầy cô; yêu trường lớp, giúp đỡ
bạn bè, vị tha, nhân hậu . Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã
giao tối thiểu. Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hình thành lòng ham
muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng
Việt và tình yêu Tiếng Việt.
2.1.4. Những yêu cầu cần đạt được sau khi học tập đọc lớp 2
- Kĩ năng đọc thành tiếng phát âm đúng rõ ràng các tiếng có vần khó, có phụ
âm đầu, có dấu thanh dễ lẫn.
- Đọc rõ ràng, mạch lạc, đảm bảo tốc độ theo quy định.
- Ngắt nhịp đúng câu văn, câu thơ, đọc trơn và lưu loát bài tập đọc, biết phân
biệt lời nhân vật trong bài tập đọc.
- Kĩ năng đọc hiểu: Hiểu được nội dung ý nghĩa bài tập đọc.
2.1.5.Nội dung, chương trình phân môn Tập đọc lớp 2:

Trong quá trình tìm hiểu sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, tôi nhận thấy
rằng các bài tập đọc được phân bố vào từng tuần cùng với các phân môn khác.
Các bài tập đọc được bố trí đầu mỗi tuần có vai trò làm cơ sở, chỗ dựa cho việc
dạy các phân môn khác như: Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu...Mỗi tuần
có 3 bài tập đọc song học sinh được học 2 bài còn 1 bài tự đọc thêm. Bài tập đọc
đầu tuần học 2 tiết. Các bài tập đọc có đủ các thể loại: Văn bản văn học, văn
xuôi, thơ và một số văn bản nước ngoài . Trung bình mỗi chủ điểm học trong 2
tuần. Mỗi bài tập đọc được các nhà viết sách lựa chọn nhằm cung cấp cho học
sinh một số kiến thức nhất định về nội dung của các bài tập đọc lớp 2 xoay
quanh các 6 chủ điểm lớn:
Nhà trường: 8 tuần - 24 tiết
Gia đình: 6 tuần - 18 tiết
Bạn trong nhà : 2 tuần - 6 tiết
Thiên nhiên đất nước gồm 7 đơn vị: Bốn mùa, chim chóc, muông thú, sông
biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân. Mỗi chủ điểm 2 tuần. Riêng chủ điểm Nhân
dân 3 tuần. [1]
Trong số các bài văn xuôi và thơ được đưa vào với tỉ lệ đồng đều: Văn xuôi
– 48,4 % còn thơ là 51,6 %. Nôi dung các bài văn xuôi ngắn, dễ hiểu dễ đọc và
gần gũi với cuộc sống xung quanh các em.Văn xuôi gồm nhiều loại, nhiều dạng
5


bài như văn miêu tả, kể, vừa kể vừa tả hoặc có cả truyện ngắn, thể loại thơ cũng
rất phong phú. Chủ yếu là thơ vần, thơ lục bát, thơ 4 chữ, 5 chữ. Trong đó thơ
lục bát chiếm 39,6 %, Thơ 5 chữ 23 % còn lại là thơ tự do và ca dao. Những câu
chuyện kể, những bài văn xuôi đều hướng tới mục đích giáo dục tính trung thực,
đức vị tha, tình yêu lao động, tình đoàn kết, tương trợ, bảo vệ của công. Đưa dần
các em đến với nhận thức về quan hệ giữa các em với nhà trường, thầy cô, bạn
bè, ông bà, cha mẹ, rộng ra là sông núi, trời biển, tổ quốc, nhân dân, lãnh tụ. Từ
đó hình thành dần trong các em ý thức cá nhân giữa cộng đồng, ý thức công dân.

Đặc biệt mạch bài cổ tích, ngụ ngôn, truyện vui trong và ngoài nước được đưa
vào dạy khá hấp dẫn, dí dỏm, sinh động, dễ hiểu, dễ nhớ đối với các em. Đó là
sự tích các loài (Sự tích cây vú sữa) Hiện tượng thiên nhiên (Sơn Tinh- Thuỷ
Tinh), nguồn gốc dân tộc (Chuyện quả bầu)[1]. Phần thơ và văn vần rất hấp dẫn
vừa sức đọc mang nhịp điệu học mà vui, vui mà học. Những bài tập đọc rất gần
gũi, gắn bó với cuộc sống xung quanh các em. Tạo cho các em có 1 niềm vui
hứng thú đọc và tìm hiểu bài. Trong các bài tập đọc việc sử dụng các biện pháp
tu từ so sánh, nhân hoá ngắn gọn, dễ hiểu tạo nên ngôn ngữ. Vì vậy nhờ sự phân
loại các dạng bài tập đọc đó góp phần giúp người giáo viên xác định được đặc
trưng riêng của từng giọng điệu để hướng dẫn học sinh đọc tốt, đọc hay và nâng
cao chất lượng cảm thụ cho học sinh bằng chính giọng đọc .
2.2. Thực trạng và các vấn đề cần giải quyết
2.2.1.Đặc điểm tình hình
*Địa phương :
- Quảng Nhân là một xã nghèo của huyện Quảng Xương với hơn 90 % làm
nghề nông. Đời sống nhân dân hết sức hết sức khó khăn. Trình độ dân trí cũng
tương đối thấp. Đường giao thông nhỏ hẹp. Chính những điều kiện khó khăn
trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc đi lại, sinh hoạt và học tập của con em địa
phương.
*Nhà trường:
- BGH nhà trường đều là những người có năng lực quản lí, lãnh đạo. Luôn
quan tâm, chỉ đạo sâu sát tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên làm tốt nhiệm vụ
được giao.
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn, song
hầu hết giáo viên đều ở xa trường, điều kiện đi lại vất vả, khó khăn.
- Trường Tiểu học Quảng Nhân là một trường nằm xa khu vực trung tâm của
huyện, là một trong những trường khó khăn của huyện Quảng Xương. Điều kiện
cơ sở vật chất của trường còn nhiều thiếu thốn: chưa đủ phòng học cho học sinh,
bàn ghế ngồi học chưa đúng quy cách, các thiết bị dạy học hiện đại ứng dụng
công nghệ thông tin còn thiếu, mức độ sử dụng trang thiết bị, đồ dùng dạy học

của giáo viên còn hạn chế.
2.2.2. Thực trạng dạy Tập đọc:
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên mới chỉ chú ý luyện cho học sinh đọc đúng, đọc trơn mà chưa
chú ý rèn đọc ngắt nghỉ hợp lí, đọc diễn cảm.
6


