Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

sáng kiến kinh nghiệm về: “ Phát triển năng lực tư duy trí tuệ của học sinh trong dạy học Vật lý lớp 8 qua phương pháp dạy học “ Đặt và giải quyết vấn đề ”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.52 KB, 8 trang )

TRƯỜNG THCS LONG BÌNH
TỔ LÝ – HÓA – SINH – ĐỊA – CÔNG NGHỆ

Sáng kiến kinh nghiệm:
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY TRÍ TUỆ CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ 8 QUA PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC “ ĐẶT VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ’’
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bộ môn Vật lý là một bộ môn rất quan trọng ở trong trường THCS. Vật lý

trang bị và bước đầu hoàn chỉnh những kiến thức khoa học, kiến thức thực tiễn.
Học sinh được rèn luyện về phẩm chất đạo đức được bồi dưỡng về thế giới quan
duy vật biện chứng, tư duy khoa học, mở rộng tầm nhìn hiểu biết khoa học.Trong
quá trình dạy học phương pháp dạy của người thầy và học của người trò là vấn đề
mà tất cả những người thầy đều quan tâm. Nếu có được phương pháp phù hợp với
đặc trưng bộ môn thì chất lượng dạy của thầy và học của trò được nâng nên rõ rệt.
Đối với bộ môn Vật lý là một bộ môn khoa học thực nghiệm, nghiên cứu các hiện
tượng sự vật trong tự nhiên, tìm ra quy luật của chúng, có nhiều ứng dụng trong
cuộc sống. Nhưng với học sinh lại là hết sức khó khăn. Với mặt bằng kiến thức
thấp, học sinh còn thụ động trong học tập nên việc dạy học Vật lý còn nhiều nan
giải. Từ những hạn chế trên của học sinh, tôi nghĩ trong quá trình dạy học phải làm
như thế nào để học sinh có thể học tốt được bộ môn Vật lý từ đó phát triển được
năng lực tư duy ngôn ngữ của các em. Vậy phải làm gì ? Làm như thế nào để học
sinh nắm được và phát triển được năng lực tư duy khoa học khi học môn Vật lý bậc
THCS. Đó chính là lí do tôi viết sáng kiến kinh nghiệm về: “ Phát triển năng lực
1


tư duy trí tuệ của học sinh trong dạy học Vật lý lớp 8 qua phương pháp dạy học “ Đặt và


giải quyết vấn đề ”.
II.

NỘI DUNG
1. Thực trạng:
Trong quá trình giảng dạy tại trường THCS Long Bình tôi nhận thấy các em

học sinh phần nhiều vẫn còn học thụ động, tư duy chưa cao chính vì thế tôi đã
mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm này phần nào đó giúp các em học sinh tại
trường học yêu thích và học tốt môn Vật Lý hơn.
2. Biện pháp thực hiện:
Để học sinh học tốt bộ môn mình phụ trách người thầy phải xác định được
phương pháp dạy của mình sao cho phù hợp với đặc trưng bộ môn. Cụ thể ở đây là
bộ môn Vật lý.
Trong quá trình giảng dạy Vật lý lớp 8 tôi đã chọn và sử dụng phương pháp
dạy học: “Đặt vấn đề và giải quyết vấn đề”. Bởi phương pháp này dạy cho học sinh
tư duy một cách khoa học, biện chứng và sáng tạo, rèn luyện phương pháp nhận
thức, khả năng tự học, biết được mỗi hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của
nó. Từ đó học sinh hiểu rõ, nhớ lâu, có khả năng biến kiến thức thành niềm tin.
Dạy học “đặt và giải quyết vấn đề” gây ở học sinh trí tò mò, tâm trạng không thoả
mãn với vốn kiến thức cũ, nhu cầu và hứng thú tìm hiểu kiến thức mới. Trong quá
trình dạy học vị trí và vai trò của học sinh được nâng cao, học sinh trở thành chủ
thể của quá trình học tập. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh đi đúng
hướng.
Dạy học và giải quyết vấn đề gồm các bước:
- Đặt vấn đề ( xây dựng tình huống có vấn đề ).
- Giải quyết vấn đề.
- Vận dụng và củng cố kiến thức mới.
2.1 Bước 1: Đặt vấn đề:
2



