Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở thành phố hà nội hiện nay Khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.45 KB, 78 trang )

0

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI DI SẢN
VĂN HÓA VẬT THỂ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể
1.2. Nội dung quản lý xã hội đối với văn hóa vật thể
1.3. Những yếu tố tác động đến hoạt động quản lý xã hội đối với di sản
văn hóa vật thể
Chương 2: KHÁI QUÁT VỀ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ VÀ THỰC
TRẠNG
QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và di sản văn hóa vật thể
của thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở thành phố
Hà Nội hiện nay
Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG
QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂỞ THÀNH
PHỐ
HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Quan điểm, phương hướng của Đảng và Nhà nước ta về quản lý xã hội
đối với di sản văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội hiện nay
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở
thành phố Hà Nội hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hóa là báu vật, là niềm tự hào của mỗi quốc gia, chứa đựng
sức sống của một nền văn hóa với bản sắc riêng biệt trong đó thể hiện trình độ
và khẳng định vị thế của dân tộc.Việc quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị
di sản văn hóa, đặc biệt là di sản văn hóa vật thể có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, quản lý, bảo tồn di
sản văn hóa vật thể đã và đang là mối quan tâm có tính chất tồn cầu, trở
thành chủ đề quan trọng được bàn thảo nhiều trên các diễn đàn Quốc tế, khu
vực và các địa phương.
Ở Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới và phát triển toàn diện đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hoá vật thể của dân tộc đã được coi trọng và nâng cao một
bước. Nhiều di sản văn hố vật thể đã được giữ gìn, sưu tầm, nghiên cứu và
từng bước phát huy những giá trị văn hóa truyền thống dưới nhiều góc độ
khác nhau, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội và tạo ra một khung cảnh mới
về tham quan du lịch phục vụ nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế.
Hà Nội - nơi lắng hồn thiêng sông núi ngàn năm đã là nơi gặp gỡ, giao
thoa, hội tụ của nhiều nền văn minh lớn trong khu vực và trên thế giới, là nơi
tiếp nhận và ảnh hướng từ nhiều tư tưởng, tôn giáo như: Phật giáo, Đạo giáo,
Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Dân chủ tư sản rồi đến Chủ nghĩa Mác - Lênin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh, đã sàng lọc, tiếp biến để phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh, nét đẹp truyền thống của đất nước để có thể hội nhập và phát triển, tạo
nên bản sắc riêng biệt của Thăng Long - Hà Nội. Sự kết tinh đó đã để lại cho
Thủ đô Hà Nội hôm nay nhiều di sản văn hoá vật thể phong phú, đa dạng và
quý giá.
Nhưng hiện nay do ảnh hưởng từ mặt trái của cơ chế thị trường, xu
hướng thương mại hóa cũng như sự buông lỏng trong quản lý của Nhà nước

và các cơ quan chức năng đã dẫn đến tình trạng các giá trị di sản văn hóa vật


2

thể ở Hà Nội ngày càng bị mai một, lai căng. Một số di sản văn hóa vật thể ở
Hà Nội khơng cịn giữ được nét đẹp, giá trị truyền thống từ ngàn xưa để lại.
Vấn đề quản lý di sản văn hóa đã được nhiều cơng trình quan tâm,
nghiên cứu, song chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể về quản lý xã hội đối
với di sản văn hóa ở Hà Nội. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác
giả lựa chọn đề tài “Quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở thành
phố Hà Nội hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Quản
lý xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói nghiên cứu về di sản văn hoá vật thể là một lĩnh vực quan
trọng được rất nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu trong các cơng trình, đề tài
khoa học cũng như được đề cập tới trong hội nghị chương trình trong thời
gian qua. Tiêu biểu có các cơng trình cụ thể như:
Một là, “Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa các
dân tộc hiện nay”, Nguyễn Văn Huy, Tạp chí Cộng sản, 2003.
Bài viết của tác giải Nguyễn Văn Huy đã khái quát chung ngắn gọn về
thực trạng di sản văn hóa của cả nước (cả di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể). Tác giả đã nêu các nhiệm vụ bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa
các dân tộc dưới góc độ của lĩnh vực văn hóa nói chung, chưa nêu rõ giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đối với di sản văn hóa nói chung và di
sản văn hóa vật thể nói riêng.
Hai là, “Giữ gìn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc Tây Bắc”, Nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, 2005.
Bài viết này khái quát về về đặc điểm tự nhiên, thực trạng di sản văn
hóa và đưa ra tính cấp thiết cần quản lý hiệu quả di sản văn hóa vùng Tây