- Trong giảng dạy đôi lúc còn thiếu đồ dùng dạy học, dụng cụ trực quan để
giúp học sinh khắc sâu kiến thức nên chưa gây được sự chú ý, hứng thú cho học
sinh.
- Việc phân bố thời gian trong tiết tập đọc còn chưa hợp lý, chưa nắm được
trọng tâm của tiết tập đọc.
- Dạy chưa đảm bảo quy trình của tiết học.
- Chưa quan tâm hợp lí tới từng đối tượng học sinh.
- Sử dụng các biện pháp dạy học chưa thật sự linh hoạt trong việc phối kết
hợp các phương pháp dạy học và thay đổi hình thức dạy học nên dẫn đến giờ
học trầm và không có hiệu quả cao.
- Nhiều giáo viên không đầu tư nhiều cho việc xây dựng kế hoạch bài dạy,
nên các định hướng trong giờ học còn chung chung, mang nặng tính hình thức.
*. Về phía học sinh:
- Đặc điểm tình hình lớp: Tổng số học sinh lớp 2C (lớp thực nghiệm) : 28 em
trong đó nam 19 em, nữ 9 em.
- Đa số học sinh đều có bố mẹ làm nông nghiệp, một số ít em có bố mẹ là
công nhân và buôn bán nhỏ như em : Hải Anh, Quỳnh Như, Hùng. Một số em
điều kiện kinh tế gia đình học sinh có nhiều khó khăn như: Kim Chung, Phát,
Đăng Duy. Bố mẹ hầu hết luôn bận công việc, một số em bố mẹ làm ăn xa, nên
không có điều kiện quan tâm chăm sóc và quan tâm đến việc học của các em mà
hầu như phó mặc cho nhà trường, như em Phát, Đăng Duy, Việt, Truyền.
- Một số ít em có bố sa vào tệ nạn cờ bạc, nghiện ngập, mẹ thì làm ăn xa như

em Bảo, Dũng, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện sinh hoạt, học tập của
các em.
- Sau thời gian nghỉ hè học sinh chưa được ôn luyện nên kĩ năng đọc chưa
đạt yêu cầu
- Đa số các em chưa hứng thú với môn học. Học sinh đọc nhanh chán, sức
chú ý chưa cao, chưa tập trung, chỉ đọc khi cô yêu cầu, chưa tự giác đọc, khi bạn
đọc không chú ý theo dõi. Một bài tập đọc chỉ đọc ít lượt nên khi tìm hiểu nội
dung bài cũng khó khăn và không hứng thú trả lời câu hỏi tìm hiểu nội dung bài.
- Còn một số học sinh có trí nhớ kém, chậm phát triển nên khi học xong là
quên, không nhận được mặt chữ nên không đọc được như: em Hải, em Truyền
- Do còn chưa mạnh dạn nên đọc phân biệt các lời của nhân vật trong bài
chưa đạt yêu cầu, còn đọc với giọng đều đều. Như em Mai Anh, Ngân Khánh,
Trâm.
- Trong chương trình phân môn tập đọc có một số chủ đề lớn như: Bốn mùa,
sông biển, nhân dân…Trong đó có những bài tả cảnh vật, những từ ngữ mà ở địa
phương các em chưa từng thấy, chưa từng nghe, chưa từng biết nên đòi hỏi các
em tận dụng quá mức trí tưởng tượng non nớt của mình vào bài đọc, một số học
sinh đọc bài còn chậm chưa lưu loát nên chưa hiểu được nội dung bài.
-Học sinh còn ảnh hưởng phát âm tiếng địa phương nhiều. Học sinh hay đọc
sai tiếng có phụ âm đầu là s/x, ch/tr; thanh ngã / thanh hỏi
7


Đọc nhầm lẫn vần iêu thành iu, uôi thành ui ( Ví dụ: buổi chiều đọc thành
bủi chìu; Vần ươi thành ưi ( Ví dụ: số mười đọc thành số mừi), vần ươu đọc
thành ưu hoặc iêu ( ví dụ: rượu đọc thành riệu hoặc rựu. Vần in thành vần inh
( VD: số chín đọc thành số chính )
- Học sinh đọc ngắt nghỉ hơi không hợp lí, tốc độ đọc chưa đạt yêu cầu, chưa
biết đọc diễn cảm. Từ đó các em gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập. Tốc
độ đọc không đạt thì không thể nào thực hiện được yêu cầu đọc hiểu câu, hiểu

văn bản ở phân môn Tập đọc, cũng như không thể hiểu yêu cầu trong khi học
các môn học khác. Khả năng nghe viết chậm và không chính xác.
*Kết quả khảo sát đọc đầu năm học – tháng 9/ 2018 kết quả như sau:
Lớp thực nghiệm 2C:
Tổng số HS
Nội dung
Số lượng
Tỉ lệ %
Đọc ngắc ngứ
8 em
28,6 %
Đọc còn sai âm, vần nhiều
7 em
25 %
28 em
Đọc liến thoắng
5 em
17,8 %
Đọc đều đều không phù hợp 9 em
32,1 %
nội dung bài
Đọc chưa diễn cảm
25 em
89 %
Lớp đối chứng 2 B:
Tổng số HS
Nội dung
Đọc ngắc ngứ
Đọc còn sai âm, vần nhiều
28 em

Đọc liến thoắng
Đọc đều đều không phù hợp
nội dung bài
Đọc chưa diễn cảm

Số lượng
7em
6 em
6 em
8 em
23 em

Tỉ lệ %
25 %
21,4 %
21,4 %
28,5 %
82,1 %

Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn nghiên cứu, đề ra một số biện pháp
rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2 tại trường tôi giảng dạy như sau:
2.3. Các giải pháp nhằm giúp HS học tốt phân môn Tập đọc
- Để đạt được mục tiêu, yêu cầu môn học, học sinh phải trải qua một quá
trình rèn luyện và phẻi có sự chỉ đạo, phối hợp giữa giáo viên với gia đình học
sinh và giữa học sinh với nhau. Cụ thể là:
Giải pháp 1: Phân loại học sinh:
Đây là việc không kém phần quan trọng. Ở đây tôi phân học sinh thành 3 loại
để rèn:
- Loại 1: Đọc còn chậm, ngắc ngứ, đọc còn sai âm vần nhiều.
- Loại 2: Đọc bình thường