Đặt vấn đề là trong quá trình giảng dạy, phải trình bày tài liệu sao cho các
vấn đề học tập nảy sinh từ sự tất yếu hay từ sự xâm nhập ngày càng sâu hơn của
hiện tượng được nghiên cứu và quy luật của chúng, hay giải quyết một nhiệm vụ
thực tiễn nào đó mà học sinh có thể hiểu được. Bản thân cái mới trong kiến thức
sắp học là điều kiện cần nhưng chưa đủ để gây sự quan tâm của học sinh với tài
liệu học tập. Cơ sở của việc đặt vấn đề là kiến thức mới và “mối quan hệ bất
thường” giữa kiến thức cũ và kiến thức mới (mâu thuẫn nhận thức). Kết thúc phải
bằng câu hỏi nêu vấn đề.
a) Ví dụ 1: Khi dạy bài “Công cơ học” tôi đã đặt vấn đề như sau:
“Công” là một danh từ thường được dùng đời sống hằng ngày. Khi làm một
bài tập hay kéo một cái xe, nói chung khi làm bất cứ một việc gì ta đều nói “phải
tốn công”. Khái niệm công đó khác với khái niệm “công” trong cơ học, trong cơ
học không có nghĩa hẹp hơn. Khái niệm “công” trong cơ học khác với khái niệm
công trong đời sống như thế nào ? Bài học ngày hôm nay sẽ giải đáp câu hỏi đó.
b) Ví dụ 2: Khi dạy mục: “Tính dẫn nhiệt của các chất” trong bài “Dẫn nhiệt”.
Tôi đặt vấn đề như sau: Từ thí nghiệm ở mục 1 biết sắt dẫn nhiệt nhưng chất
nào dẫn nhiệt tốt hơn. Tại vì mũi dùi lại được làm bằng sắt, cán được làm bằng
gỗ ? Mục 2 sẽ trả lời câu hỏi đó.
2.2 Bước 2: Giải quyết vấn đề, phát hiện kiến thức mới.
Giáo viên hướng dẫn học sinh chủ động giải quyết vấn đề và phát hiện kiến
thức theo con đường quy nạp bằng cách: Hướng dẫn học sinh các hiện tượng Vật lí
tiến hành các thí nghiệm Vật lí. Dựa trên cơ sở đó hướng dẫn học sinh phân tích,
tổng hợp, so sánh các hiện tượng quan sát được để phát hiện kiến thức. Với những
bài học có thí nghiệm đơn giản, dụng cụ làm thí nghiệm dễ kiếm. Tôi tổ chức thí
nghiệm đồng loạt do học sinh tiến hành.
Trở lại hai ví dụ trên, để minh hoạ hướng dẫn học sinh cách giải quyết vấn
đề:
3



a) Ví dụ 1: Bài “Công cơ học”:
- Giáo viên giới thiệu với học sinh cả lớp một số thí dụ thực hiện công cơ
học bằng tranh minh hoạ:
1) Người thợ xây kéo thùng vữa lên cao để xây nhà.
2) Một người đẩy một chiếc xe chở hàng.
3) Con bò kéo xe.
Hỏi:

Để đưa thùng vữa nên cao người thợ xây phải làm gì ?

Trả lời: Để đưa thùng vữa nên cao người thợ xây phải tác dụng vào thùng vữa
Hỏi:

một lực kéo (qua dây).
Để đưa xe hàng tới chỗ cần thiết người thợ phải làm gì ?

Trả lời: Tác dụng vào xe một lực đẩy.
Hỏi:

Con bò phải làm gì để có thể kéo xe ?

Trả lời: Con bò phải tác dụng lực kéo vào xe.

Sau khi phân tích xong yêu cầu học sinh điền vào dấu (...) trong bảng:
TT

Ví dụ


Hiện tượng

Nguyên nhân

1.

Thợ xây kéo thùng vữa

Thùng vữa bị đưa lên cao

2.

Người thợ đẩy xe hàng

.............................................

................................................

3.

Con bò kéo xe

.............................................

.................................................