Bắc.
Ba là, “ Bảo tồn di tích trong bối cảnh hiện nay”, Nguyễn Viết Cường,
tạp chí di sản văn hóa số 2 (47) - 2014.
Tác giả Nguyễn Viết Cường đã nêu rõ tầm quan trọng của các di tích
đối với đời sống văn hóa của tồn thể dân tộc, đồng thời đưa ra những quan
điểm của cá nhân về những sai lầm mà cộng đồng dân cư thường hiểu về di


3

tích. Từ thực trạng đó tác giả cho rằng cần phải tập trung giải quyết một số
vấn đề để khắc phục những tồn tại.
Bốn là, “ Di tích và văn vật vùng ven Thăng Long”, Đỗ Thỉnh, Nhà
xuất bản Hội nhà văn.
Tác giả chủ yếu tập trung đi sâu vào việc giới thiệu các di tích và
những giá trị văn vật vùng ven Thăng Long, chưa nêu được các giải pháp
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể.
Năm là, “Danh thắng, di tích và lễ hội Việt Nam” (tập I, II, III, IV),
Nhà xuất bản Hà Nội, H.,2002 – 2004 – 2006 – 2007.
Trong cả bốn tập tác giả nghiên cứu và giới thiệu các di tích lịch sử,
danh thắng nổi bật và các lễ hội đặc sắc của Việt Nam. Trong mỗi tập tác giả
đều có nêu về thực trạng bảo tồn các di tích, danh thắng và lễ hội. Tuy nhiên
tác giả chưa nêu được giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đối với các
di tích, danh thắng và lễ hội.
Sáu là, “Thăng Long – Hà Nội, Thắng cảnh, di sản và kiến trúc”, Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội - Sở Kế hoạch kiến trúc Hà Nội (nhiều tác
giả), nhà xuất bản Thanh niên, 2000.
Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu về các di tích, thắng cảnh và tập trung
nghiên cứu về kiến trúc của các thắng cảnh, nêu lên được thực trang trong
việc quy hoạch kiến trúc đơ thị phù hợp với các di tích, thắng cảnh. Tuy nhiên

chưa đưa ra được các quan điểm, phương hướng nhằm nâng cao vai trò của
quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể.
Ở trên là những cơng trình, bài viết tiêu biểu nhất, bên cạnh đó cịn một
số cơng trình, bài viết được đăng trên các trang thơng tin khác nhau.
Có thể thấy các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đã cơ bản làm rõ về
di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa vật thể nói riêng, các di tích, danh
thắng tiêu biểu của cả nước cũng như của thành phố Hà Nội và các vấn đề
xoay quanh việc quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể, song chưa có
cơng trình, bài viết nào nghiên cứu về hoạt động quản lý xã hội đối với di sản
văn hóa vật thể trên địa bàn thành phố Hà Nội, chính vì vậy đề tài “Quản lý


4

xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội hiện nay” càng có ý
nghĩa trên thực tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận về quản lý xã hội cũng như thực trạng di sản văn hóa
vật thể, thực trạng quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở hà Nội,
khóa luận chỉ ra phương hướng, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể trong thời gian tới ở thành
phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên, khóa luận đã thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận về di sản văn hóa vật thể và quản lý xã hội
đối với di sản văn hóa vật thể.
Hai là, làm rõ thành tựu và hạn chế của quản lý xã hội đối với di sản
văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội hiện nay và phân tích những nguyên nhân

của những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trong
quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội hiện nay.
Ba là, đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý xã hội đối
với di sản văn hóa ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: đề tài nghiên cứu hoạt động quản lý xã hội
đối với di sản văn hóa vật thể trong phạm vi thành phố Hà Nội.
Về thời gian nghiên cứu: đề tài nghiên cứu hoạt động quản lý xã hội đối
với di sản văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến năm 2015.