- Loại 3: Đọc tốt
8


Cách rèn ba loại như sau:
Đối với học sinh đọc còn chậm, ngắc ngứ, đọc còn sai âm vần nhiều: Tâm lí
các em rất ngại đọc, nhất là các bài dài, vì thế không nên ép các em đọc nhiều.
Đọc nối tiếp câu là hình thức tốt nhất để các em này rèn luyện. Tôi đã động viên
các em đọc tốt từng câu mỗi bài, sau đó nâng dần lên đọc đọan. Như em Đăng
Duy, em Phát, em Truyền, em Hiền.
Đối với học sinh đọc bình thường: Tâm lí các em ngại thể hiện, các em nghĩ
biết đọc là được. Tôi đã khuyến khích như khen, động viên để các em bạo dạn
hơn. Ngoài ra cho các em tham gia đóng vai nhân vật trong giờ Tập đọc hoặc kể
chuyện để lôi cuốn các em hứng thú đọc.
Đối với học sinh đọc tốt: Tâm lí các em thích bộc lộ, tự tin. Tôi yêu cầu các
em ở mức độ cao hơn như đọc diễn cảm, đọc theo vai. Lấy các em làm nhân tố
Tích cực để phát triển thêm các vai khác. Tôi thường cho các em này đọc mẫu
để học sinh khác noi theo. Tiêu biểu như em Khánh, Kim Chung, Hải Anh,
Như…
Giải pháp 2: Rèn kĩ năng phát âm:
Dạy luyện đọc từng câu và các từ ngữ khó. Đây là giai đoạn quan trọng việc
dạy môn tập đọc, bước đầu các em phải nắm rõ cách đọc các từ ngữ có vần khó,
phát âm dễ lẫn đây là cơ sở để kết hợp cho các em luyện đọc câu đúng theo yêu
cầu.
VD: Khi dạy bài tập đọc “Có công mài sắt có ngày nên kim”
Phải hướng dẫn học sinh đọc đúng từ ngữ: quyển, nguệch ngoạc, giảng giải,
mải miết, ngáp ngắn…(khi đọc tôi có thể phân tích cách đọc từ khó “nguệch
ngoạc”, tiếng nguệch gồm có phụ âm đầu là ng vần uêch dấu nặng đọc là
nguệch, tiếng “ngoạc” gồm có phụ âm đầu là ng vần oac dấu nặng đọc là ngoạc.
Tôi đọc mẫu: ng - uêch - nặng - nguệch ; ng – oac – nặng – ngoạc; đọc từ

nguệch ngoạc. Tôi đọc xong cho học sinh yếu đọc lại từng tiếng rồi đọc hai tiếng
lại thành từ như tôi vừa đọc mẫu, nếu các từ còn lại mà học sinh đọc sai tôi cũng
có thể phân tích cách đọc và hướng dẫn đọc như từ đã vừa hướng dẫn .)
VD: Khi dạy Tập đọc “Phần thưởng”
Tôi phải hướng dẫn học sinh đọc đúng các từ khó như: phần thưởng, sáng
kiến, bàn tán…( Khi đọc tôi đọc mẫu trước, rồi cho học sinh đọc lại theo giáo
viên, nếu có học sinh đọc chưa được thì giáo viên có thể đọc đánh vần từng
tiếng xong ghép lại đọc từ như từ “ phần thưởng ”có thể đọc là ph- ân – huyền phần; th - ương - hỏi - thưởng ; phần thưởng; các từ còn lại cũng hướng dẫn cho
học sinh đọc như vậy .)
VD: Khi dạy bài tập đọc “Gọi bạn”
Phải hướng dẫn học đọc đúng các từ ngữ khó phát âm như: thuở, khắp nẻo,
nuôi đôi bạn, quên đường về…( Khi đọc tôi đọc mẫu trước rồi cho học sinh đọc
lại theo, nếu học sinh phát âm chưa đúng tôi phân tích các từ khó đó như “thuở”
phụ âm đầu vần “uơ” dấu hỏi đọc là “thuở ”rồi cho học sinh đọc lại , các từ còn
lại cũng hướng dẫn cho học sinh đọc như đã vừa hướng dẫn từ “thuở ”
9


VD: Khi dạy bài “Bím tóc đuôi sam”
Phải hướng dẫn học sinh đọc đúng các từ có vần khó như: loạng choạng,
ngượng nghịu, oà khóc, khuôn mặt….
Khi đọc thì tôi đọc mẫu trước, cho học sinh đọc lại theo, có thể cho học sinh
đánh vần lại để đọc các từ đó (hướng dẫn học sinh cách phát âm đúng từng phụ
âm vần , xong đọc rõ từng tiếng, kết hợp đọc đúng cả câu) nhất là cho học sinh
yếu đọc chưa đúng đọc chậm đọc nhiều hơn, để giúp các em đọc được bài đọc
theo yêu cầu.
Giải pháp 3: Sử dụng các hình thức luyện đọc để gây hứng thú cho học sinh
Trước hết, muốn rèn đọc tốt thì việc gây hứng thú cho học sinh trong tiết học
là quan trọng nhất. Nhất là các em đọc còn chậm thì giáo viên cần kích thích cho
các em thích đọc. Các em thấy tiết học như một sân chơi, các em được nghe,

được học hỏi, được bộc lộ. Việc gây hứng thú tiết học chính là việc đọc mẫu thật
diễn cảm, thật có hồn để lột tả được cái hay, cái đẹp trong văn bản. Từ đó, cuốn
hút học sinh nghe để các em thấy được cái hay trong mỗi bài văn, câu chuyện,
các em sẽ thấy thích học ngay, thích khám phá và thích đọc được giống như giáo
viên.
Một việc khác cũng giúp gây hứng thú tiết học là việc tổ chức lớp học với
nhiều hình thức luyện đọc: đọc từng câu, đọc từng đoạn trước lớp, đọc từng
đoạn trong nhóm, cả lớp đọc đồng thanh, đọc theo vai, Tất cả tạo nên một không
khí vui nhộn trong giờ học; học mà như chơi. Mặt khác tiến hành như thế tạo
điều kiện luyện đọc được kĩ lưỡng đến từng học sinh, cơ hội luyện đọc cá nhân
được nhiều hơn.
Cụ thể việc làm trong mỗi hình thức luyện đọc như sau:
Đọc từng câu: Từng học sinh ngồi cùng bàn hoặc cùng nhóm kế tiếp nhau
đọc từng câu trong bài đọc. Tôi theo dõi nhận xét cách phát âm của học sinh và
hướng dẫn đọc những từ khó.
Đọc từng đoạn: Từng học sinh nối tiếp nhau đọc từng đoạn trong bài. Sau
mỗi học sinh đọc, tôi hướng dẫn cả lớp nhận xét cách đọc của bạn và hướng dẫn
cách ngắt, nghỉ hơi, nhấn giọng khi đọc câu, đoạn. Đoạn nào có từ khó hiểu, tôi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu qua chú giải hoặc giải nghĩa những từ tôi chọn
thêm.
Đọc từng đoạn trong nhóm: Học sinh nối tiếp nhau đọc, đọc từng đoạn trong
nhóm. Học sinh còn lại trong nhóm nhận xét cách đọc của bạn. Tôi giúp đỡ các
nhóm có học sinh đọc còn chậm, ngắc ngứ.
Thi đọc giữa các nhóm: Mỗi lần hai học sinh đại diện cho hai nhóm cùng
đọc một đoạn hay cả bài. Tôi tổ chức cho học sinh nhận xét, đánh giá, bình chọn
nhóm có bạn đọc tốt nhất.
Cả lớp đọc đồng thanh: Học sinh đọc đồng thanh toàn bài một hoặc hai lần.