Người thợ xây tác dụng lực
kéo

Hỏi: Từ bảng hãy cho biết trong các ví dụ thực hiện công cơ học trên có đặc

điểm gì giống nhau ?
Kết hợp các câu trả lời của học sinh để đi đến kết luận: Có hai đặc điểm
giống nhau:
- Có lực tác dụng.
- Có dịch chuyển dưới tác dụng của lực đó.
Giáo viên nói: Hai đặc điểm đó không chỉ có trong 3 thí dụ thực hiện công
cơ kể trên. Giáo viên lấy thêm thí dụ, phản thí dụ và phân tích.
4


Yêu cầu học sinh lấy thí dụ và chỉ ra lực tác dụng, quãng đường dịch chuyển
trong mỗi thí dụ.
Giáo viên nói: Hai đặc điểm đó để có công cơ học, nó giúp ta phân biệt công
trong đời sống và khái niệm công cơ học. Thiếu một trong hai điều kiện trên thì
không có công cơ học.
Từ đó đi đến kết luận: Công cơ học có khi:
- Có lực tác dụng vào vật.
- Vật chuyển dời do tác dụng của lực đó.
b) Ví dụ 2: Dạy mục: “Tính dẫn nhiệt của các chất” trong bài “Dẫn nhiệt”. Tôi
đã tiến hành giải quyết vấn đề bằng cách tổ chức cho học sinh trong lớp làm thí
nghiệm đồng loạt theo bàn (một bàn có hai học sinh)
Dụng cụ thí nghiệm: Cho mỗi bàn:
Một đèn cồn; một ống nghiệm; 1 que tre.
Hai đoạn dây: Một bằng đồng, một bằng sắt có kích thước giống nhau.
Thí nghiệm 1: Về tính dẫn nhiệt của thuỷ tinh và không khí.
- Yêu cầu học sinh lấy ngón tay trỏ nút miệng ống thuỷ tinh và hơ đáy ống
vào ngọn lửa đèn cồn.
Hỏi: Các em cảm thấy nóng nhiều không ?
Trả lời: Ngón tay nóng lên rất ít.
Hỏi: Có nhận xét gì về tính dẫn nhiệt của ống thuỷ tinh và không khí trong ống ?

Trả lời: Thuỷ tinh và không khí dẫn nhiệt kém.
Thí nghiệm 2: Về tính dẫn nhiệt của gỗ, tre.
- Yêu cầu hơ nóng một đầu que ngọn lửa đèn cồn, tay nắm đầu kia của que tre.
Hỏi: Đầu que em cầm có nóng lên nhiều không ?
Trả lời: Nóng lên rất ít.
Hỏi: Từ đó có thể kết luận gì về tính dẫn nhiệt của gỗ, tre.
Trả lời: Tre gỗ dẫn nhiệt kém.
Thí nghiệm 3: So sánh tính dẫn nhiệt của đồng, sắt.
5


- Yêu cầu nối hai đoạn dây đồng, sắt có kích thước như nhau vào hai cột của hai giá
thí nghiệm trên mỗi đoạn có gắn những mẩu sáp nhỏ.
Hỏi: Thấy sáp ở dây đồng hay dây sắt chảy ra nhanh hơn ?
Trả lời: Sáp trên dây đồng chảy ra nhanh hơn.
Hỏi: Từ đó có thể kết luận gì về tính dẫn nhiệt của đồng và sắt ?
Trả lời: Đồng và sắt cùng dẫn nhiệt tốt nhưng đồng dẫn nhiệt tốt hơn ?
Thí nghiệm 4: Về tính dẫn nhiệt của nước
Đổ gần đầy nước vào ống nghiệm và thả con cá nhỏ vào trong cầm nghiêng ống
bằng kẹp hơ phần trên của ông cho tới khi nước sôi.
Hỏi: Cá có chết vì nước không ?
Trả lời: Không
Hỏi: Điều đó chứng tỏ gì ? Có thể có kết luận gì về tính dẫn nhiệt của nước.
Trả lời: Nước dẫn nhiệt kém.
Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh tổng hợp kết quả các thí nghiệm để đi
đến thí nghiệm trong sách giáo khoa.
2.3 Bước 3: Vận dụng củng cố, kiến thức mới:
Là giai đoạn cuối cùng của quá trình dạy học “đặt và giải quyết vấn đề”.
Nhưng nó có vai trò rất quan trọng, nhắc lại một cách ngắn gọn tiến trình công việc
trong giờ học nêu bật ra những điều căn bản, nêu câu hỏi kiểm tra lật ngược vấn