5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Khóa luận dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp khoa học ứng dụng như:
quan sát, phỏng vấn, phân tích tài liệu, thống kê , so sánh,…
6. Đóng góp của đề tài
Có thể thấy rằng, di sản văn hóa vật thể có vai trị quan trọng đối với
đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư và quản lý xã hội đối với di sản văn
hóa vật thể là một vấn đề quan trọng để ổn định, phát triển kinh tế - xã hội,
giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong quá trình
giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa trên thế giới.Vì vậy, khóa luận đã

đóng góp, bổ sung một số giá trị, ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong
hoạt động quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể của Đảng và Nhà nước
ta.
+ Ý nghĩa lý luận: Vận dụng các kiến thức chuyên ngành quản lý xã hội
cũng như chuyên ngành văn hóa, khóa luận đã đưa ra một số cơ sở lý luận về
quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể, góp phần làm phong phú thêm
kho tàng tri thức lý luận khoa học của khoa học xã hội nói chung và khoa học
quản lý di sản văn hóa nói riêng.
+ Ý nghĩa thực tiễn: Từ việc nghiên cứu thực trạng quản lý xã hội đối
với di sản văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội giúp các chủ thể quản lý có cái
nhìn tồn diện về những mặt đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại
trong quản lý đối với di sản văn hóa vật thể, từ đó có nhận thức và hành động
tích cực để quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể có hiệu quả nhằm bảo
tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể cả ở hiện tại và trong tương
lai.


6

7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính của khóa luận bao
gồm 03 chương. Cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật
thể
Chương 2: Khái quát chung về di sản văn hóa vật thể và thực trạng
quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội hiện nay
Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý
xã hội đối với di sản văn hóa vật thể ở thành phố Hà Nội hiện nay.



7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI
DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quản lý xã hội đối với di sản văn
hóa vật thể
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa
* Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm đa nghĩa đã từng được nghiên cứu rất nhiều
và có nhiều định nghĩa khác nhau. Sở dĩ như vậy là do văn hóa được nhìn
nhận dưới nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Cuộc sống xã hội càng phát
triển thì văn hóa cũng phát triển theo và văn hóa cũng chính là động lực thúc
đẩy cho cuộc sống con người phát triển lên những bước cao hơn.
Dưới góc độ triết học văn hóa được định nghĩa “ là triết lý về cuộc
sống, về các giá trị, các tiêu chuẩn và quy chế, cách hành xử thực tế cũng như
các sản phẩm vật thể và phi vật thể được tạo ra từ những nhân tố này. Triết lý
và những sản phẩm này được con người kế thừa từ các thế hệ sau, để cuối
cùng dưới mọi hình thức khác nhau, và bằng cách này hay cách khác, phân
biệt những các thể thuộc nền văn hóa này với cá thể những nền văn hóa
khác”.
Các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam tiếp cận nghiên cứu theo
nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau về văn hóa và đã đưa ra hàng trăm định
nghĩa khác nhau về văn hóa. Nhiều khi các định nghĩa về văn hóa trở thành
đầu mối của các cuộc tranh luận lâu dài. Vì vậy khái niệm văn hóa cũng được
hiểu theo nhiều cấp độ, thậm chí có những định nghĩa rất khác nhau, vẫn còn
là một khái niệm “để ngỏ” hay cịn gọi là khái niệm mở.
Trong các ngơn ngữ phương Tây, khái niệm văn hóa được bắt nguồn từ
tiếng La Tinh: Cultus có nghĩa là trồng trọt, từ đó được hiểu rộng ra là chăm

sóc, vun trồng, chăm sóc cây cối, chăm sóc con người, trồng cây - trồng


8

người “ vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”(lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Theo từ điển tiếng việt do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng
– trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng 1998, giải thích từ văn hóa với
năm góc độ: tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong lịch sử. Nói một cách tổng quát là những hoạt động
của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống và tinh thần. Nói khái qt về
tri thức, trình độ cao trong sinh hoạt xã hội là biểu hiện cao về văn minh.
Trong trình độ chun mơn khái niệm văn hóa dùng để chỉ văn hóa của một
thời kỳ lịch sử, được xác định trên cơ sở của một tổng thể di vật lưu lại được
có những đặc điểm giống nhau.
UNESCO cho rằng: văn hóa nên được đề cập đến như một tập hợp của
những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và cảm xúc của một xã hội hay
một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng ngồi văn hóa và nghệ thuật,
cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị truyền thống và đức
tin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần. Người đã lý giải giản dị và dễ hiểu rằng: “ vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo, phát minh ra ngơn ngữ
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Tồn bộ những sáng tạo đó gọi là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loại người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Kết luận chung là nếu chúng ta nhìn một cách tổng quát, văn hóa là một

trong những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội, là một hệ thống giá trị về vật
chất và tinh thần do con người tạo ra và được con người thừa nhận như những
chuẩn mực chung, bao gồm trong đó có cái chân, cái thiện, cái mỹ.
* Khái niệm di sản văn hóa
Khái niệm di sản văn hóa rất rộng cần phải định nghĩa và tiếp cận dưới
nhiều góc độ. Từ góc độ từ điển chúng ta có thể nhận thấy:


9

Theo từ điển Việt Nam Tư điển của Hội Khai Trí Tiến Đức - Sài Gịn,
Hà Nội 1954 thì: Di có nhiều nghĩa, trong trường hợp này Di có nghĩa là để
lại.Văn là cái vẻ biểu hiển ra cho ta có thể nhìn thấy: văn vẻ, văn hóa. Hóa là
biến đổi mà thành. Văn hóa là “sự giáo dục do văn hóa đã thấm vào trí não
người ta”.(trang 151)
Theo Từ điển Tiếng Việt của viện ngơn ngữ học do Hồng Phê chủ
biên, Hà Nội - Đà Nẵng, xuất bản năm 1998 thì: khái niệm di sản được chú
thích là “tài sản của người chết để lại”; “cái của thời trước để lại”.
Văn hóa được giải thích theo năm nghĩa: “ 1. Tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thần của con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử (kho tàng văn hóa dân tộc). 2. Những hoạt động của con người nhằm
thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần - nói tổng quát - phát triển văn hóa, cơng
tác văn hóa. 3. Tri thức, kiến thức khoa học (nói khái qt) - học văn hóa,
trình độ văn hóa. 4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn
minh - sống có văn hóa, ăn nói thiếu văn hóa. 5. nền văn hóa của một thời kỳ
cổ xưa của lịch sử, được xác định trên cơ sở một tổng thể di vật tìm được có
những đặc điểm giống nhau”.
Di sản văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do cha ông ta đã
đúc kết, xây dựng và truyền lại cho chúng ta đến ngày nay. Di sản văn hóa
dân tộc bao hàm nhiều giá trị và tinh hoa do các thế hệ tiền nhân để lại và lưu

truyền. Các thế hệ người Việt Nam, ngay từ buổi đầu dựng nước đã biết tơn
trọng, sáng tạo và giữ gìn các giá trị văn hóa, đặc biệt đã biết sáng tạo và huy
động sức mạnh sức mạnh văn hóa vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc.
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Theo điều 4 của Luật
Di sản văn hóa của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì:
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa
vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,


10

được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền
khác, bao gồm tiếng nói chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật , khoa học,
ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí
quyết về nghề thủ cơng truyền thống, tri thức về y dược học cổ truyền, về văn
hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống văn hóa dân tộc và những tri thức
dân gian khác.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý xã hội
Quản lý là một dạng hoạt động xuất hiện rất sớm trong trong lịch sử,
trở thành một hoạt động phổ biến mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ

và có liên quan đến mọi người, là hoạt động tất yếu nảy sinh khi có sự tham
gia hoạt động của nhiều người nhằm hướng mọi hoạt động tới mục tiêu đề ra.
Xuất phát từ những mục đích nghiên cứu, các học giả đã đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về “Quản lý”.
Theo Henry Fayol: Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có,
gồm 5 yếu tố tạo thành là kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát.
Theo hard Koont: Quản lý là xây dựng và duy trì một mơi trường tốt
giúp con người hồn thành mục tiêu định ra.
Quản lý là thiết lập, khai thác các quan hệ cụ thể để hoạt động nhiều
người được hình thành, tiến hành trơi chảy, đạt được hiệu quả cao, bền lâu và
không ngừng phát triển. Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý một cách gián tiếp và trực tiếp nhằm thu được những diễn biến,
thay đổi tích cực.
Kế thừa và phát triển các mối quan niệm về quản lý, có thể tổng hợp và
rút ra định nghĩa về quản lý như sau:


11

Quản lý là sự tác động có ý thức, có tổ chức, có hướng đích của chủ
thể quản lý thơng qua sức mạnh quyền lực theo một quy trình với những
nguyên tắc, phương pháp, phong cách nghệ thuật và các công cụ quản lý
nhằm đạt mục tiêu của tổ chức trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
[15;14]
Từ khái niệm trên có thể thấy, quản lý chính là biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với con người, đó là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý; là sự tác động có ý thức và bằng quyền lực. Quản lý là sự tác
động theo chu trình bởi sự phối hợp giữa các nguồn lực nhằm thực hiện mục
tiêu chung; quản lý tồn tại trong môi trường luôn biến đổi. Trong tất cả các
hoạt động quản lý, quản lý xã hội là hoạt động phức tạp nhất. Bởi đối tượng

của quản lý xã hội rất đa dạng và ln ln vận động. Do đó u cầu cần huy
động các chủ thể khác nhau trong xã hội tham gia vào quá trình quản lý.
Quản lý xã hội là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý đối với các hoạt động của đời sống xã hội nhằm hướng tới mục tiêu
nhất định. Một mặt hướng tới phát triển những giá trị tốt đẹp, mặt khác hạn
chế những tác động tiêu cực tới xã hội hướng tới một xã hội phát triển toàn
diện và ổn định.[15;15]
Quản lý xã hội là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản: chủ thể
quản lý xã hội, đối tượng quản lý xã hội, mục tiêu quản lý xã hội, công cụ,
phương pháp quản lý xã hội và môi trường quản lý. Các nhân tố này có mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau để hình thành nên quy luật và
tính quy luật trong quản lý xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể
Quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể là tổng hợp các biện pháp,
luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội thích hợp nhằm bảo
vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và phát triển
bền vững kinh tế - xã hội quốc gia.
Có thể khái quát hoạt động quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể
gồm những hoạt động sau:


12

- Xây dựng, hoàn thiện, sửa đổi bổ sung hệ thống thể chế và thiết chế
về di sản văn hoá vật thể. Đầu tư ngân sách cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hoá vật thể của dân tộc.
- Tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý, nghiên cứu, sưu tầm, giới
thiệu, tổ chức bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hoá vật thể.
- Tăng cường mối quan hệ hợp tác, giao lưu quốc tế về di sản văn hoá.
- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên môn về

quản lý, nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu và bảo vệ giữ gìn di sản văn hố vật
thể.
- Tổ chức điều tra, kiểm tra việc triển khai và thực hiện Luật Di sản văn
hoá trên thực tế.
- Xử lý, giải quyết các vi phạm đối với di sản văn hố vật thể của các tổ
chức và cơng dân.
- Xử lý, giải quyết các khiếu nại, tranh chấp về di sản văn hoá vật thể.
- Tổ chức, chỉ đạo và kiểm sốt việc xã hội hố cơng tác bảo vệ, tôn
tạo, trùng tu, sửa chữa và chống xuống cấp đối với các di sản văn hoá vật thể.
Như vậy từ những hoạt động trên, có thể tổng hợp và rút ra định nghĩa
về quản lý xã hộiu đối với di sản văn hóa vật thể như sau:
Quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể là q trình chủ thể quản
lý sử dụng các cơng cụ quản lý như chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, sử dụng các cơ chế, thiết chế xã hội… nhằm phòng tránh,
ngăn chặn những tác động tiêu cực tới những di sản văn hóa vật thể, bảo vệ,
bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, phù hợp với thuần
phong, mỹ tục của dân tộc và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.


13

1.1.2. Đặc điểm quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể
1.1.2.1. Đặc điểm về chủ thể quản lý
Quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể là nhiệm vụ của mọi cấp,
mọi ngành, mọi cá nhân trong xã hội. Chủ thể quản lý xã hội đối với di sản
văn hóa vật thể rất đa dạng, là tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền trong quá
trình tác động vào đối tượng quản lý. Bao gồm Đảng, Nhà nước và các chủ
thể khác.
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam

Chủ thể quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể rất đa dạng, phong
phú. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Đảng thực hiện vai trị chỉ đạo, định hướng của mình trên những nội
dung sau: ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị và các văn bản khác nhằm triển
khai công tác bảo tồn di sản văn hóa vật thể với những mục tiêu và phương
thức thực hiện phù hợp với điều kiện, hồn cảnh xã hội, đất nước; bố trí phân
cơng cán bộ trực tiếp chỉ đạo và thực hiện việc quản lý các di sản văn hóa vật
thể; tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và toàn dân tham gia thực hiện
bảo tồn di sản văn hóa vật thể; kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện Nghị
quyết, Chỉ thị, chương trình có liên quan đến hoạt động quản lý di sản văn
hóa vật thể.
Thứ hai, Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là chủ thể trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc bảo tồn và
quản lý di sản văn hóa vật thể. Nhà nước quản lý di sản văn hóa vật thể thơng
qua việc thiết lập bộ máy quản lý. Hiện nay, để quản lý văn hóa nói chung,
quản lý di sản văn hóa vật thể nói riêng, ở nước ta đã thiết lập và ngày càng
hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý từ trung ương đến đia phương. Trong
đó bao gồm:
Một là, các cơ quan có thẩm quyền chung.
Theo nhiệm vụ quyền hạn của mình, Chính phủ thống nhất quản lý di
sản văn hóa trên phạm vi cả nước. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý
di sản văn hóa tại địa phương. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban


14

nhân dân các cấp trong quản lý di sản văn hóa được quy định cụ thể trong
Nghị định số 98/2010/ NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính Phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật di sản văn hóa.
Hai là, các cơ quan chuyên môn
Căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ của cơng tác quản lý văn hóa phù hợp
với xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, ngày 31 tháng 7 năm
2007, Quốc Hội khóa 12 ra Nghị quyết quyết định thành lập Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch trên cở sở sáp nhập Ủy ban Thể dục Thể thao, Tổng cục
Du lịch và mảng văn hóa của Bộ Văn hóa và Thơng tin Việt Nam. Bộ Văn
hóa - Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính Phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về văn hóa nói chung và di sản văn hóa vật thể nói
riêng.
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính Phủ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch
trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ cơng thuộc lĩnh vực
văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch theo quy định của pháp luật(điều
1 – Nghị định số 185/2007/NĐ/CP ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Chính
Phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn
hóa - Thể thao và Du lịch).
Trong cơ cấu của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch có Cục quản lý di
sản thực hiện chức năng chuyên môn quản lý di sản văn hóa vật thể trên cả
nước.
Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch ở cấp tỉnh và các phịng Văn hóa Thơng tin ở cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về di sản văn
hóa vật thể ở địa phương theo quy định của Luật Di sản văn hóa.
Ba là,các cơ quan nhà nước khác
Ngoài các cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng quản lý di sản văn
hóa vật thể đã nêu trên tại các khu di tích, danh thắng có Ban quản lý di tích.
Ở Thành phố Hà Nội có Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Hà Nội – Trụ sở
đặt tại 90 Thợ Nhuộm.


15


Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tun truyền, vận động các
thành viên của tổ chức, gia đình và nhân dân tham gia vào việc bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của di sản văn hóa vật thể.
Thứ tư, các thiết chế xã hội khác
Bên cạnh các chủ thể trên, hoạt động quản lý di sản văn hóa vật thể cịn
có sự tham gia của các thiết chế xã hội khác. Sự tham gia quản lý xã hội của
các thiết chế xã hội giữ vai trò quan trọng, quyết định tới sự thành công hay
thất bại của hoạt động quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể tại địa
phương. Các thiết chế xã hội khác như: các tổ chức, đoàn thể xã hội, các thiết
chế làng xã, gia đình và tồn thể nhân dân tham gia quản lý trên các phương
diện sau: tích cực và ủng hộ tham gia các hoạt động bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa vật thể tại địa phương như tuyên truyền, phổ biến chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về quản lý xã hội đối
với di sản văn hóa vật thể, giám sát các hoạt động của bộ máy quản lý, đội
ngũ cán bộ tham gia quản lý.
1.1.2.2. Đặc điểm về đối tượng quản lý
Muốn quản lý hiệu quả , các chủ thể quản lý xã hội phải nắm vững và
hiểu rõ về đối tượng quản lý.
Đối tượng của quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể được xác
định là di sản văn hóa vật thể và những vấn đề xoay quanh di sản văn hóa vật
thể. Bao gồm tổng thể các hoạt động kiểm kê, phân tích, đánh giá hiện trạng
của các di tích, danh thắng…, hoạt động trùng tu, tơn tạo, bảo tồn và phát huy
những giá trị của di sản văn hóa vật thể, và các hoạt động khác có liên quan
đén di sản văn hóa vật thể. Đối tượng của quản lý di sản văn hóa vật thể ln
gắn với truyền thống lịch sử của dân tộc. Vì vậy chủ thể quản lý cần phải hiểu
nguồn gốc, giá trị văn hóa lịch sử, hiểu được quy luật và tính quy luật của đối
tượng quản lý để có thể đưa ra được các phương pháp, chủ trương, chính sách
phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu quản lý.