10



Đọc theo vai: Tôi chia nhóm, học sinh tự phân vai tuỳ theo khả năng đọc
của các bạn trong nhóm rồi luyện đọc theo vai. Sau đó các nhóm thi đọc theo
vai. Tôi hướng dẫn các em bình chọn nhóm đọc hay.
Giải pháp 4: Thường xuyên động viên, khuyến khích, khen thưởng, khêu
gợi hứng thú học tập:
Tôi đã sử dụng nhiều hình thức như: động viên khi học sinh gặp khó khăn,
khen ngợi khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất, tuyên dương trước lớp….Điều
này rất quan trọng. Ví dụ em Đăng Duy trước đây đọc nhỏ và rất nhút nhát. Gọi
mãi em mới đứng dậy đọc, tôi đã không yêu cầu em đọc cả đoạn dài chỉ đọc một
câu, thậm chí một từ khi đọc, sau đó tôi cho cả lớp vỗ tay khen bạn. Riêng với
em này, tôi thường xuyên gọi đọc. Đến nay em đã rất tiến bộ, đọc to rõ và tương
đối lưu loát.
Vận dụng nhiều hình thức tổ chức, các kĩ thuật dạy học tích cực như: nhóm,
trò chơi thi đọc, đoáng vai….tạo sự mới mẻ và gây hứng thú giúp các em say mê
hơn với môn học. Ví dụ bài: “Ai ngoan sẽ được thưởng”, bài “Những quả đào”
có những đoạn hội thoại, tôi chia học sinh thành các nhóm theo số nhân vật, tổ
chức cho các nhóm sắm vai đọc, bình chọn nhóm đọc to, rõ ràng, diễn cảm thể
hiện tốt giọng nhân vật và thưởng mỗi em một bông hoa giấy, bữa thì một cái
kẹo hoặc bút….
Giải pháp 5: Dạy tìm hiểu nội dung bài
Trước hết tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của một số từ ngữ trong bài.
Cho nhiều học sinh đọc những từ ngữ được chú giải sau bài đọc. Tôi có thể giải
nghĩa thêm những từ ngữ mà học sinh chưa hiểu.
VD: Dạy tìm hiểu nghĩa của một số từ ngữ trong bài “Bạn của nai nhỏ” khi
cho học sinh đọc xong phần chú giải trong sách giáo khoa thì tôi giải nghĩa thêm
từ “rình”: nấp ở một chỗ kín để theo dõi hoặc để chờ bắt.
VD: Dạy tìm hiểu nghĩa của một số từ ngữ trong bài “Bím tóc đuôi sam” Tôi
cho học sinh đọc phần chú giải trong sách giáo khoa xong tôi giải nghĩa thêm
những từ ngữ khác như “đầm đìa nước mắt”: khóc nhiều, nước mắt ướt đẫm mặt

“Đối xử tốt”: nói và làm đều tốt với người khác
VD: dạy tìm hiểu nghĩa của một số từ ngữ trong bài “người mẹ hiền" khi cho
nhiều học sinh đọc xong phần chú giải trong sách giáo khoa thì tôi giúp học sinh
hiểu rõ thêm các từ ngữ “thầm thì”: nói nhỏ vào tai. “vùng vẫy”: cựa quậy mạnh,
cố thoát.
Khi dạy tìm nghĩa của các từ ngữ trong bài mà học sinh chưa hiểu, các từ địa
phương mà học sinh chưa quen giáo viên có thể giải nghĩa thêm hoặc nêu ví dụ
các từ ngữ gần nghĩa; có thể cho học sinh tìm hiểu nghĩa bằng các cách khác
như: dùng tranh ảnh, vật thật cho học sinh quan sát,; dùng từ trái nghĩa hoặc yêu
cầu học sinh đặt câu với từ đó. Từ đó giúp học sinh đọc hiểu nội dung bài.
Dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài đọc là dựa vào các hệ thống câu hỏi
trong bài, giáo viên tổ chức sao cho mỗi học sinh đều được làm việc để tự mình
nắm được nội dung bài. Ngoài ra giáo viên cần có thêm những câu hỏi phụ,
11


những câu hỏi nhỏ, những lời giảng bổ sung trong phạm vi nội dung cần tìm
hiểu.
VD: Khi dạy tìm hiểu bài “Chiếc bút mực” Giáo viên hướng dẫn cho học
sinh đọc thầm từng đoạn, cả bài, trao đổi thảo luận tìm hiểu nội dung bài qua hệ
thống 5 câu hỏi của bài đọc. cho một vài học sinh đọc yêu cầu câu hỏi, giáo viên
có thể nêu lại câu hỏi và đoạn cần đọc cho cả lớp đọc thầm suy nghĩ để trả lời,
cho hai, ba học sinh trả lời, học sinh khác nhận xét, giáo nhận xét bổ sung kết
luận, cho một số học yếu hoặc trả lời sai nhắc lại câu trả lời đúng trong bài này
khi tìm hiểu câu hỏi 3 xong. Giáo viên sẽ đưa ra một câu hỏi phụ “Cuối cùng
Mai quyết định ra sao? ‘‘Mai lấy bút đưa cho Lan mượn)”. Xong tôi hướng dẫn
tìm hiểu tiếp các câu còn lại.
VD: Khi dạy tìm hiểu bài “ Bạn của Nai Nhỏ” [1] tôi đưa ra những câu hỏi
nhỏ để học sinh có thể thuật lại được từng hành động của bạn Nai Nhỏ. Ở câu
hỏi.