đề, xoáy vào khía cạnh của nội dung cơ bản mà học sinh dễ nắm một cách hời hợt
hoặc sai lệch.
Trở lại hai ví dụ trên:
a) Ví dụ 1: Sau khi học xong mục “cách tính công” của bài “Công cơ học”.
Tôi củng cố bằng các câu hỏi sau:
- Những điều kiện để có công cơ học ?
- Độ lớn của công cơ học phụ thuộc vào những yếu tố nào ?
- Có thể tính công bằng biểu thức nào ? Khi sử dụng biểu thức ấy để tính
công những đơn vị tương ứng là những đơn vị nào ?
6


- Bài tập nhỏ: Nếu biết lực kéo cày của con trâu là F = 600N xiên góc với
luống cày và con trâu kéo cày đi được 20m thì có tính được công thực hiện bởi trâu
không ? (Có hình vẽ minh hoạ)
Qua củng cố giáo viên lưu ý được những ý chính của bài và lực kéo của trâu
xiên góc với hướng dịch chuyển nên không thể tính công bằng công thức trên
được. Cách tính công trong trường hợp xiên góc sẽ học ở lớp trên.
b) Ví dụ 2: Sau khi học xong bài “dẫn nhiệt” củng cố bằng câu hỏi:
- Dẫn nhiệt là gì ? Giải thích cơ chế của sự dẫn nhiệt.
- Cho biết tại sao mũi dùi được làm bằng sắt cán dùi được làm bằng gỗ ?
c) Ví dụ 3: Sau khi dạy xong về “các loại máy cơ đơn giản” tôi đặt câu hỏi có
tính tổng hợp vừa để củng cố học sinh và học sinh thấy được ứng dụng thực tiễn
của Vật lý trong đời sống:
- Tìm xem ở máy khâu, người ta đã áp dụng những loại máy cơ đơn giản ở
những bộ phận nào ? Tác dụng của những máy cơ đơn giản trong những bộ phận
đó.
3. Kết quả
Khi sử dụng phương pháp dạy học “ Đặt và giải quyết vấn đề ” giúp cho học
sinh học tốt môn Vật lý có hứng thú với môn học. Biết quan sát và biết giải thích

nguyên nhân của mỗi hiện tượng liên quan đến bài học.
Ngay từ khi dạy những khái niệm cơ bản đầu tiên tôi đã lưu ý cho học sinh
về bản chất của các hiện tượng Vật lý, sử dụng chính xác các thuật ngữ Vật lý
trong cách diễn đạt.Với những có khái niệm khó, ví dụ, thí nghiệm trừu tượng với
học sinh, tôi đã mạnh dạn lựa chọn những ví dụ có trong thực tế địa phương gần
gũi với học sinh, thực hiện những thí nghiệm đơn giản.
Qua việc dẫn dắt hướng dẫn học sinh học tập theo phương pháp đã thực hiện
đạt được 95% học sinh hiểu bài; tự lấy được ví dụ, phân tích ví dụ về một hiện
tượng vật lý giáo viên yêu cầu.
7


4. Phạm vi áp dụng
Với sáng kiến kinh nghiệm trên của tôi có thể áp dụng được nhiều môn học
tự nhiên. Tuy nhiên tôi nhận thấy nên áp dụng cho môn Vật Lý bậc THCS là rất
phù hợp để giúp các em lĩnh hội kiến thức tốt hơn, có kết quả học tập cao hơn.
III.

KẾT LUẬN

Trong quá trình giảng dạy tôi thấy: Để đạt được kết quả tốt và phát huy tính
tích cực của học sinh thì học sinh phải được làm việc chủ động hoạt động, tìm
kiếm kiến thức, giáo viên là người hướng dẫn, hướng học sinh đi đúng, tránh
những cố gắng không cần thiết, giáo viên bao quát, giúp đỡ được mọi đối tượng
học sinh trong lớp.
Để phương pháp dạy học “ Đặt và giải quyết vấn đề ” nhằm Phát triển năng
lực tư duy trí tuệ của học sinh trong dạy học Vật lý lớp 8 thì rất cần sự hỗ trợ của Ban giám
hiệu nhà trường cùng các thầy cô giáo góp ý để chuyên đề ngày càng hoàn thiện hơn.
Người viết


Phạm Thị Hương

8



×