1.1.2.3. Đặc điểm về phương pháp quản lý


16

Xuất phát từ đối tượng quản lý nêu trên, phương pháp quản lý xã hội
đối với di sản văn hóa được thể hiện như sau:
Một là, phương pháp hành chính
Là phương pháp tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý bằng các mệnh lệnh hành chính bắt buộc nhằm hướng các hành vi xã
hội đạt tới các mục tiêu quản lý xã hội đề ra.
Yêu cầu để sử dụng hiệu quả phương pháp này: phải có hệ thống pháp
luật quản lý xã hội đồng bộ, đầy đủ, cụ thể, ổn định, phù hợp với đông đảo
cơng dân, cơ quan, tổ chức; phải có hệ thống các cơ quan quản lý chức năng
cùng đội ngũ công chức có trình độ, kiến thức về di sản văn hóa vật thể và có
nhân cách tốt; phải có cơ quan thanh tra, kiểm sốt nhà nước cơng tâm, phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những sai phạm về di sản văn hóa vật thể.
Phương pháp này được thực hiện thông qua các quyết định, chỉ thị,
thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác về di sản văn hóa vật thể
của các cơ quan quản lý, giúp cho nhà quản lý giải quyết nhanh chóng, hiệu
quả mọi mâu thuẫn, xung đột xảy ra trong quá trình quản lý.
Hai là, phương pháp thuyết phục
Là sự tác động lên đối tượng quản lý thông qua các quá trình, quan hệ
tâm lý, tình cảm, nhận thức giúp đối tượng có được thái độ, tình cảm và nhận
thức tích cực từ đó tham gia hiệu quả vào hoạt động quản lý di sản văn hóa
vật thể.
Phương pháp này được thực hiện thông qua các hoạt động như tuyên
truyền, vận động, giáo dục… thông qua hệ thống các sách, báo, phương tiện
truyền thông, đội ngũ làm công tác tuyên truyền.
Để sử dụng hiệu quả phương pháp này, cần đảm bảo các điều kiện như:

đa dạng hóa các loại hình truyền thông và nội dung truyền thông đại chúng
nhằm cung cấp kiến thức và giáo dục một cách rộng rãi, phổ biến; Nhà nước
phải có đường lối và thể chế chính trị đúng đắn, bảo vệ và thể hiện ý chí,
nguyện vọng của nhân dân; phải có cơ quan chức năng và đội ngũ cơng chức
có phẩm chất và trình độ và cần có hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp.


17

Thông qua phương pháp này, ý thức của cộng đồng về bảo tồn và phát
huy những giá trị truyền thống của di sản văn hóa vật thể được nâng cao từ đó
tham gia quản lý di sản văn hóa vật thể tích cực và có ý thức tự giác hơn.
Ba là, phương pháp kinh tế
Là phương pháp chủ thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý thông
qua các lợi ích vật chất, làm cho đối tượng quản lý tự giác chấp hành đúng
các quy đinh, quy tắc quản lý.
Thực chất của phương pháp kinh tế trong quản lý di sản văn hóa vật thể
là việc dùng lợi ích vật chất để kích thích đối tượng thực hiện những hoạt
động bảo vệ các di sản văn hóa vật thể để các di sản còn mãi với thời gian, và
phát huy được những giá trị trong văn hóa truyền thống của dân tộc; sử dụng
biện pháp kinh tế chi phối lên động cơ hành động của con người nhờ đó biến
con người thụ động thành chủ động, sáng tạo đưa ra các sáng kiến bảo vệ
cũng như giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong các di sản văn hóa
vật thể để nhân rộng ra tất cả các địa phương trong cả nước.
Trong quản lý và bảo vệ di sản văn hóa vật thể, biện pháp kinh tế cũng
phát huy được tác dụng của nó. Cụ thể như thành lập các quỹ bảo vệ di sản
văn hóa vật thể. Đồng thời xét khen thưởng đối với những người có thành tích
cao trong bảo vệ di sản văn hóa vật thể, và kỷ luật, xử phạt đối với những cá
nhân, gia đình, tổ chức có hành vi xâm phạm làm ảnh hưởng đến di sản văn
hóa vật thể hay vi phạm pháp luật trong quá trình quản lý di sản văn hóa vật

thể để từ đó nêu cao tinh thần tự giác bảo vệ và phát huy những giá trị truyền
thống của mọi người dân trong xã hội.
1.2. Nội dung quản lý xã hội đối với văn hóa vật thể
1.2.1.Hoạch định chiến lược, chính sách và ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể
Hoạch định chiến, chính sách quản lý xã hội, chủ trương bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa nói chung và văn hóa vật thể nói riêng là một
nội dung quan trọng trong quản lý xã hội của các chủ thể quản lý. Hoạch định
chiến lược, chính sách là một quá trình bao gồm việc nghiên cứu, đề xuất ra
chính sách với các mục tiêu, giải pháp, công cụ nhằm đạt mục tiêu, được các