- Nai Nhỏ đã kể cho cha nghe hành động một của bạn mình như thế nào?
- Nai Nhỏ đã kể cho cha nghe hành động hai của bạn mình như thế nào?
- Nai Nhỏ đã kể cho cha nghe hành động ba của bạn mình như thế nào?
Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách trả
lời câu hỏi, diễn đạt ý bằng câu gọn rõ. Từ đó học sinh biết vận dụng vào hệ
thống các câu trả lời để nắm được nội dung bài văn bài thơ, đã học.
Qua tìm hiểu việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 2 tôi thấy
rằng yêu cầu về việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh còn gặp nhiều khó
khăn, hạn chế cả về giáo viên, cũng như học sinh nên việc dạy học còn đơn điệu
chủ yếu là dạy hỏi đáp giữa thầy và trò. Hệ thống câu hỏi để dẫn dắt, hướng dẫn
học sinh đọc hiểu nội dung bài còn mang tính hình thức. Vì vậy để giờ tập đọc
thêm sinh động và đạt hiệu quả cao tôi đã xây dựng hệ thống bài tập nhằm rèn
luyện cho các em kĩ năng đọc hiểu.
Bài 1: Khoanh tròn vào ý trả lời đúng.
Qua bài tập đọc : “Mẩu giấy vụn” em thấy mẩu giấy nói với chúng em:
a. Mẩu giấy còn dùng được việc sao lại vứt đi.
b. Các bạn học sinh đừng vứt giấy ra lớp.
c. Hãy nhặt bỏ vào sọt rác.
Bài 2: Khoanh tròn vào ý trả lời đúng:
Hai bố con bé Hà chọn ngày lập đông làm “Ngày ông bà” [1] vì:
a. Ngày lập đông trời rất rét.
b. Khi bắt đầu rét, mọi người cần chăm lo sức khỏe cho các cụ già.
c. Vì ông bà gợi ý như thế.
Bài 3: Đọc bài bé Hoa nối câu trả lời phù hợp với câu hỏi: [1]
Em Nụ ở nhà như thế nào?
Môi em Nụ như thế nào?
Gia đình bé Hoa sống như thế nào?

Gia đình bé Hoa rất thương yêu nhau.
Em Nụ ở nhà rất ngoan.

Môi em Nụ đỏ hồng.

12


Bài 4: Em cảm nhận được điều gì trong cách dùng từ tả loài hoa và tả các loài
chim trong bài: “Mùa xuân đến”. Đánh dấu x vào ý trả lời đúng:
Giúp em cảm nhận được hương vị riêng của mỗi loài hoa và vẻ riêng của mỗi
loài chim.
Giúp em cảm thấy mùa xuân đến có rất nhiều loài chim bay tới.
Giải pháp 6 : Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm:
Đối với học sinh lớp 2 mức độ yêu cầu đọc diễn cảm chưa cao như học sinh
lớp 4, 5 nhưng đối với học sinh đã biết cách đọc đúng rồi, khi dạy tôi cần phát
huy mức độ đọc của học sinh để học sinh tự sửa chữa cách đọc của mình chuyển
sang đọc diễn cảm. Tôi cần chọn ra những đối tượng đọc tốt, đọc hay để đọc
mẫu cho học sinh này, đọc thầm theo dõi tập giọng đọc của bạn hoặc của người
giáo viên nhất là câu có dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm... lời của các nhân vật cần
lên giọng, hạ giọng như thế nào? Để từ đó người đọc tìm ra cách đọc cho mình.
- Dạy luyện đọc từng câu, từng đoạn trong bài tập đọc tôi phải hướng dẫn các
em biết cách đọc ngắt câu, ngắt từng cụm từ khi gặp các câu dài, hướng dẫn các
em đọc ngắt nghỉ câu đúng chỗ (cho các em vạch ngắt nghỉ bằng bút chì vào bài
đọc), biết nhấn giọng ở các từ gợi tả gợi cảm và thể hiện tình cảm qua giọng
đọc.
VD: khi dạy luyện đọc nối tiếp nhau từng câu, từng đoạn trong bài “Có công
mài sắt, có ngày nên kim” [1]
Các câu dài cần đọc ngắt nghỉ hơi đúng chỗ nên tôi cần hướng dẫn đọc
mẫu trước, cho một số học sinh đọc “cho học sinh đọc chưa đạt đọc nhiều” học
sinh đọc tốt theo dõi nhận xét cách đọc của bạn ( khi đọc các câu này tôi phải
nêu rõ là khi đọc đến chỗ một dấu gạch “/” thì chúng ta đọc phải ngắt hơi, đến
chỗ hai dấu gạch “//”thì chúng ta đọc phải nghỉ hơi )

Mỗi khi cầm quyển sách, / cậu chỉ đọc được vài dòng / đã ngáp ngắn ngáp
dài / rồi bỏ dở. //
Mỗi ngày mài / thỏi sắt nhỏ đi một tí, / sẽ có ngày / nó thành kim. //
Giống như cháu đi học, / mỗi ngày cháu học một ít, / sẽ có ngày / cháu thành
tài //
Câu kể, câu hỏi, câu cảm đọc cần thể hiện đúng tình cảm qua giọng đọc ở
một số câu như:
Bà ơi, / Bà làm gì thế? // (đọc cao giọng ở cuối câu vì đây là lời gọi với giọng
lễ phép, phần sau thể hiện sự tò mò của cậu bé.)
Bà mài thỏi sắt này / thành một chiếc kim / để khâu vá quần áo.// (đọc giọng
bình thường vì tả lại một vật cho người khác hiểu)
Thỏi sắt to như thế, / làm sao bà mài thành kim được? // (đọc giọng ngạc
nhiên nhưng lễ phép, đọc cao giọng ở cuối câu.)
VD: khi dạy luyện đọc nối tiếp nhau từng câu đoạn trong bài “bạn của Nai
nhỏ” tôi hướng dẫn học sinh cách đọc nghỉ hơi và giọng đọc các câu sau:
Sói sắp tóm được Dê Non / thì bạn con đã kịp lao tới,/ dùng đôi gạc chắc
khoẻ / húc sói ngã ngữa. (đọc giọng tự hào)
13


Con trai bé bỏng của cha, / con có một người bạn như thế / thì cha không
phải lo lắng một chút nào nữa. // (đọc giọng vui vẻ, hài lòng)
VD: Khi dạy luyện đọc nối tiếp nhau từng câu, từng đoạn trong bài “Bím tóc
đuôi sam” tôi hướng dẫn học sinh đọc ngắt nghỉ hơi, nhấn giọng đúng các câu
sau:
Khi Hà đến trường, / mấy bạn gái cùng lớp reo lên: // “Ái chà chà! // Bím
tóc đẹp quá!”// (đọc nhanh, cao giọng hơn ở lời khen)
.Vì vậy mỗi lần kéo bím tóc, / cô lại loạng choạng / và cuối cùng / ngã
phịch xuống đất. //” ( đọc giọng thong thả chậm rãi).
Tôi đọc mẫu trước hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi nhấn giọng ở các từ in

đậm như: reo lên, ái chà chà, loạng choạng, ngã phịch …cho học sinh đọc lại.
Chú ý cho học sinh yếu đọc nhiều hơn, tôi uốn nắn sửa sai .
Tôi kết hợp phân tích nghĩa của từ mới, bổ sung thêm các từ khác mà học
sinh chưa hiểu nhằm giúp học sinh hiểu nội dung của từng câu, từng đoạn. Giáo
viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu để trả lời các câu hỏi trong bài đọc (đưa ra
một số câu hỏi gợi mở khi gặp các câu hỏi dài hay các câu hỏi mà học sinh chưa
hiểu) để từ đó học rút ra được nội dung chính của bài học.
Tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm cần thể hiện giọng điệu của từng nhân
vật, cần chú ý đến giọng điệu chung của bài, cần nhấn giọng hay nhấn mạnh ở
đoạn nào có sự biểu lộ tình cảm, nét vui buồn tha thiết để làm tăng thêm nội
dung nghệ thuật của bài đọc.
VD: Trong bài “Có công mài sắt có ngày nên kim” [1] đọc giọng người dẫn
chuyện thong thả chậm rãi. Đọc giọng cậu bé tò mò ngạc nhiên. Đọc giọng bà cụ
ôn tồn hiền hậu. từ đó qua bài đọc học sinh thấy được bà cụ khuyên cậu bé làm
việc gì cũng phải kiên trì, nhẫn nại thì mới thành công.
. Trong bài tập đọc “Gọi bạn” [1] đọc rõ ràng lưu loát diễn cảm ngắt nghỉ
đúng chỗ, nhấn giọng những từ gợi tả gợi cảm ở khổ thơ 3 (đọc tự nhiên thể hiện
tình cảm, cảm động của Bê Vàng và Dê Trắng )
Bê Vàng đi tìm cỏ /
Lang thang / quên đường về /
Dê Trắng thương bạn quá
Chạy khắp nẻo / tìm Bê /
Đến bây giờ Dê Trắng /
Vẫn gọi hoài : / “Bê ! // Bê !” //
. Trong bài tập đọc “chiếc bút mực” [1] Đọc giọng kể chậm rãi. Đọc giọng
Lan buồn (Tối qua anh trai em mượn bút, quên không bỏ vào cặp cho em.) Đọc
giọng Mai dứt khoát, pha chút nuối tiếc (Thôi cô ạ, cứ để bạn Lan viết trước.)
Đọc giọng cô giáo dịu dàng thân mật (Cô cho em muợn, em thật đáng khen).
. Trong bài tập đọc “ Mẩu giấy vụn” [1] Đọc đúng ngữ điệu các câu hỏi, câu
cầu khiến, câu cảm. Đọc phân biệt lời các nhân vật: Lời cô giáo nhẹ nhàng dí

dỏm.
14


(Các em lắng nghe và cho cô biết mẩu giấy đang nói gì nhé!) Đọc giọng
khen ngợi (Lớp ta hôm nay sạch sẽ quá! Thật đáng khen !) Lời bạn trai hồn
nhiên (Thưa cô giấy không nói được đâu ạ!) Lời bạn gái vui, nhí nhảnh (Các
bạn ơi! Hãy bỏ tôi vào sọt rác.)
Khi luyện đọc dạy các em luyện đọc đúng từ, câu, đoạn, bài, biết cách đọc
thầm, trước khi đọc tôi phải gây ấn tượng và gây kích thích sự húng thú cho học
sinh, tôi phải đọc diễn cảm trước để giúp cho các em sự chú ý và tự rèn luyện
ngữ điệu theo từng dạng câu (câu kể, câu cảm, câu hỏi) để các em hiểu được nội
dung bài đọc.
. Trong bài tập đọc “Bà cháu” [1] Đọc nhấn giọng những từ ngữ gợi tả gợi
cảm (đầm ấm, nảy mầm, ra lá, đơm hoa, kết bao nhiêu là trái vàng trái bạc,
không thay được, buồn bã, oà khóc, móm mém, hiền từ, dang tay ôm)
* Tóm lại: Khi dạy học sinh luyện đọc tôi thường chú ý đến các tình tiết của
câu chuyện, các nhân vật trong câu chuyện, ý nghĩa của câu thơ câu văn, của bài
thơ bài văn để giúp học sinh bước đầu có ý thức đọc diễn cảm thể hiện được
giọng điệu của từng nhân vật, thể hiện tình cảm của người viết qua các bài đọc.
Giải pháp 7 : Dạy kết hợp sử dụng trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
Trong mỗi tiết dạy việc sử dụng đồ dùng dạy học góp phần rất quan trọng trong
việc luyện đọc và tìm hiểu bài cho các em, khi dạy tôi sử dụng đồ dùng dạy học
thì lớp học trở nên sinh động và tập trung thu hút học sinh học sinh hơn, giúp
học sinh dễ dàng khai thác nội dung bài đọc, đồng thời giúp học sinh dễ dàng
phát hiện ra những chi tiết sự việc có liên quan đến nội dung bài học, từ đó học
sinh có ấn tượng hơn, nhớ lâu hơn về kỹ năng đọc và kiến thức mới về bài đọc.
VD: Khi dạy bài tập đọc: “Bạn của Nai Nhỏ” [1] cho học sinh quan sát tranh
để tạo cơ sở cho các em nhận diện được người Bạn của Nai Nhỏ là người sẵn
sàng cứu người khác từ đó gây hứng thú cho học sinh luyện đọc

Dạy bài tập đọc “Trên chiếc bè” [1] khi dạy bài này tôi phải giới thiệu bức
tranh về cảnh hai chú Dế đi chơi trên “ sông” bằng chiếc bè làm từ những lá bèo
sen và những cảnh đẹp hai bên bờ sông
. Dạy bài tập đọc “Ngưòi thầy cũ” [1] cho học sinh quan sát tranh minh hoạ
thì tôi phải giới thiệu: Kể chuyện một chú bộ đội về trường thăm lại thầy giáo
cũ. Thầy giáo ấy bây giờ đang dạy con trai của
chú. Chúng ta hãy đọc truyện để biết bạn học sinh nghĩ gì khi nhìn thấy bố
của mình đến thăm thầy giáo cũ.
. Dạy bài tập đọc “Cây xoài của ông em” [1] cho học sinh quan sát tranh
minh hoạ để cho các em hiểu được nội dung tranh là cây
xoài và hai mẹ con bạn nhỏ, xong tôi giới thiệu thêm: Xoài là loại cây có quả
rất thơm ngon, được trồng nhiều ở miền Nam. Các em hãy đọc bài tập đọc này
xem cây xoài trong bài văn này có gì đặc biệt.
+ Đặc biệt đối với văn bản truyện để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học
tôi chuẩn bị trước đồ dùng phù hợp với từng vai để học sinh đóng vai được tốt.
Hơn nữa tạo điều kiện giúp cho học sinh đọc chưa tốt dễ nhận ra các vai trong
truyện để tiết học sau các em cũng thích đóng vai để được đọc.
15