18

cơ quan nhà nước có thẩm quyền thơng qua và ban hành dưới các hình thức
nhất định.
Hoạch định chiến lược, chính sách là giai đoạn lập kế hoạch, mở đường
cho cả quy trình quản lý, là cơ sở, tiền đề tiến hành các giai đoạn tiếp theo
trong quá trình quản lý. Khơng có chiến lược, chính sách đúng nếu cơng tác
hoạch định chiến lược, chính sách khơng đạt hiệu quả. Chiến lược, chính sách
được ban hành là căn cứ để đánh giá q trình và kết quả thực hiện chính
sách. Việc đề ra một chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sẽ
góp phần quyết định lớn tới các kết quả tích cực trong hoạt động và ngược lại.
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý xã hội đối với di
sản văn hóa vật thể. Đây là nội dung quan trọng trong quản lý di sản văn hóa
vật thể của các chủ thể quản lý nhằm xây dựng các văn bản quy phạm pháp
luật đồng bộ, đầy đủ, cụ thể và khoa học, làm cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt
động bảo tồn và phát huy những giá trị của di sản văn hóa vật thể.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành
hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được

quy định cụ thể, trong đó có các quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc,
được Nhà nước đảm bảo thực hiện trên thực tế để điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Bao gồm các văn bản như Hiến Pháp, luật và các văn bản dưới luật khác
như: Nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị…
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý di sản văn
hóa vật thể cần được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền để góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể.
Đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa vật thể phải
phản ánh được yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình quản lý. Những văn bản này phải là công cụ hữu hiệu để các chủ thể
quản lý tác động lên các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý di sản văn
hóa vật thể.
Các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan quản lý chun mơn về di sản
văn hóa phải xuất phát từ thực tế khách quan đối với yêu cầu bảo vệ di sản


19

văn hóa vật thể, từ những vấn đề nảy sinh trong quản lý di sản văn hóa vật thể
để ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
làm nhiệm vụ quản lý di sản văn hóa vật thể
Hoạt động quản lý văn hóa nói chung và di sản văn hóa vật thể nói
riêng thành cơng hay khơng phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy và đội ngũ
cán bộ làm nhiệm vụ quản lý văn hóa. Bởi quản lý chính là hoạt động của con
người, do con người do đó nó phải được tiến hành thơng qua bàn tay khéo léo
của con người theo một bộ máy tổ chức nhất định làm nhiệm vụ quản lý.
Để hoạt động quản lý di sản văn hóa vật thể có hiệu quả, yêu cầu phải
xây dựng được bộ máy quản lý đồng bộ, có sự phân cơng chức năng, nhiệm
vụ rõ ràng giữa các bộ phận và phân cấp quản lý từ trung ương đến cơ sở theo

nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong bộ máy quản lý di sản văn hóa vật thể
phải có những cán bộ làm cơng tác quản lý có kiến thức, trình độ, kỹ năng để
thực hiện đầy đủ chức năng quản lý và hồn thành mọi nhiệm vụ được phân
cơng.
Khi bộ máy quản lý di sản văn hóa vật thể được kiện tồn về tổ chức và
nhân sự sẽ tạo điều kiện để thực hiện các hoạt động quản lý, hiện thực hóa
mục tiêu quản lý trên cơ sở huy động tối đa trí tuệ và khả năng lao động sáng
tạo, trách nhiệm của con người.
1.2.3. Chỉ đạo tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, pháp luật về
quản lý xã hội đối với di sản văn hóa vật thể
Khi chiến lược, chính sách pháp luật về quản lý di sản văn hóa vật thể
được ban hành, bộ máy quản lý vă hóa sẽ triển khai các hoạt động của mình,
ra quyết định thuộc thẩm quyền, thực hiện những nhiệm vụ cụ thể và những
giải pháp cụ thể để điều chỉnh để điều hành q trình thực hiện chính sách,
pháp luật phù hợp với thực tế, xây dựng mối quan hệ quản lý phối hợp theo
chiều dọc và chiều ngang. Trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, các nhà quản lý
đưa ra các quyết đinh quản lý chỉ đạo cho cấp dưới và đến từng thành viên để
tổ chức thực hiện.



×