Ví dụ: Khi đọc bài "Bác sĩ Sói" (Tiếng việt 2 Tập 2 trang 41).[1] Khi đọc
bài này cần 3 vai (người dẫn truyện, bác sỹ Sói, Ngựa).
- Tôi cho học sinh đóng vai: Một bạn đóng vai làm người dẫn chuyện, một
bạn đóng vai bác sĩ Sói mặc quần áo trắng trên đầu đội một cái mũ (Tượng trưng
bác sĩ), một bạn đóng vai ngựa giả bộ làm đau chân. Sau đó học sinh tự nhập vai
mình vào ba nhân vật để đóng vai và tuỳ từng văn bản mà tôi chuẩn bị đồ dùng
để cho học sinh đóng vai cho phù hợp (đồ dùng chỉ tượng trưng không nhất
thiết cầu kỳ).
Giải pháp 8: Hướng dẫn các em đọc đúng trong tất cả các môn hoc
Ngoài những bài tập đọc trong sách giáo khoa, giáo viên nên động viên

khuyến khích các em đọc thêm sách, báo, truyện tranh ở thư viện, ở nhà. Đây là
một biện pháp rất tốt để rèn luyện kĩ năng đọc cho các em cũng như mở mang
thêm các kiến thức xã hội khác.
* Tóm lại: Qua các tiết dạy tôi đều sử dụng tranh ảnh minh hoạ bài đọc, đồ
dùng đóng vai ,... để bài dạy không khô khan, đồng thời giúp cho học sinh thật
sự tập trung vào tiết học, giúp cho học sinh hứng thú khi luyện đọc, giúp cho
học sinh khắc sâu nội dung kiến thức bài học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân và học sinh
2.4.1. Với bản thân.
- Qua việc tìm tòi nghiên cứu tài tiệu, sách báo, SGK, SGV... bản thân tôi đã
có thêm một số kiến thức, hiểu biết về quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng,
của ngành đối với giáo dục. Tôi đã nắm bao quát và vững hơn về nội dung
chương trình Tập đọc lớp 2 cũng như những yêu cầu học sinh cần đạt được sau
khi học phân môn Tập đọc lớp 2.
- Trong quá trình giảng dạy, mối quan hệ của cô và trò trở nên gần gũi, thân
thiện hơn.
- Bản thân tôi đã nắm vững hơn về phương pháp dạy phân môn Tập đọc và
cảm thấy tự tin, thoải mái, hứng thú hơn khi dạy phân môn này trên lớp hàng
ngày cũng như khi có đồng nghiệp hay mọi người đến dự giờ thăm lớp.
2.4.2. Đối với học sinh:
- Học sinh đọc bài tốt. Không còn học sinh đọc ngắc ngứ. Các đối tượng học
sinh đều tham gia đọc rất tự tin, mà không còn e ngại khi đọc trước lớp.
Cụ thể như em: Đăng Duy, Phát, Truyền, Hiền đầu năm các em còn e rè, thiếu tự
tin, ngại đọc. Các em này đọc rất chậm, ngắc ngứ, sai âm vần nhiều nhưng hiện
tại đã tiến bộ rõ rệt. Các em đã đọc đúng, đọc to, rõ ràng. Một số em như: Kim
Chung, Ngân Khánh, Hải Anh, Quỳnh Như …đọc rất diễn cảm không còn e dè
như trước ( kể cả những lúc có đông người dự). Học sinh hiểu bài một cách chắc
chắn. Lớp học sôi nổi, học sinh tích cực, chủ động khi tham gia vào các hoạt
động học qua các giờ Tập đọc và các giờ học khác đạt kết quả.

- Không còn trường hợp đọc qua loa cho xong chuyện. Các em đã thấy được
giá trị của việc đọc và ham thích đọc sách, truyện,…
16


Qua một năm áp dụng các giải pháp trên, kết quả khảo sát tháng 4/2018
thu được như sau:
Lớp thực nghiệm 2C:
Tổng số HS
Nội dung
Số lượng
Tỉ lệ %
Đọc ngắc ngứ
0
0 %
Đọc còn sai âm, vần nhiều
0 em
0%
28 em
Đọc liến thoắng
1 em
3,6 %
Đọc đều đều không phù hợp
2 em
7,2 %
nội dung bài
Đọc chưa diễn cảm
6 em
21,4 %
Lớp đối chứng 2 B:

Tổng số HS
Nội dung
Đọc ngắc ngứ
Đọc còn sai âm, vần nhiều
28 em
Đọc liến thoắng
Đọc đều đều không phù hợp
nội dung bài
Đọc chưa diễn cảm

Số lượng
3em
3 em
4 em
7 em
15 em

Tỉ lệ %
10,7 %
10,7 %
14,3 %
25 %
53,5 %

Qua hai bảng thống kê trên so sánh kết quả khảo sát của lớp 2C với kết quả
của lớp 2C đầu năm và so sánh với lớp đối chứng 2 D thì tỉ lệ học sinh đọc
đúng, đọc rõ, ngắt nghỉ hơi hợp lí, đọc diễn cảm của lớp thực nghiệm 2C cao
hơn rất nhiều, không còn học sinh đọc ngắc ngứ và phát âm sai. Tôi nhận thấy
phương pháp tôi thực nghiệm đã đạt được kết quả đáng kể. Thực tế trên lớp tôi
dạy, học sinh tiến bộ hẳn lên không những ở phân môn Tập đọc mà còn ở những

phân môn học khác nữa. Các em cảm thấy mạnh dạn, tự tin phấn khởi hơn khi
vào tiết học. Đây chính là nền tảng vững chắc cho các em học lớp cao hơn. Từ
kết quả trên tôi khẳng định con đường tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng qua
nghiên cứu là đúng, đem lại kết quả khả quan trong giảng dạy .
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Trên cơ sở tìm hiểu nghiên cứu để tìm ra một số biện pháp nâng cao chất
lượng giảng dạy tập đọc và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh không những giúp học sinh rèn kĩ năng: Nghe - nói - đọc - viết mà còn tạo
điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác. Muốn làm được điều này đòi
hỏi người giáo viên phải luôn trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp
vụ, đáp ứng nhu cầu của người học trong thời kỳ đổi mới. Giáo viên biết lựa
chọn và áp dụng linh hoạt những biện pháp phù hợp với từng bài để đạt kết quả
cao trong giờ tập đọc. Thông qua nghiên cứu và thực hiện sáng kiến này đã giúp
tôi rút ra được những kinh nghiệm sau:

17


* Bất kỳ một tiết dạy Tiếng Việt nói chung cũng như tiết tập đọc nói riêng,
chúng ta phải biết lựa chọn, sử dụng thay đổi các hình thức tổ chức hoạt động,
các phương tiện học tập, các hình thức trình bày kết quả, nhận thức phù hợp
khác nhau để tránh sự đơn điệu, nhàm chán và giúp học sinh hứng thú tích cực
tham gia hoạt động học tập.
* Giáo viên phải nghiên cứu kỹ các tài liệu có liên quan, đọc kỹ văn bản, cảm
nhận thấu đáo nội dung trọng tâm, ý nghĩa cũng như dấu hiệu nghệ thuật. Xác
định rõ các kĩ năng trọng tâm, mục tiêu cần đạt của mỗi bài học.
* Không nên phụ thuộc hoàn toàn vào sách giáo viên hay sử dụng cứng nhắc
hệ thống câu hỏi SGK, cũng như không máy móc thực hiện các hình thức dạy
học mà sách giáo viên đưa ra. Phải tuỳ theo đối tượng học sinh, điều kiện dạy

học để thiết kế các hoạt động luyện đọc thật thiết thực và phong phú.
* Vận dụng và phối kết hợp nhịp nhàng giữa hai ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và
tiếng Việt, vận dụng ngay học sinh biết giao tiếp tốt bằng tiếng Việt để “phiên
dịch” cho giáo viên khi giáo viên gặp khó khăn trong dạy học hoặc trong giao
tiếp.
* Hướng dẫn cho học sinh thật tỉ mỉ, dễ hiểu, gần gũi với học sinh; luôn động
viên kịp thời sự tiến bộ của học sinh.
Với việc áp dụng những giải pháp vừa nêu, chắc chắn sẽ đem lại những kết
quả thật khả quan. Bởi vì, nếu được luyện đọc thường xuyên, hàng ngày trên lớp
thì tình trạng học sinh đọc chưa đạt ngày càng được cải thiện. Học sinh đọc ngày
càng nhanh hơn, đúng hơn. Trên cơ sở đọc đúng, đọc nhanh, giáo viên hướng
dẫn học sinh đọc hiểu ở các tiết tập đọc. Như thế ta đã thực hiện được mục tiêu
nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 2. Để làm được điều này đòi hỏi ở
người giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần có sự kiên trì, tận
tâm và lòng yêu nghế, mến trẻ, tất cả vì học sinh thân yêu.
Đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập
đọc” giúp học sinh phát âm đúng, chuẩn, đọc đúng ngữ liệu, ngát giọng đúng và
hay. Khi dạy giáo viên phải nắm vững kiến thức cơ bản, chuyện môn nghiệp vụ;
không ngừng trau dồi đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tốt cho dạy học.
Phải có tâm huyết với nghề, luôn phục tùng và hoàn thành nhiệm vụ, trách
nhiệm được giao phó.Nắm vững và biết phân loại đối tượng học sinh để lựa
chọn phương pháp dạy học tốt nhất để nâng cao chất lượng dạy học. Đầu tư
Nhiều thời gian và có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và phải chuẩn bị cả
về đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy...
Mặc dù còn khó khăn trong quá trình thực hiện phương pháp nhưng nếu
khắc phục được, tôi nghĩ đây là một việc làm rất thiết thực trong quá trình nâng
cao chất lượng đọc cho học sinh, góp phần lớn vào mục tiêu giáo dục tiểu học
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng dạy Tập đọc của lớp tôi đã
được nâng lên rất nhiều. Điều đó chứng tỏ những giải pháp mà tôi đã áp dụnglà
hoàn toàn đúng đắn và dễ áp dụng. Tôi hy vọng với những kinh nghiệm nêu trên

18


có thể mở rộng và áp dụng rộng rãi với những lớp học có điều kiện tương đồng
như trường tôi không chỉ trong huyện, trong tỉnh mà kể cả các tỉnh bạn.
3.2. Kiến nghị:
Nhằm giúp học học tốt phân môn tập đọc tôi xin có một số đề xuất như sau:
- Với nhà trường:
Nhà trường cần bổ sung thêm đồ dùng, trang thiết bị dạy học môn Tiếng Việt
nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng (Như tranh ảnh, băng hình, đèn
chiếu), tài liệu tham khảo cho giáo viên để phục vụ tốt hơn nữa cho việc dạy và
học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân về phương pháp dạy Tập đọc
cho học sinh lớp 2. Rất mong được BGH, đồng nghiệp đóng góp ý kiến .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Quảng Xương, ngày 14 tháng 4 năm 2018
………………………………………
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
……………………………………….
………………………………………... viết, không sao chép nội dung của người
khác.
………………………………………
Người viết
……………………………………….

Nguyễn Thị Huệ

19



Tài liệu tham khảo
STT
[1] 1
[2] 2

Tên tác giả
Nhiều tác giả

Tên sách
Sách giáo khoa Tiếng Việt Lớp 2

Nhiều tác giả

tập 1, tập 2
năm 2012
Sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 2 NXBGD
tập 1, tập 2
Nghị quyết Ban Chấp hành

[3] 3

NXB- năm
NXBGD

năm 2003

Trung ương Đảng khoá 8, khoá
[4] 4


11
Công văn số 896/BGD & ĐT

[5] 5

GDTH ngày 13/02/2006
Sổ tay thuật ngữ phương pháp NXBGD

MR.Lơ- vốp

dạy học Tiếng Nga.

năm 1998

DANH MỤC

20


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Huệ
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên , trường Tiểu học Quảng Nhân
Kết quả
Cấp đánh giá
đánh giá Năm học
TT Tên đề tài SKKN
xếp loại (Phòng, xếp loại
đánh giá

Sở, Tỉnh...)
(A, B,
xếp loại
hoặc C)
1. Một số biện pháp rèn kĩ Phòng GD- ĐT
C
2008- 2009
năng làm văn miệng cho
HS lớp 5
2.

3.
4.
5.

Một số biện pháp tổ chức
dạy học các dạng bài
Luyện từ và câu cho học
sinh lớp 4
Một số biện pháp giúp học
sinh xây dựng cách mở bài,
kết bài tập làm văn lớp 4
Một số kinh nghiệm giúp
học sinh học tốt dạng toán
rút về đơn vị ở lớp 3.
Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học các yếu
tố hình học ở lớp 4.

Phòng GD- ĐT


B

2010-2011

Sở GD - ĐT

B

2012- 2013

Phòng GD- ĐT

C

2013- 2014

Sở GD - ĐT

B

2014-2015

21


22




×